Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Vấn đề ứng dụng khoa học và công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.14 KB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===***===

LÊ THỊ NGỌT

VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỂ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2013


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
===***===

LÊ THỊ NGỌT

VẤN ĐỀ ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỂ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học

Người hướng dẫn khoa học
TS. VI THÁI LANG



HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất tới thầy giáo - TS.
Vi Thái Lang, người thầy đã tận tình chỉ bảo, sửa chữa cho khóa luận của
em trong suốt quá trình tiến hành.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính trị
cùng các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện
cho em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của bản thân.
Vì điều kiện có hạn, khóa luận còn nhiều thiếu sót kính mong quý thầy
cô và mọi người chỉ bảo thêm và cho ý kiến đóng góp!
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Ngọt


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận
tình của thầy giáo - TS. Vi Thái Lang.
Những số liệu trong khóa luận được lấy từ nguồn tin chính xác.
Nếu sai, tôi xin chịu mọi trách nhiệm.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2013

Sinh viên thực hiện

Lê Thị Ngọt


DANH TỪ VIẾT TẮT

1. CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

2. KH & CN

: Khoa học và công nghệ

3. LLSX

: Lực lượng sản xuất

4. QHSX

: Quan hệ sản xuất


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ....................................................... 5
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về khoa học và công nghệ ...................... 5
1.2. Khái niệm lực lượng sản xuất ............................................................. 10

1.3. Vai trò của khoa học và công nghệ trong việc phát triển lực lượng
sản xuất ..................................................................................................... 12
Chương 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................... 16
2.1. Những thành tựu đạt được khi ứng dụng khoa học và công nghệ vào
việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ............................ 16
2.2. Những hạn chế trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ........................................... 28
2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ........................................................ 32
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
VIỆC ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀO PHÁT TRIỂN
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................... 36
3.1. Những giải pháp chung của Đảng và Nhà nước.................................. 36
3.2. Những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng
khoa học và công nghệ vào việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay .................................................................................................... 49
KẾT LUẬN ................................................................................................. 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 55


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể
hóa giữa khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: “Khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và
trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế
giới. KH & CN hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền
sản xuất xã hội và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật
của thời đại ngày nay và là yếu tố đặc trưng cho LLSX hiện đại.

Trong thời đại ngày nay, KH & CN hiện đại là yếu tố không thể thiếu
trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu KH & CN
ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng trực
tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu KH & CN vào sản xuất trực tiếp
ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hóa giữa KH & CN với
sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Thực tiễn cho thấy,
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới chủ yếu dựa vào
tri thức khoa học với các tiến bộ KH & CN. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ
quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì không thể không chú trọng
hàng đầu vấn đề này.
Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hóa ngày
nay, nền kinh tế của một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản
phẩm hàng hóa của nó luôn được đổi mới và có tính cạnh tranh về chất lượng,
giá cả, mẫu mã,…Những đòi hỏi như vậy chỉ được đáp ứng khi các cơ sở sản
xuất có tiềm lực mạnh về KH & CN và nó trực tiếp tham gia sản xuất ra các
sản phẩm hàng hóa. Ở Việt Nam, nếu trong nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ
trước, “khoán 10” thành công dựa trên cơ sở thay đổi cơ chế quản lý kinh tế,
giải phóng sức lao động của người nông dân, thì cơ sở thành công của công

1


cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay chính là nhanh chóng phát
triển LLSX bằng việc kết hợp có hiệu quả giữa tiềm lực người lao động Việt
Nam với sức mạnh KH & CN, đặc biệt ưu tiên KH & CN trực tiếp sản xuất
trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất.
Ở Việt Nam hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế, việc nhanh chóng phát triển LLSX đi đôi với từng bước hoàn thiện
QHSX để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một
yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện được yêu cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số

chủ trương chiến lược quan trọng nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát
triển LLSX. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ và và Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết và Quyết định để phát triển KH
& CN và vấn đề ứng dụng KH & CN để phát triển LLSX như Nghị quyết 37
của Bộ Chính trị (khóa IV), Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (khóa VI) và Nghị
quyết Trung ương 7 ( khóa VII). Tại Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) năm 1996 đã ra Nghị quyết về: “Định hướng
chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020, và nhiệm vụ đến
năm 2000”. Đây là lần đầu tiên, Trung ương ra một Nghị quyết riêng về phát
triển KH & CN, tạo động lực mới, khí thế mới cổ vũ toàn Đảng, toàn dân tiến
quân vào KH & CN.
Ứng dụng KH & CN là một xu thế tất yếu khách quan trên thế giới. Việt
Nam là một nước đang trong quá trình CNH, HĐH cũng không thể nằm ngoài
quy luật đó. Chính vì vậy, nghiên cứu vấn đề này không chỉ có ý nghĩa lý luận mà
còn có ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Đây cũng
là lý do, tác giả chọn đề tài “Vấn đề ứng dụng khoa học và công nghệ để phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay” làm bài khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự phát triển nhanh chóng của KH & CN hiện đại đã làm biến đổi sâu
sắc nền kinh tế thế giới, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử phát triển của xã hội

