Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường sinh thái ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.01 KB, 86 trang )

Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

ĐÀO THỊ TÂM

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀO VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2013

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====



ĐÀO THỊ TÂM

SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN
VÀO VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN THỊ HỒNG LOAN

HÀ NỘI - 2013

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới cô giáoT.S.Trần Thị Hồng Loan người đã tận tình chỉ bảo hướng dẫn em hoàn
thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong khoa Giáo dục Chính trị đã
nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa và Ban Giám hiệu nhà

trường đã tạo điều kiện tốt nhất cho em được học tập và nghiên cứu tại trường.
Vì điều kiện thời gian có hạn, khóa luận còn nhiều thiếu sót, kính mong
quý thấy cô và mọi người chỉ bảo thêm và cho ý kiến đóng góp.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận

Đào Thị Tâm

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận
tình của cô giáo - T.S. Trần Thị Hồng Loan.
Khóa luận với đề tài “Sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo
vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay” chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Nếu có gì sai phạm người viết sẽ chịu
mọi hình thức kỷ luật theo đúng quy định của việc nghiên cứu khoa học.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Tác giả khóa luận


Đào Thị Tâm

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNMT

Công nghệ môi trường

MTST

Môi trường sinh thái

MTTN

Môi trường tự nhiên


PTBV

Phát triển bền vững

TN - MT

Tài nguyên - môi trường

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ MÔI
TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ....................................... 7
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm toàn
diện ................................................................................................................ 7
1.2. Môi trường sinh thái .............................................................................. 15
1.3. Nội dung sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường
sinh thái ở Việt Nam hiện nay ...................................................................... 32
Chương 2: THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO
VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...... 41
2.1. Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến môi
trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay ........................................................... 41

2.2. Thực trạng sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường
sinh thái ở Việt Nam hiện nay ...................................................................... 44
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀO
VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .... 61
3.1. Một số phương hướng chủ đạo trong việc bảo vệ môi trường sinh thái ở
Việt Nam hiện nay ....................................................................................... 61
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sự vận dụng quan
điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay .. 64
KẾT LUẬN.................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 79

K35 - GDCT

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trái đất là ngôi nhà chung của thế giới, là nơi sự sống của con người
được sinh sôi, nảy nở. Sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của các cuộc cách
mạng công nghiệp, cách mạng khoa học kĩ thuật cùng với quá trình công
nghiệp hóa trong hơn ba thế kỷ qua đã và đang làm biến đổi nhanh chóng và
sâu sắc không chỉ bộ mặt của xã hội loài người mà của cả tự nhiên.
Những biến đổi đó một mặt, đã thúc đẩy nền văn minh hiện đại tiến
nhanh hơn bất kỳ một giai đoạn văn minh lịch sử nào trước đây. Song mặt

khác, cũng đang bộc lộ tất cả các mâu thuẫn gay gắt chưa thể điều hòa được
giữa sự tiến bộ của khoa học và công nghệ với việc bảo vệ những điều kiện tự
nhiên cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với sự phát
triển nhanh chóng của kinh tế cũng là sự suy thoái trầm trọng về môi trường
sinh thái. Đó không còn là vấn đề của riêng quốc gia nào mà giờ đây, ô nhiễm
môi trường đã trở thành mối quan tâm, lo lắng của toàn nhân loại vì sự sống
còn của toàn thế giới.
Đây là yêu cầu chung đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, không
phân biệt trình độ phát triển hay chế độ xã hội vì tất cả mọi người trên trái đất
này đều sống chung trong một môi trường tự nhiên, đúng như tổng thống
Nam Phi T.Mơbeki đã phát biểu trong hội nghị này: Quả đất là ngôi nhà
chung của mọi người tất cả chúng ta phải nâng niu, phải chung sức bảo vệ sự
trong sạch và phát triển bền vững cho nó.
Để có thể đạt được sự phát triển bền vững thì các quốc gia đều phải thực
hiện phát triển kinh tế trong mối quan hệ phát triển chặt chẽ với đảm bảo công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Như vậy, bảo vệ môi trường sinh thái là
chúng ta đang bảo vệ chính bản thân mình, bảo vệ ngôi nhà của sự sống.
Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, Việt Nam tuy mới
bước vào con đường phát triển kinh tế nhưng đã phải đối mặt với nhiều vấn
K35 - GDCT