2


loài người. Vì vậy, vấn đề KH & CN đã trở thành tiêu điểm của nhiều nhà
lãnh đạo, các giới khoa học trên thế giới. Và ở Việt Nam, cho đến nay đã có
rất nhiều các công trình nghiên cứu về KH & CN như:
“Phát triển khoa học và công nghệ chìa khóa thực hiện chiến lược phát
triển nhanh và bền vững ở nước ta hiện nay”, Phạm văn Đức, Nguyễn Đình
Hòa (2012), Tạp chí triết học, số 6.

“Phát triển và nâng cao hiệu quả của khoa học công nghệ phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”, Nguyễn
Quân (2012), Tạp chí Cộng sản, số 840.
Khoa học và công nghệ - lực lượng sản xuất hàng đầu, Vũ Đình Cự
(2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các công trình trên đều đề cập đến các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập tới việc ứng dụng khoa học và
công nghệ để phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ
sở kế thừa và phát huy những kết quả đã thu được của các công trình nghiên
kể trên, tôi mạnh dạn nghiên cứu nội dung này, nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả của việc ứng dụng KH & CN vào phát triển LLSX ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích
Làm rõ thực trạng của việc ứng dụng KH & CN vào phát triển LLSX ở
Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu
quả của việc ứng dụng KH &CN vào phát triển LLSX hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Khóa luận trình bày khái niệm KH & CN, LLSX; những đặc trưng cơ
bản của KH & CN và vai trò của KH & CN đối với sự phát triển của LLSX.
- Khóa luận trình bày thực trạng của việc ứng dụng KH & CN vào phát
triển LLSX ở nước ta hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.

3


- Khóa luận trình bày một số giải pháp cụ thể để ứng dụng thành công
KH & CN vào phát triển LLSX ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Khóa luận nghiên cứu vấn đề ứng dụng KH & CN để phát triển LLSX

ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi
Khóa luận nghiên cứu vấn đề ứng dụng KH & CN để phát triển LLSX
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay dưới góc độ triết học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra, khóa luận còn
sử dụng đồng thời các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, logic và lịch
sử, khái quát hóa, trừu tượng hóa,…và một số phương pháp khác để làm sáng
tỏ nội dung của đề tài.
6. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận nghiên cứu vấn đề ứng dụng KH & CN để phát triển LLSX
ở Việt Nam hiện nay, từ đó góp phần:
- Làm rõ cơ sở lý luận cho việc hoạch định đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về phát triển LLSX trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
- Làm tư liệu cho những người quan tâm đến vấn đề ứng dụng KH &
CN để phát triển LLSX.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 chương, 8 tiết.

4


Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VÀ
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm khoa học và công nghệ

* Khái niệm khoa học
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu về khái niệm khoa học xuất phát từ nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Chúng ta có thể xem xét 4 định nghĩa từ các góc độ sau:
 Khoa học là một hệ thống tri thức
Khoa học là “hệ thống tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự
vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy”[5, tr.12].
Hệ thống tri thức được nói ở đây là hệ thống tri thức khoa học. Khoa
học, trong trường hợp này, được hiểu như một hệ thống tĩnh tại các tri thức,
xem khoa học như một sản phẩm trí tuệ được tích lũy từ trong hoạt động tìm
tòi, sáng tạo của nhân loại.
 Khoa học là một hoạt động xã hội
Nếu như khởi thủy khoa học là mối quan tâm mang tính cá nhân của
những thiên tài, thì khoa học ngày nay đã trở thành một hoạt động nghề
nghiệp được xã hội hóa cao độ. Đó là một dạng hoạt động xã hội đặc biệt,
hướng vào việc tìm kiếm những điều chưa biết, là một loại lao động gian khổ,
nhiều rủi ro.
Với tư cách là một hoạt động xã hội, khoa học định hướng tới những
mục tiêu như là phát hiện bản chất các sự vật, phát triển nhận thức về thế giới,
dự báo quá trình phát sinh, phát triển của sự vật và sáng tạo các sự vật mới để
phục vụ những mục tiêu và phát triển của con người.
 Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
Triết học xem khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Toàn bộ cuộc
sống của xã hội loài người gồm hai lĩnh vực là: lĩnh vực vật chất (tồn tại xã
5


hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả những gì bao
xung quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết quả phản ánh tồn tại xã hội và bộ
não của con người gồm hệ thống chân lý khách quan bao gồm đạo đức, nghệ
thuật, chính trị…Hệ thống chân lý này diễn đạt bằng các khái niệm, phạm trù,

những nguyên lý khái quát, những giả thuyết, học thuyết…Khoa học phản
ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc biệt. Khoa học không
những hướng vào giải thích thế giới mà còn nhằm cải tạo thế giới. Khoa học
làm cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho
cuộc sống của mình.
Một đặc điểm quan trọng là những luận điểm, các nguyên lý khoa học là
hệ thống chân lý khách quan, chúng đều có thể chứng minh được bằng các
phương pháp khác nhau. Chân lý khoa học chỉ có một, nó được thực tiễn trực
tiếp hoặc gián tiếp kiểm nghiệm, xác minh và khẳng định. Thực tiễn cuộc
sống không những là nguồn gốc, tiêu chuẩn của nhận thức mà còn là nhân tố
kích thích sự phát triển của khoa học.
Khoa học không có giới hạn trong sự phát triển, vì tư duy của con người
không có giới hạn trong nhận thức. Khoa học không ngừng tiếp cận chân lý,
luôn tìm cách khám phá thế giới một cách toàn diện, sâu sắc và tạo ra hệ
thống tri thức ngày càng chính xác, phong phú và đầy đủ hơn. Vì vậy khoa
học luôn phát triển, hoàn thiện cùng với sự phát triển của khả năng nhận thức
của con người và trình độ phát triển của lịch sử xã hội.
 Khoa học là một thiết chế xã hội
“Khoa học có thể là một thiết chế xã hội có ý nghĩa nhất trong xã hội
hiện đại. Thiết chế ấy đang làm biến đổi đời sống và số phận con người trên
thế giới này hơn bất kỳ sự kiện chính trị hoặc tôn giáo nào” [5, tr.17].
Với tư cách là một thiết chế xã hội, khoa học đã thâm nhập vào mọi lĩnh
vực hoạt động xã hội và thực hiện những chức năng của một thiết chế xã hội.
Khoa học đã xây dựng luận cứ khoa học cho các quyết định trong sản xuất
6


kinh doanh, làm tăng hàm lượng khoa học trong công nghệ và sản phẩm và đã
trở thành một phương tiện góp phần làm biến đổi tận gốc rễ mọi mặt của đời
sống xã hội.

* Khái niệm công nghệ
Công nghệ, theo nghĩa chung nhất có thể coi đó là tập hợp tất cả những
sự hiểu biết của con người vào việc biến đổi, cải tạo thế giới nhằm đáp ứng
nhu cầu cuộc sống của con người, sự tồn tại và phát triển của xã hội. Công
nghệ trong sản xuất là một tập hợp các phương tiện vật chất, các phương
pháp, các quy tắc, các kỹ năng được con người sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động nhằm tạo ra một sản phẩm nào đó cần thiết cho xã hội.
Có ba nghĩa chủ yếu về công nghệ được sử dụng phổ biến hiện nay:
Một là, công nghệ được coi như một bộ môn khoa học ứng dụng, triển
khai (trong tương quan với khoa học cơ bản), trong việc vận dụng các quy
luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất
và tinh thần ngày càng cao của con người.
Hai là, công nghệ được hiểu với tư cách như là các phương tiện vật chất kỹ thuật, hay đó là sự thể hiện cụ thể của tri thức khoa học đã được vật thể hóa
thành các công cụ, các phương tiện kỹ thuật cần cho sản xuất và cho đời sống.
Ba là, công nghệ bao gồm các cách thức, các phương pháp, các thủ
thuật, các kỹ năng có được dựa trên cơ sở tri thức khoa học và sử dụng vào
sản xuất trong các ngành khác nhau để tạo ra sản phẩm.
* Một số khái niệm liên quan tới khoa học và công nghệ
 Kỹ thuật
Kỹ thuật là tập hợp các máy móc, thiết bị cũng như hệ thống các phương
tiện được tạo ra nhằm mục đích phục vụ các nhu cầu của xã hội như sản xuất
vật chất, vui chơi giải trí,…
Tuy nhiên kỹ thuật trong một thời gian dài không gắn với khoa học mà
thường tập hợp các kỹ năng bí quyết của người sản xuất, nhất là giai đoạn sản
7


xuất thủ công. Song khi xã hội bước vào giai đoạn cách mạng công nghiệp và
sau đó, khoa học gắn với kỹ thuật đã trở thành một thành tố của khoa học khoa học kỹ thuật, kỹ thuật được gắn với khoa học tự nhiên và ngày càng phát
triển. Vì vậy cách mạng kỹ thuật là sự nhảy vọt về chất trong cơ cấu kỹ thuật