1

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan


đề môi trường nghiêm trọng. Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ này, trong thời gian qua chúng ta đã
không ngừng tận dụng đến mức tối đa những tiềm năng của đất nước về vốn,
con người, tài nguyên thiên nhiên. Nhờ vậy, nền kinh tế nước ta đã có sự phát
triển vượt bậc, đời sống vật chất của nhân dân đã từng bước được nâng cao.
Vì mục đích thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa với xuất phát điểm thấp và còn có những yếu tố lạc hậu, cho nên
chúng ta đã khai thác đến mức tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có và
coi đó như một biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy sự phát triển. Chính vì vậy
mặc dù nền kinh tế nước ta có sự tăng trưởng đáng kể nhưng tài nguyên thiên
nhiên lại bị cạn kiệt nhanh chóng, các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp bị
coi nhẹ, thậm chí bị lãng quên và môi trường sống của chúng ta bị ô nhiễm
trầm trọng.
Cùng với đó là sự bùng nổ về dân số và sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ đã tác động to lớn đến môi trường sinh thái, hàng loạt các
vấn đề môi trường đã nảy sinh như: suy thoái tài nguyên đất, tài nguyên rừng,
giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí, tiếng ồn, tài
nguyên khoáng sản bị khai thác cạn kiệt,… Tất cả những điều này đã và đang
từng ngày, từng giờ tác động không tốt tới cuộc sống của chúng ta “cuộc sống
của chúng ta đang bị đe dọa”. Để khắc phục thực trạng này và đưa đất nước
phát triển bền vững, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là cùng chung tay bảo
vệ môi trường, phải có một cách nhìn toàn diện về vấn đề này. Từ đó, đưa ra
những giải pháp đồng bộ nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường sinh thái ở
Việt Nam hiện nay. Chính vì những lý do trên mà tôi đã chọn đề tài “Sự vận
dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
hiện nay” cho khóa luận của mình.

K35 - GDCT


2

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ giá trị vô cùng to lớn của môi trường sinh thái đối với sự
tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người, bảo vệ môi trường đã
trở thành vấn đề chung của toàn cầu và là khẩu hiệu hành động của thời đại.
Chính vì vậy, nhiều cuộc hội nghị, hội thảo khoa học ở các cấp độ quốc tế,
khu vực và quốc gia về bảo vệ môi trường sinh thái đã được tiến hành; nhiều
tổ chức, các công ước quốc tế, nghị định thư và chương trình nghiên cứu môi
trường được xây dựng, triển khai hoạt động.
Ở Việt Nam vấn đề bảo vệ môi trường được Đảng, Nhà nước và các nhà
khoa học đặc biệt quan tâm, nhất là kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi
mới và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự ra đời của Luật
Bảo vệ môi trường (năm 1993), hàng loạt các văn bản dưới luật liên quan đến
vấn đề này được ban hành và tổ chức thực hiện trong phạm vi cả nước. Đặc
biệt tại hội nghị khoa học toàn quốc về môi trường được tổ chức lần thứ nhất
vào năm 1998 và nhiều hội nghị, hội thảo cấp quốc gia khác, các nhà khoa
học và lãnh đạo Sở khoa học - Công nghệ - Môi trường các địa phương đã
phân tích khá chi tiết hiện trạng môi trường với những biểu hiện đa dạng của
nó; đề xuất những giải pháp nhằm ngăn chặn thảm họa môi trường có thể xảy
ra. Nhất là với chỉ thị về “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 6 năm 1998 đã góp phần tích cực vào

việc đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường ở nước ta.
Ngoài ra, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về môi trường
được đăng tải dưới nhiều hình thức bài tạp chí, sách chuyên khảo,… Trong đó
có thể kể đến công trình nghiên cứu của một số tác giả sau:
“Môi trường sinh thái - vấn đề và giải pháp” của Phạm Thị Ngọc Trầm,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.

K35 - GDCT

3

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Nguyễn Tiến Hùng “Vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở ngoại thành Hà Nội hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2009.
“Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội”, của
tập thể tác giả do Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
“Môi trường và ô nhiễm” của Lê Văn Khoa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995.
“Sinh thái và môi trường” của Nguyễn Văn Tuyên, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1997.
“Con người và môi trường” của Mai Đình Yên, Nxb Giáo dục, 1994.
Các công trình trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau của môi
trường, nguyên nhân và thực trạng gây ô nhiễm môi trường, từ đó đưa ra các

giải pháp để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, chưa có một
công trình nghiên cứu nào đề cập tới việc Vận dụng quan điểm toàn diện vào
việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kế thừa và
phát huy những kết quả đã thu đạt được của các công trình nghiên cứu kể
trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu nội dung này, nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả của công tác bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Làm rõ sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường
sinh thái ở Việt Nam hiện nay và thực trạng của sự vận dụng đó; trên cơ sở
đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sự vận dụng quan điểm
toàn diện vào bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ về mặt lý luận của quan điểm toàn diện trong triết học và
các quan niệm về môi trường sinh thái; trình bày nội dung sự vận dụng quan
điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường sinh thái.