của nền sản xuất xã hội.
 Công nghệ cao
Công nghệ cao là một khái niệm nói về sản xuất ở trình độ tinh xảo nhất
có những đặc điểm sau đây:
- Hệ thống thiết bị được tự động hóa hoàn toàn, máy móc có kết cấu
phức tạp nhưng vận hành đơn giản.
- Bí quyết của quy trình kỹ thuật sản xuất hết sức tinh vi.
- Máy móc, thiết bị sản xuất tiêu thụ rất ít năng lượng, nguyên vật liệu,
được sử dụng hết sức tiết kiệm và nguyên liệu tái tạo được sử dụng nhiều nhất.
- Năng suất lao động rất cao, sản phẩm hàng hóa có chất lượng tốt.
- Nhà máy được thiết kế khép kín, phế thải được tinh lọc, không gây ô
nhiễm môi trường.
 Chuyển giao công nghệ
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học đã làm rút ngắn thời gian đổi mới
công nghệ đã được dự báo trước. Máy móc có tính mềm dẻo, linh hoạt phụ
kiện dễ thay thế, đảm bảo không bị lạc hậu so với công nghệ mới. Việc đổi
mới công nghệ diễn ra nhanh chóng kể cả số lượng và tốc độ trên phạm vi
toàn thế giới từ đó tạo nên quá trình chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ là nơi gặp gỡ giữa khoa học với thị trường. Về
bản chất chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thông
qua dịch vụ thương mại có tổ chức.
Chuyển giao công nghệ bao hàm chuyển giao thiết bị máy móc, chuyển
giao kiến thức về quy trình sản xuất, chuyển giao kinh nghiệm, tổ chức quản

8


lý và hoạt động tư vấn trong quá trình sản xuất. Tuy nhiên, chuyển giao công
nghệ vẫn chú trọng vào hai phần: kỹ thuật và thông tin.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của khoa học và công nghệ

Một là, khoa học là một hệ thống tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con
người và về tư duy con người. Nó nghiên cứu và vạch ra những mối quan hệ
nội tại, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, từ đó chỉ ra những quy
luật khách quan của sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Hai là, Hệ thống tri thức khoa học được hình thành trong quá trình nhận
thức của con người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn dưới dạng khái niệm, phạm trù, quy luật, lý
thuyết,…Như vậy, tri thức khoa học không chỉ là sự phản ánh thế giới hiện
thực mà còn được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Ba là, hệ thống tri thức khoa học còn được hình thành nhờ trực giác
hoặc tuân theo quy luật logic học. Loại tri thức khoa học này xét cho đến
cùng, cũng là sự phản ánh thế giới hiện thực và được thực tiễn kiểm nghiệm.
Do đó, một hệ thống tri thức được coi là tri thức khoa học phải đảm bảo tính
đúng đắn, tính chân thực.
Bốn là, hệ thống tri thức khoa học là sản phẩm của quá trình phát triển
lâu dài, liên tục của tư duy nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày
nay, nó đang trở thành tài sản chung của xã hội loài người.
Như vậy, qua một số đặc trưng cơ bản trên đây về quan niệm khoa học,
ta thấy nổi lên cái cốt lõi của khoa học - đó là hệ thống tri thức chân thực về
tự nhiên, xã hội và tư duy. Mục đích trực tiếp của nó là mô tả, giải thích và
tiên đoán những quá trình hiện tượng của hiện thực khách quan.
Ngày nay do sự phát triển mạnh mẽ của của khoa học và kỹ thuật làm
cho khoa học đi trực tiếp vào cuộc sống và khoa học, kỹ thuật gắn bó mật
thiết với nhau. Giữa khoa học và kỹ thuật không còn phải trải qua các khâu

9


thực nghiệm hay thử nghiệm mà được áp dụng ngay. Công nghệ là sự thống
nhất của cả kỹ thuật và khoa học (thông tin). Do vậy, công nghệ có những đặc

điểm sau đây:
Một là, công nghệ là một hệ thống thiết bị kỹ thuật và thông tin về quy
trình sản xuất được áp dụng trong quá trình chế biến tài nguyên thành sản phẩm
hàng hóa. Nói cách khác, công nghệ dùng biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Hai là, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng những thành tựu của
khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo
của con người trong lao động sản xuất. Nó là tổ hợp của nhiều công đoạn của
quy trình áp dụng kiến thức khoa học vào sản xuất và phương tiện để chế biến
tài nguyên vật chất thành sản phẩm hàng hóa.
Ba là, công nghệ được sử dụng rộng rãi vào trong tất cả các hoạt động
của đời sống xã hội, không chỉ trong sản xuất vật chất mà còn trong các lĩnh
vực tinh thần xã hội.
1.2. Khái niệm lực lượng sản xuất
Khái niệm LLSX được hình thành khi C. Mác và Ph. Ăngghen nghiên cứu
sự sản xuất vật chất xã hội. C.Mác và Ph. Ăngghen cho rằng: “Chính trong quá
trình lao động sản xuất vật chất xã hội, thực hiện sự sản xuất vật chất xã hội,
con người đã hình thành nên mối quan hệ song trùng: quan hệ của con người
với tự nhiên và quan hệ của con người với nhau” [17, tr.42]. Lực lượng sản
xuất là khái niệm biểu thị mặt thứ nhất của mối quan hệ song trùng đó - quan
hệ giữa con người với tự nhiên. Điều đó có nghĩa là, nó biểu hiện quá trình con
người tác động vào tự nhiên, cải biến và chinh phục giới tự nhiên để sản xuất ra
của cải vật chất đảm bảo cho sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội
loài người.
LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trính sản xuất, lao động

10


của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động kết hợp với

nhau tạo thành LLSX, trong đó, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công nhân, là người lao động”[15, tr.430].
Về người lao động
Với tính cách là một bộ phận LLSX, người lao động là những người có
khả năng lao động, tức phải có các phẩm chất: sức mạnh trí tuệ, sức mạnh thể
chất mà C.Mác nói một cách hình tượng là sức mạnh của cái “đầu” và “đôi
bàn tay”. Ngoài ra, người lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, kỹ năng lao
động…C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong
một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [19, tr.215].
Về tư liệu sản xuất
Với tư cách là một trong hai yếu tố cơ bản tạo thành LLSX, tư liệu sản
xuất lại được cấu tạo nên từ hai yếu tố cơ bản là tư liệu lao động và đối tượng
lao động. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động là một yếu tố cơ bản của
LLSX, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra, là “sức mạnh tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân”
sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Cùng với quá trình
tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao
động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn
thiện không ngừng của công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình
độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử
“những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng sản xất ra cái gì, mà là ở

11


chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào” [18,

tr.269].
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu LLSX là khái niệm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử dùng để biểu thị mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong
quá trình sản xuất, được tạo thành từ sự kết hợp giữa người lao động và tư
liệu sản xuất trong quá trình chinh phục, cải biến tự nhiên, thực hiện việc sản
xuất xã hội.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản
xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã
phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của những biến đổi to lớn
trong sản xuất và trong đời sống. Ngày nay, cách thức mà khoa học xâm nhập
và thể hiện trong hiện thực khác nhiều so với vài thập kỷ trước đây. C.Mác dự
kiến rằng khoa học trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”, trở thành “lực
lượng sản xuất độc lập”. Tư tưởng ấy của C.Mác có ý nghĩa định hướng tích
cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt động khoa học.
KH & CN hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do vậy, nó
hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho LLSX hiện đại. Và trình độ của
LLSX biểu hiện qua việc ứng dụng KH & CN vào sản xuất.
1.3. Vai trò của khoa học và công nghệ trong việc phát triển lực lượng
sản xuất
* Mối quan hệ giữa khoa học và công nghệ với sản xuất
Ngay từ buổi đầu của lịch sử và cùng với tiến trình lịch sử, mối quan hệ
giữa KH & CN và sản xuất không ngừng vận động và phát triển, biến đổi cả
về nội dung lẫn hình thức. Sản xuất là một quá trình xã hội, trong đó con
người đã sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) lên giới
tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của tự nhiên thành những sản phẩm tiêu
dùng của xã hội nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao và phong phú của con
người, của xã hội loài người.

12



Thứ nhất, sản xuất trong các mối quan hệ với KH & CN được xem xét ở
đây chủ yếu là sản xuất vật chất. Để tiến hành sản xuất, con người thông qua
công cụ lao động tác động vào tự nhiên. Vì vậy, con người là chủ thể của quá
trình sản xuất, là yếu tố quyết định của LLSX. Từ đó có thể hiểu rằng: ngay từ
đầu, KH & CN đã có mặt trong LLSX và cùng với QHSX tạo thành một
phương thức sản xuất nhất định.
Thứ hai, KH & CN là bộ phận quan trọng của LLSX, một mặt đã trang
bị cho con người những tri thức ngày càng đầy đủ rõ ràng, sâu sắc về đối
tượng lao động (giới tự nhiên) và mặt khác, đã vật thể hóa các tri thức đó
thành công cụ lao động. Kĩ thuật, đó chính là phần cứng của công nghệ.
Ngoài ra, do những đặc trưng sinh học - xã hội, con người trong sản xuất vốn
đã có sức mạnh lao động cơ bắp (lao động giản đơn), có kĩ năng, kĩ xảo, kinh
nghiệm nghề nghiệp (lao động có trí tuệ) luôn là yếu tố quyết định của LLSX.
Thứ ba, KH & CN cũng là những yếu tố quan trọng trong QHSX và
cùng với sự phát triển của sản xuất thì vai trò ngày càng tăng lên. Trong các
thành tố của QHSX, quan hệ sở hữu của con người đối với tư liệu sản xuất là
mối quan hệ thứ nhất giữ vai trò quyết định, mà chính KH & CN đã nằm ngay
trong tư liệu sản xuất. Do vậy, nếu ai nắm chắc và sử dụng tốt KH & CN thì
cũng có nghĩa là họ đã làm chủ được và nắm giữ vai trò thống trị đối với tư
liệu sản xuất nói riêng và đối với sản xuất nói chung.
Thứ tư, mối quan hệ thứ hai và thứ ba giữa con người và con người
trong sản xuất là quan hệ về mặt tổ chức, quản lí, phân công lao động. Trong
điều kiện nền kinh tế trí thức hiện nay, nếu không có tổ chức quản lí tốt và
nắm bắt thông tin kịp thời, không có sự tham gia, sự trợ giúp của KH & CN
hiện đại; đặc biệt là công nghệ thông tin thì chắc chắn không thể kịp thời,
chính xác.
Thứ năm, bao trùm lên tất cả quá trình sản xuất là con người. Con người
vừa là nguồn lực, vừa là động lực của sản xuất, vừa là sự biểu hiện rõ ràng
trình độ phát triển của một nền sản xuất nhất định. Con người sáng tạo ra KH