K35 - GDCT

4

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

- Làm rõ thực trạng của sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc bảo
vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.

- Chỉ ra nguyên nhân của các thực trạng ấy, từ đó, đề ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sự vận dụng quan điểm toàn diện vào việc
bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng:
Khóa luận tập trung nghiên cứu sự vận dụng quan điểm toàn diện vào
việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi:
Đây là một đề tài rộng có liên quan đến nhiều ngành khoa học. Trong
phạm vi khóa luận này, tôi chỉ giải quyết vấn đề dưới góc độ chuyên ngành
Triết học
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu và trình bày của khóa luận dựa trên cơ sở lý luận,
nguyên tắc và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, phương pháp logic - lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khoa học
khác: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam có liên quan đến đề tài.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Khóa luận đã nghiên cứu một cách toàn diện thực trạng sự vận dụng
quan điểm toàn diện vào việc bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam hiện
nay, từ đó góp phần :
- Nâng cao nhận thức trong việc giải quyết vấn đề “môi trường sinh
thái” - một vấn đề cấp bách không chỉ đối với Việt Nam nói riêng mà còn đối
với thế giới nói chung.
- Từ việc nghiên cứu thực trạng sự vận dụng quan điểm toàn diện vào
việc bảo vệ môi trường sinh thái, khóa luận đã chỉ ra được nguyên nhân của
K35 - GDCT

5


Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

thực trạng đó và đề ra một số giải pháp để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi
trường sinh thái.
- Khóa luận có thể làm tư liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
vấn đề môi trường.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương và 7 tiết.

K35 - GDCT

6

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM TOÀN DIỆN VÀ MÔI TRƯỜNG
SINH THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - cơ sở triết học của quan điểm

toàn diện
1.1.1. Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
 Khái quát về phép biện chứng duy vật
Trong tác phẩm “Bút kí triết học” hơn ba lần Lênin đưa ra định nghĩa về
phép biện chứng và Ăngghen đã có định nghĩa vô cùng chính xác về phép
biện chứng như sau: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về
những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã
hội loài người và của tư duy” [16, tr.201]. Như vậy, phép biện chứng có một
quá trình hình thành lâu dài. Phép biện chứng ra đời từ khi triết học ra đời với
ba hình thức cơ bản là phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện
chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật. Trong đó phép biện chứng duy
vật là hoàn bị và trở thành phương pháp luận đúng đắn nhất, khoa học nhất.
Với câu nói nổi tiếng của mình “Không ai tắm hai lần trên cùng một
dòng sông”, Hêraclit trở thành nhà tư tưởng biện chứng tiêu biểu thời Hy Lạp
cổ đại. Ngoài ra phải kể đến tư tưởng biện chứng trong thuyết Âm Dương ngũ
hành của triết học Trung Hoa cổ đại. Phép biện chứng cổ đại, kể cả trong triết
học phương Đông và phương Tây đều xem xét mọi sự vật hiện tượng trong sự
sinh thành, biến hóa và trong những mối liên hệ vô cùng vô tận. Tuy còn
mang tính chất phác ngây thơ, mới chủ yếu dựa trên những phỏng đoán,
những trực kiến thiên tài chứ chưa phải chủ yếu dựa trên kết quả khoa học
nhưng về căn bản là đúng. Phép biện chứng thời cổ đại đã phác họa ra được
bức tranh chung về thế giới trong tác động qua lại chằng chịt lẫn nhau giữa
các bộ phận, các yếu tố của chúng. Nó đã đặt nền móng cho sự hình thành,
phát triển của các quan niệm biện chứng về thế giới trong nhiều thế kỷ sau.
K35 - GDCT