13


& CN, tham gia vào quá trình sản xuất. Những sản phẩm của trí tuệ - tri thức
đã trực tiếp đi vào quá trình sản xuất.
* Vai trò của khoa học và công nghệ trong việc phát triển lực lượng
sản xuất
Để tồn tại và phát triển, con người không chỉ nhận thức thế giới mà còn
biến đổi và cải tạo thế giới. Sở dĩ KH & CN tham gia được vào quá trình biến
đổi, cải tạo thế giới và phát triển xã hội bởi vì KH & CN là những yếu tố quan
trọng của LLSX xã hội, chúng có mặt ở tất cả mọi thành phần của LLSX:
Trong tư liệu sản xuất (công cụ, kỹ thuật), trong con người. Cùng với sự phát
triển của xã hội, KH & CN ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong LLSX
xã hội, trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Thứ nhất, với cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ nhất đã dẫn
đến cuộc cách mạng LLSX lần thứ nhất. Cùng với việc phát hiện ra lửa và
biết sử dụng lửa để nấu chín thức ăn, sưởi ấm, xua đuổi thú dữ,… con người
còn biết chế tạo ra các công cụ lao động từ những vật liệu có sẵn trong tự
nhiên như gỗ, đất, đá,…thành các cung, tên, dây thừng làm công cụ để săn
bắn. Bằng những công cụ lao động thô sơ đó và bằng sức lao động cơ bắp,
dưới sự điều khiển của tư duy - biểu hiện dưới dạng sơ khai nhất là thông tin
tiếng nói - những bầy người nguyên thủy đã làm được cái kỳ tích vĩ đại nhất
là tách mình ra khỏi thế giới động vật. Đó là bước đi đầu tiên của loài người
trên con đường tạo dựng lịch sử.
Thứ hai, với cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ hai, LLSX
của xã hội loài người đã có sự thay đổi về chất. Con người đã biết chế tạo ra
công cụ lao động bằng kim loại thủ công như cày, cuốc, dao, rựa,…thay cho
những công cụ có sẵn trong tự nhiên trước đây. Nhờ sự thay đổi của công cụ
lao động mà con người tác động và khai thác tự nhiên có hiệu quả hơn, sản
phẩm xã hội làm ra nhiều hơn và con người đã bắt đầu nuôi sống được bản

thân bằng các sản phẩm do mình làm ra.
Thứ ba, cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ ba và thứ tư lại
làm đảo lộn LLSX xã hội. Công cụ lao động bằng kim loại thủ công được

14


thay thế bằng công cụ cơ khí máy móc, đưa xã hội loài người bước vào thời
đại công nghiệp hóa và nền văn minh công nghiệp. Bản thân công cụ lao động
bằng cơ khí máy móc trong xã hội công nghiệp cũng như trải qua ba trình độ
phát triển: cơ khí hóa, điện khí hóa và tự động hóa. Với LLSX bằng cơ khí, xã
hội loài người đã có những bước tiến khổng lồ trên con đường chinh phục
thiên nhiên và phát triển xã hội.
Thứ tư, cuộc cách mạng thông tin - công nghệ lần thứ năm với việc sử
dụng công nghệ tự động hóa, công nghệ thông tin và chuyển từ công nghệ
khai thác các nguồn năng lượng vốn có sẵn trong tự nhiên sang khai thác và
sử dụng nguồn tiềm năng trí tuệ - trí năng, LLSX xã hội có một bước đột biến
quan trọng chưa từng có trong lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử vài trăm
nghìn năm của loài người, trí năng vốn là nguồn năng lượng độc tôn của loài
người đã được trao đổi cho máy móc. Đây là thời kỳ mà LLSX bước sang một
giai đoạn phát triển mới hoàn toàn về chất - giai đoạn tri thức khoa học trở
thành LLSX trực tiếp, tức là KH & CN trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra
của cải vật chất cho xã hội. Ngày nay, KH & CN đã trực tiếp làm ra sản
phẩm, chẳng hạn như trong lĩnh vực công nghệ sinh học, công nghệ thông tin
có các loại dược liệu mới, các vi mạch, các phần mềm,…
Một biểu hiện quan trọng của việc KH & CN trở thành “lực lượng sản
xuất trực tiếp” là ở chỗ: KH & CN cùng với giáo dục - đào tạo đã tạo ra
những người lao động mới - những con người lao động trí tuệ sáng tạo, vừa
có tri thức chuyên sâu một ngành nghề, vừa có hiểu biết rộng, tầm nhìn xa,
bao quát nhạy bén trong nghề nghiệp. Người lao động chính là LLSX mạnh