7

Khóa luận tốt nghiệp - 2013



Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là hình thức thứ hai
trong lịch sử phép biện chứng, khởi đầu là I.Kant và người hoàn thiện là
Hêghen. Hêghen là nhà khoa học duy tâm khách quan, tư tưởng biện chứng
của ông thể hiện ở chỗ ông là người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên,
lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến
đổi và phát triển không ngừng. Tuy nhiên ông lại duy tâm khi coi “Ý niệm
tuyệt đối” tha hóa thành vận động của giới tự nhiên và xã hội cuối cùng trở về
với chính mình trong tinh thần thế giới. Thực chất của phép biện chứng duy
tâm khách quan của Hêghen là phép biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện
chứng của sự vật. Phép biện chứng cổ điển Đức có những đóng góp to lớn vào
sự phát triển của tư duy biện chứng nhân loại, thúc đẩy tư duy biện chứng lên
một trình độ cao. Nhưng với hạn chế duy tâm, nó chưa thể trở thành cơ sở lí
luận của một thế giới quan khoa học.
Tới thế kỉ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, nhiều phát minh
khoa học ra đời trở thành cơ sở cho sự ra đời triết học Mác. Triết học Mác là
triết học hoàn bị nhất với thế giới quan khoa học và phương pháp luận biện
chứng. Đây là hình thức cao nhất của phép biện chứng. Phép biện chứng được
C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát triển. Các ông
đã gặt bỏ tính chất duy tâm, thần bí, kế thừa hạt nhân hợp lí trong phép biện
chứng cổ điển Đức (trực tiếp là phép biện chứng của Hêghen). Trên cơ sở
những thành tựu lí luận, khoa học của nhân loại, trên cơ sở đúc kết từ thực
tiễn xã hội, các ông đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật, hình thức cao
nhất của phép biện chứng.
Trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng và
phương pháp luận biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Phép biện

chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến phát triển
dưới hình thức hoàn bị nhất. Nó bao gồm một hệ thống các nguyên lí về mối

K35 - GDCT

8

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

liên hệ phổ biến. Nó đồng thời là lí luận nhận thức và logic học của chủ nghĩa
Mác, có sự thống nhất trong nó giữa tính cách mạng, tính khoa học, tính thực
tiễn, trở thành phương pháp luận chung nhất cho mọi hoạt động nhận thức và
thực tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội của con người.
 Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến
Khi giải thích về sự tồn tại của thế giới, những câu hỏi được đặt ra là:
Các sự vật, hiện tượng và quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua
lại, tác động ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định những mối liên hệ đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho rằng,
các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh
cái kia, giữa chúng không có mối liên hệ ràng buộc, quy định và chuyển hóa
lẫn nhau, nếu có chỉ là những liên hệ có tính ngẫu nhiên, bề ngoài. Hạn chế
của quan điểm siêu hình là sai lầm về thế giới quan triết học, dựng lên ranh
giới giả tạo giữa các sự vật, hiện tượng. Hạn chế này có nguồn gốc bởi

phương pháp tư duy siêu hình, nghiên cứu tách rời các lĩnh vực, bộ phận riêng
rẽ của thế giới.
Đối lập với quan điểm siêu hình, những người theo quan điểm biện
chứng cho rằng, các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại
độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Thế giới như
một chỉnh thể thống nhất, trong đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, những người theo quan điểm chủ nghĩa
duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, cái quy định
mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực
lượng tinh thần siêu tự nhiên hoặc cảm giác, ý thức của con người. Ví dụ như

K35 - GDCT

9

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

đứng trên quan điểm duy tâm chủ quan, Beccơli cho rằng: Cảm giác là nền
tảng mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, còn Hêghen xuất phát từ lập
trường duy tâm khách quan lại cho rằng: “Ý niệm tuyệt đối” là nền tảng của
mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
tạo thành thế giới. Tất cả những sự vật, hiện tượng đó chỉ là những dạng khác

nhau của một thế giới duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất.
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan chỉ biểu hiện sự tồn tại
của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất tính
quy luật của sự vật, hiện tượng cũng chỉ bộc lộ thông qua sự tác động qua lại
giữa các mặt của bản thân chúng hay sự tác động của chúng với các sự vật,
hiện tượng khác.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, mối liên hệ phổ biến có các tính
chất:
- Tính khách quan: Có thể khẳng định, mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng là khách quan, vốn có vì nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của
thế giới. Biểu hiện trong tất cả các quá trình: Tự nhiên, xã hội và tư duy, sự
vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất của các mặt đối lập và sự vật,
hiện tượng nào cũng tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác.
Các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó không phụ thuộc vào
ý thức của con người.
- Tính phổ biến: Không chỉ mang tính khách quan, mối liên hệ còn
mang tính phổ biến, mối liên hệ của tính phổ biến thể hiện:
+ Thứ nhất, bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng liên hệ với các sự vật,
hiện tượng khác. Không có sự vật, hiện tượng nào nằm ngoài mối liên hệ.
Chính vì vậy, hiện nay trên thế giới xuất hiện xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa mọi mặt của đời sống xã hội.
K35 - GDCT