mẽ nhất, to lớn nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực, là động lực phát triển
của xã hội.
Như vậy trong thời đại ngày nay, KH & CN ngày càng hiện đại là yếu tố
không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các
thành tựu KH & CN ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất. Đúng
như C.Mác nói đến một trình độ nào đó khoa học sẽ trở thành LLSX trực tiếp.

15


Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ VÀO VIỆC PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Những thành tựu đạt được khi ứng dụng khoa học và công nghệ vào
việc phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay
Trong tiến trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, nhất là từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện
đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức đúng đắn và sâu
sắc về vị trí và vai trò của KH & CN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời luôn coi trọng và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nền KH &
CN của nước nhà. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nhấn mạnh
rằng, chúng ta phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng và phát
triển nền kinh tế quốc dân với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại bằng cách
dựa vào một nền khoa học và kỹ thuật tiên tiến.
Quan điểm coi KH & CN là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho
CNH, HĐH, phát triển nhanh và bền vững được thể hiện, khẳng định và quán
triệt trong nhiều văn kiện Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới. Văn kiện Đại

hội III của Đảng đã xác định: cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là một cuộc
cách mạng then chốt. Sau ngày đất nước thống nhất, văn kiện Đại hội IV,
V,VI, VII của Đảng cũng luôn xác định KH & CN là nền tảng và động lực
phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới
(năm 1996), Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
đã thông qua Nghị quyết về “Định hướng chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm

16


2000”. Lần đầu tiên KH & CN cùng với giáo dục và đào tạo được coi là quốc
sách hàng đầu và gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII đi vào cuộc sống,
KH & CN nước ta đã có bước tiến dài trong xây dựng và phát triển tiềm lực,
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiệt thực vào sự phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và
nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần đưa nước ta từ một nước kém phát
triển gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Chúng ta đã căn bản hoàn
thành việc xây dựng nền tảng pháp lý cho hoạt động KH & CN với một hệ
thống gồm 8 đạo luật chuyên ngành, bắt đầu từ Luật Khoa học và công nghệ
(năm 2000) và kết thúc là Luật Đo lường (năm 2011). KH & CN Việt Nam đã
tiếp cận và ứng dụng được nhiều thành tựu KH & CN thế giới để tạo ra nhiều
sản phẩm KH & CN có giá trị cao. Thông qua các chương trình nghiên cứu,
hoạt động KH & CN đã gắn kết chặt chẽ với sản xuất và đời sống và mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực, thúc đẩy LLSX phát triển.
Việc ứng dụng những thành tựu của KH & CN, đặc biệt là công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động
hóa… đã tạo ra sự phát triển đột phá của LLSX bao gồm cả sự phát triển của
tư liệu sản xuất và con người.

* Trong việc phát triển tư liệu sản xuất.
- Trong nông nghiệp
Trong trồng trọt, bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào, hằng năm Việt
Nam đã có thể nhân giống, sản xuất ra hàng chục triệu cây trồng, gồm: lúa,
ngô, chuối, mía, dứa, khoai tây, cây ăn quả, cây dược liệu và cây cảnh. Đến
năm 2007 tổng số các giống lúa được công nhận lên đến 170 giống. Tới nay,
diện tích trồng bằng các giống lúa cải tiến đạt 90%. Công tác nghiên cứu về
lúa lai, việc phát triển và thương mại hóa công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai

17


đã đạt được nhiều kết quả tiến bộ. Diện tích lúa lai toàn quốc hiện nay chiếm
khoảng 10%. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều giống lúa lai tốt như VL20,
TH3-3, TH304, HY83, HYT92, HYT100. Cùng với việc chọn tạo và sử dụng
giống mới, các biện pháp canh tác tổng hợp đã được áp dụng có hiệu quả như:
Ứng dụng công nghệ sản xuất hạt giống trong hệ thống công nghệ sản xuất
hạt giống 4 cấp phục vụ sản xuất, kỹ thuật quản lý dịch hại tổng hợp (IPM),
kỹ thuật “ba giảm - ba tăng”. Năng suất lúa bình quân năm 2007 đạt 49,5
tạ/ha gấp 2,4 lần năm 1980 [2, tr.19].
Sản lượng ngô năm 2010 cũng tăng tới 7 lần so với năm 1985, trong đó
các giống ngô lai của Việt Nam chiếm thị phần khoảng 40%. Điều này đã
khẳng định rằng giống ngô lai của Việt Nam không thua kém các giống ngô
của các nước trong khu vực. Các giống ngô lai của Việt Nam có nhiều giống
rất tốt, được trồng trên diện rộng như LVN10, LVN4, LVN145, HQ2000 với
năng suất trung bình toàn quốc đạt khoảng 3,5-4,5 tấn/ha/vụ [2, tr.19].
Đối với cây công nghiệp, đã đạt các giống rất tốt như giống cây cao su
cho năng suất mủ trung bình 1,55 tấn/ha (chỉ kém Thái Lan và Ấn Độ:1,75
tấn/ha), trong đó có những giống đạt 2tấn/ha, cá biệt đạt 2,5-3 tấn/ha.Ngoài
ra, các giống cà phê, điều cũng đã góp phần tăng giá trị xuất khẩu [2, tr.19].

Đặc biệt, chúng ta bước đầu ứng dụng các thành tựu của công nghệ
sinh học để hoàn thiện quy trình nhân giống cây sạch bệnh hoặc có khả năng
kháng sâu bệnh cao; xác lập bản đồ phân tử các gen kháng sâu bệnh, chịu hạn,
chịu mặn,…Bên cạnh đó, còn ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử để nghiên
cứu tác nhân gây bệnh, biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM), từ đó đề xuất
chiến lược phòng trừ hiệu quả.
Đối với những tư liệu lao động dùng để bảo quản lâm sản thì chúng ta
đã nghiên cứu và sản xuất nhiều những trang thiết bị và công nghệ sấy, bảo
quản, chế biến, bao bì, đóng gói,… đã làm tăng chất lượng và giá trị, tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm. Đã nghiên cứu, thiết kế chế tạo thành công các

18


si-lô bảo quản có công suất 200 đến 300 tấn. Công nghệ này giúp nâng cao
chất lượng nông sản bảo quản, giảm tổn thất sau thu hoạch.
Trong chăn nuôi, đã nghiên cứu ứng dụng thành công công thức lai 2-3
máu giữa lợn ngoại và lợn nội cho tỷ lệ nạc cao (42-52%); lợn ngoại lai 3-4
máu cho tỷ lệ nạc 54-58%. Thực hiện Zebu hóa rộng rãi ở tất cả các địa
phương để nâng cao tầm vóc và năng suất thịt đàn bò, giúp nâng cao tốc độ
tăng trọng và sinh trưởng, đạt khối lượng trưởng thành từ 230-270 kg và tỷ lệ
thịt xẻ 49-50%. Đàn bò sữa giai đoạn 2001-2006 bình quân tăng 22,4%/năm.
Sản lượng sữa của bò lai HF tăng từ 3,1 tấn/chu kỳ lên 3,9 tấn/chu kỳ, sản
lượng sữa bò HF tăng từ 3,8 tấn/chu kỳ lên 4,7 tấn/chu kỳ [2, tr.19].
Chúng ta cũng đã chọn lọc, thích nghi được nhiều giống gà nuôi lấy thịt
tốt như các giống: Hybro, Ross 208, Tam Hoàng, Lương Phượng, Sasso...các
giống gà lấy trứng như Goldline,...Đã chọn lọc nâng cao chất lượng 4 nhóm
giống đà điểu Zim, Blue, Black; xác định một số tổ hợp lai 2 máu, 3 máu; chế
độ dinh dưỡng; một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả ấp nở trứng đà điểu;
biện pháp phòng trị bệnh E. Coli [2, tr.19].

Bằng việc ứng dụng kỹ thuật hiện đại, chúng ta đã chẩn đoán được
nhiều bệnh, xác định miễn dịch phòng vệ của gia súc. Đã ứng dụng công nghệ
sinh học để chế tạo vắcxin và chế phẩm sinh học dùng cho phòng trị và chẩn
đoán bệnh vật nuôi. Một số loại vắcxin phòng bệnh cho gia súc, gia cầm đã
được sản xuất thành công như: Vắcxin phòng bệnh tiêu chảy ở lợn, vắcxin
phòng bệnh đột tử ở trâu bò, vắcxin phòng bệnh xuất huyết ở thỏ, vắcxin
phòng bệnh viêm gan vịt. Sản xuất thành công kháng nguyên H5N1 phục vụ
cho công tác giám sát cúm gia cầm, khảo nghiệm với 1.900 mẫu huyết thanh,
được các cơ sở nghiên cứu và trong nước áp dụng.
- Trong lâm nghiệp
Do áp dụng các giống mới (đã có gần 70 giống cây lâm nghiệp mới
phục vụ trồng rừng) và các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất giống và thâm canh

19


×