10

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm


GVHD: Trần Thị Hồng Loan

+ Thứ hai, mối liên hệ thể hiện dưới những hình thức riêng biệt, cụ thể
tùy theo từng điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình thức nào cũng chỉ là
biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất. Phép biện chứng duy vật
nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, bao quát nhất của thế giới. Bởi thế
Ăngghen viết: “Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những
quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy” [14, tr.181]. Cùng với lý do trên, triết học gọi mối liên
hệ đó là mối liên hệ phổ biến. Nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các
mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới còn thấy rõ tính đa dạng,
phong phú nhiều vẻ của nó.
- Tính đa dạng: Có thể phân chia các mối liên hệ đa dạng thành từng
loại tùy theo tính chất: đơn giản hay phức tạp, phạm vi rộng hay hẹp, độ nông
hay sâu, vai trò trực tiếp hay gián tiếp. Mà có thể khái quát thành những mối
liên hệ khác nhau tùy theo từng cặp: mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên
ngoài, mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ bản chất và
mối liên hệ không bản chất. Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận
động và phát triển của bản thân các sự vật, hiện tượng quy định tính đa dạng
của các mối liên hệ. Các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
được khái quát trong các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng:
+ Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng.
+ Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả.
+ Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng.
+ Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức.
+ Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực.
Mỗi loại mối liên hệ nêu ra trên đây có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên trong là sự tác động qua lại, sự


K35 - GDCT

11

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

quy định chuyển hóa lẫn nhau, giữa các yếu tố, các thuộc tính của các mặt của
sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các
mối liên hệ khác nhau cũng có mối quan hệ biện chứng như mối liên hệ biện
chứng của các cặp mối liên hệ đã nêu trên.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ
phổ biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau theo
phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của
chính các sự vật. Tuy sự phân chia các mối liên hệ chỉ mang tính tương đối
nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết. Bởi vì, mỗi loại mối liên hệ đều có vị
trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Con người phải nắm bắt đúng các mối liên hệ đó để có cách tác động phù hợp
nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong họat động của mình.
Như vậy có thể khẳng định, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
cũng luôn tồn tại trong mối liên hệ mật thiết với các sự vật, hiện tượng khác.
Do đó, muốn tìm hiểu về một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta phải đặt
trong mối liên hệ, quan hệ với xung quanh. Nghĩa là, phải xem xét một cách
toàn diện, đó chính là nguyên tắc phương pháp luận rút ra từ nguyên lý mối
liên hệ phổ biến.

1.1.2. Những nguyên tắc, phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến
 Quan điểm toàn diện
Từ việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật, rút ra quan điểm toàn diện. Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới
đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng khác và mối liên hệ
rất đa dạng, phong phú. Do đó, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta
phải có quan điểm toàn diện, tránh rơi vào quan điểm phiến diện. Trên cơ sở

K35 - GDCT

12

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

quán triệt quan điểm toàn diện trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn,
quan điểm toàn diện đặt ra yêu cầu sau:
- Thứ nhất, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
trong tác động giữa sự vật đó với sự vật khác. Cần tránh quan điểm phiến
diện, chỉ xem xét sự vật, hiện tượng ở một hoặc một vài mối liên hệ mà đã vội
vàng đi đến những kết luận về bản chất sự vật.
- Thứ hai, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối
liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu, mối liên hệ tất nhiên,… Để hiểu rõ bản

chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của bản thân. Trong nhận thức và hoạt động, chúng
ta cần chú ý sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định.
- Thứ ba, quan điểm toàn diện cũng đòi hỏi tránh rơi vào những sai lầm
của chủ nghĩa triết trung và thuật ngụy biện. Thực chất chủ nghĩa triết trung là
sự kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ tạo nên một hình ảnh không đúng về
sự vật. Thực chất của thuật ngụy biện là sự “đánh tráo” có dụng ý, biến cái
không cơ bản thành cái cơ bản, không bản chất thành bản chất… hoặc ngược
lại, phản ánh sai lệch, xuyên tạc sự vật, ví dụ: Để bảo vệ môi trường sinh thái
ngoài việc ban hành luật và chính sách bảo vệ môi trường, thì cần phải tiến
hành đồng bộ nhiều biện pháp bảo vệ môi trường trên nhiều khía cạnh và các
lĩnh vực,bảo vệ đồng bộ các bộ phận cấu thành môi trường sinh thái như: nếu
chỉ làm sạch môi trường nước thì các vật gây ô nhiễm không khí vẫn xâm
nhập vào môi trường nước, các quá trình biến động khí hậu toàn cầu vẫn gây
nên các rủi ro cho môi trường nước.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật, rút ra được quan điểm toàn diện, đây là nguyên tắc, phương pháp luận có
ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn.

K35 - GDCT

13

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan


 Quan điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể có nghĩa là: Trong những điều kiện, hoàn
cảnh khác nhau thì mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng cũng khác nhau.
Bản thân quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi trước hết chúng ta phải xem
xét phương pháp tư duy là tính lịch sử. Những phương pháp cơ bản của tư
duy biện chứng là kết quả của lịch sử nhận thức, của tư duy đã thể hiện ở việc
con người đi sâu nhận thức thế giới và vận dụng phép biện chứng vào quá
trình tư duy của con người. Phương pháp tư duy là sản phẩm của thời đại lịch
sử, nó được hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định.
Có thể phân chia sự phát triển của phương pháp tư duy của con người thành
những giai đoạn sau:
-Phương pháp tư duy nguyên thủy
-Phương pháp biện chứng chất phác thời cổ đại
-Phương pháp tư duy cận đại
-Phương pháp tư duy biện chứng hiện đại
Những phương pháp đó tạo thành một hệ thống phương pháp dựa vào
nhau và phân biệt với nhau. Tính lịch sử, tính thời đại của phương pháp tư
duy của con người chứng tỏ: không có tư duy lý luận vĩnh hằng, không có
phương pháp tư duy cứng nhắc không thay đổi. Trong lịch sử nhận thức, lịch
sử phát triển tư duy của con người phương pháp tư duy mới được hình thành
trên cơ sở khắc phục những mâu thuẫn của tư duy cũ.
Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và
tác động vào sự vật phải chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, môi
trường cụ thể trong đó sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại và phát triển. Một
luận điểm nào đó trong điều kiện này là luận điểm khoa học nhưng sẽ không
phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác. Trong lịch sử triết học khi
xem xét các hệ thống triết học bao giờ ta cũng phải xem xét hoàn cảnh ra đời
và sự phát triển của các hệ thống đó.
K35 - GDCT


14

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Để xác định một cách đúng đắn, toàn diện về thực trạng ô nhiễm môi
trường, bao giờ Đảng ta cũng phải phân tích tình hình cụ thể của đất nước
cũng như bối cảnh quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó. Dĩ
nhiên, trong khi thực hiện đường lối, chủ trương Đảng ta cũng luôn bổ sung
và điều chỉnh kịp thời để phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể (Ban
hành luật bảo vệ môi trường sửa đổi 2005 thay cho luật 1993).
Quan điểm lịch sử - cụ thể có những đòi hỏi mang tính tổng hợp. Quán
triệt nguyên tắc này trong quá trình vận dụng phương pháp tư duy sẽ đưa
nhận thức của con người tới chân lí. Một khi xa rời những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể thì chân lý sẽ trở thành sai lầm.
Tóm lại, qua tìm hiểu về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy
vật chúng ta rút ra quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể. Đây là
những nguyên tắc, phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong mọi hoạt
động nhận thức và thực tiễn.
1.2. Môi trường sinh thái
1.2.1. Khái niệm môi trường sinh thái và kết cấu của môi trường sinh thái
1.2.1.1. Khái niệm môi trường sinh thái
Để hiểu được khái niệm môi trường sinh thái trước hết chúng ta phải
hiểu môi trường là gì? Sinh thái là gì?
 Khái niệm về môi trường

Nhân loại hiện đã và đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề cấp bách
mang tính toàn cầu. Một trong số đó là vấn đề môi trường sống. Những tình
trạng đáng báo động như nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi
trường sống, suy giảm đa dạng sinh học và mất cân bằng sinh thái,… đang đe
dọa trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người. Vì
vậy, nhiều tổ chức quốc tế, nhiều nguyên thủ quốc gia và các nhà khoa học
trên khắp thế giới đã lên tiếng cảnh báo về mức độ nghiêm trọng, sự tiếp tục
gia tăng theo chiều hướng xấu của những vấn đề môi trường.
K35 - GDCT

15

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Vậy, khái niệm môi trường là gì? Trước hết, cần phải khẳng định rằng,
đây là một khái niệm rộng và tương đối phức tạp. Chính vì vậy, tùy thuộc vào
cách nhìn nhận mối quan hệ của thực thể (sinh thể) với các điều kiện xung
quanh và phạm vi xem xét, nghiên cứu, khái niệm môi trường được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau:
Thứ nhất, môi trường được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất, với tất cả sự
đa dạng, muôn màu muôn vẻ của nó và luôn tồn tại khách quan. Môi trường
hiểu theo nghĩa như vậy thường được gọi là môi trường toàn cầu, môi trường
trái đất và những điều kiện bao quanh trái đất. Nó bao gồm khí quyển, thủy
quyển và thạch quyển (địa quyển).
Thứ hai, môi trường được hiểu là môi trường sống, là phần của thế giới

vật chất đã và đang tồn tại sự sống, hay còn gọi là sinh quyển. Môi trường
sống bao gồm trong đó những điều kiện vô cơ và hữu cơ liên quan trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự tồn tại, phát triển của các sinh thể.
Thứ ba, môi trường sống còn được hiểu là môi trường sống của con
người và xã hội loài người. Nó bao gồm sinh quyển và những điều kiện xã
hội. Nói cách khác, đó là môi trường tự nhiên - xã hội, hay môi trường tự
nhiên - người hóa, môi trường sinh thái nhân văn.
Trên thực tế, cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, cả trên
thế giới và ngay tại Việt Nam bàn đến khía cạnh của vấn đề này và đề xuất
những cách định nghĩa khác nhau về khái niệm môi trường. Năm 1981, Tổ
chức giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã đưa ra một định nghĩa về
khái niệm này như sau: Môi trường bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và
nhân tạo, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai
thác những tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo để thỏa mãn những nhu cầu
của mình. Ở nước ta, một số tác giả, từ những góc độ tiếp cận khác nhau,
cũng đã đưa ra quan niệm của mình về vấn đề này. Chẳng hạn, khi bàn đến
khái niệm môi trường, có ý kiến cho rằng: đứng về mặt địa sinh học thì “môi
K35 - GDCT

16

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

trường là tất cả các yếu tố chung quanh, bao gồm các nhân tố vô sinh và hữu
sinh ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc sống, sự phát triển và sự

sinh sản của các sinh vật”. Song, tác giả của các quan điểm trên cũng nhấn
mạnh rằng, đối với “môi trường của con người” thì cần phải được hiểu theo
nghĩa rộng hơn. Nó bao gồm toàn bộ hệ thống tự nhiên và những gì do con
người sáng tạo ra như các hệ sinh thái nhân tạo, những nhóm và những hội
môi trường văn hóa,… trong đó con người sống và khai thác bằng lao động
của mình, những nguồn lợi tự nhiên và nhân tạo cho phép thỏa mãn những
nhu cầu của con người [11, tr.6].
Tác giả khác, khi xác định nội dung của khái niệm môi trường, lại nhấn
mạnh đến mối quan hệ giữa môi trường và cơ thể sinh vật sống trong môi
trường đó. Theo ý kiến này, hiểu theo nghĩa rộng thì môi trường bao gồm tất
cả những gì ở xung quanh một đối tượng và có những mối quan hệ nhất định
với nó. Nếu đối tượng đó là một cơ thể sinh vật thì môi trường là tất cả những
gì trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển và sự tồn
tại của cơ thể đó. Vì vậy, cơ thể sống và môi trường có mối quan hệ qua lại
với nhau, tạo thành một thể thống nhất.
Dựa vào những cách hiểu trên và từ góc độ triết học , xã hội, theo chúng
tôi, có thể định nghĩa khái niệm môi trường như sau: “Môi trường là một khái
niệm dùng để chỉ toàn bộ những điều kiện bao quanh và thực thể luôn tồn tại
những mối quan hệ, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau. Đối với con người và
xã hội loài người, các điều kiện bao quanh đó không chỉ là những điều kiện tự
nhiên mà còn bao gồm các điều kiện xã hội” [11, tr.5]. Như vậy, nói đến bảo
vệ môi trường là nói đến môi trường sinh thái nhân văn - môi trường sống của
con người và xã hội loài người. Con người ở đây phải được hiểu trên cả hai
mặt: là một thực thể tự nhiên có những nhu cầu sống như một sinh vật khác,
đồng thời là một thực thể xã hội, mà xã hội chính là một bộ phận không thể
tách rời của giới tự nhiên.
K35 - GDCT

17


Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

Tóm lại, có thể thấy rằng, môi trường là tất cả những gì xung quanh
chúng ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển. Khái niệm môi trường sống của
con người và xã hội loài người rất rộng, trong đó bao hàm cả các điều kiện tự
nhiên lẫn những điều kiện xã hội. Thực tế, con người - theo đúng nghĩa của từ
này - không chỉ sống bằng những nhu cầu mang tính bản năng tự nhiên, hơn
thế, còn tồn tại, phát triển trong hàng loạt mối quan hệ đa dạng và phong phú.
Tuy nhiên, với phạm vi của một khóa luận vấn đề môi trường mà chúng tôi đề
cập đến ở đây trước hết và chủ yếu giới hạn ở khía cạnh các điều kiện tự
nhiên, nghĩa là môi trường tự nhiên - môi trường sinh thái.
 Khái niệm sinh thái
Sinh thái theo tiếng Hy Lạp là “oikos”, có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú, nơi
sinh sống của các sinh vật từ bé nhất đến lớn nhất, trong đó có cả con người.
Vì vậy, môi trường sinh thái còn được gọi là môi trường tự nhiên, là môi
trường sống hay là cái nhà ở của sinh vật, bao gồm tất cả các điều kiện xung
quanh có liên quan đến sự sống của sinh thể. Nó bao gồm các nhân tố chủ
yếu: các nhân tố vô cơ (không khí, đất, nước, tài nguyên,…), các nhân tố hữu
cơ (vi sinh vật, nấm, động vật, thực vật,…) và con người. Giữa các nhân tố
này có sự liên quan chặt chẽ với nhau và hoạt động của chúng phải tuân theo
những quy luật cơ bản của sinh thái học, cụ thể là nguyên tắc tự tổ chức, tự
điều chỉnh, tự bảo vệ, tự làm sạch của sinh quyển. Trong môi trường tự nhiên,
sự tác động của con người vào giới tự nhiên là tác động có ý thức và có quy
mô rộng lớn nên hoạt động của con người sẽ làm thay đổi mạnh mẽ môi
trường sinh thái: nó có thể làm cho môi trường sinh thái phong phú, giàu có

hơn, phát triển hơn nhưng cũng có thể làm cho chúng bị suy thoái đi. Và lúc
đó, sự suy thoái này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới các sinh vật khác, đồng thời đe
dọa cuộc sống của chính con người. Như vậy, có thể khẳng định rằng, cách
thức tác động vào tự nhiên của con người là nhân tố quyết định tới sự sinh tồn

K35 - GDCT

18

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


Đào Thị Tâm

GVHD: Trần Thị Hồng Loan

của bản thân con người nói riêng và của tất cả sự sống trên trái đất nói chung,
bởi vì:
Chỉ có con người mới đạt được đến chỗ in cái dấu của mình lên giới tự
nhiên, không chỉ bằng cách di chuyển các loài thực vật và động vật từ chỗ này
sang chỗ khác, mà còn làm biến đổi cả diện mạo, thậm chí còn làm biến đổi
cả cây cỏ và các thú vật tới một mức độ mà kết quả của hoạt động của họ chỉ
có thể biến mất, khi nào toàn bộ trái đất tiêu vong [16, tr.475].
Từ các khái niệm về môi trường, sinh thái và trên cơ sở kế thừa có chọn
lọc những quan niệm về môi trường sinh thái của các công trình đã công bố
và dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, theo chúng tôi, môi trường sinh
thái là một khái niệm rộng lớn, bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh
có liên quan đến sự sống của sinh thể. Đối với con người, môi trường sinh
thái là tất cả những điều kiện tự nhiên, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến
sự sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy, môi

trường sinh thái là môi trường có liên quan trực tiếp đến sự sống của con
người và xã hội loài người.
1.2.1.2. Kết cấu của môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái là một khái niệm rộng, tùy vào từng góc độ nghiên
cứu mà kết cấu của môi trường sinh thái có sự phân chia riêng. Song, tựu
chung lại cấu trúc của môi trường sinh thái bao gồm bốn thành phần cơ bản
là: Thạch quyển; Thủy quyển; Khí quyển và Sinh quyển.
Về mặt vật lý, môi trường sống trên Trái Đất được cấu tạo từ ba quyển:
khí quyển, thủy quyển và thạch quyển. Khí quyển (atmosphere) của Trái Đất
là toàn bộ lớp không khí bao quanh mặt đất. Thạch quyển (lithosphere) là
phần chất rắn của Trái Đất từ mặt đất tới độ sâu khoảng 60km. Thủy quyển
(hydrosphere) chỉ phần nước của Trái Đất với toàn bộ các đại dương, thủy
vực, nội địa, băng tuyết và các nguồn nước khác. Khí quyển, thủy quyển và

K35 - GDCT

19

Khóa luận tốt nghiệp - 2013


×