Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Vận dụng một số quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về nhà nước vào việc xây dựng nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.87 KB, 72 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

LÊ VĂN TIẾN

VẬN DỤNG MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Người hướng dẫn khoa học

ThS. HOÀNG THANH SƠN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới Thạc sĩ Hoàng Thanh Sơn –
người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo Dục Chính Trị đã giảng dạy em
trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Với sự hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân, nên khóa


luận khó tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự chỉ bảo, góp ý của các
thầy, cô cũng như các bạn sinh viên.
Em xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Lê Văn Tiến


LỜI CAM ĐOAN

Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Hoàng
Thành Sơn. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Sinh viên

Lê Văn Tiến


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC .......................................... 7
1.1. Quan điểm trước Mác về nhà nước .......................................................... 7
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước .............................. 14
Chương 2:SỰ VẬN DỤNG MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀO VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM........................................... 34

2.1. Khái quát về tình hình xây dựng nhà nước ở nước ta ............................ 34
2.2. Sự vận dụng quan điểm Dân chủ nhà nước kiểu mới của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam ................................................ 43
2.3. Một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện Nhà nước theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ............................ 58
KẾT LUẬN.................................................................................................. 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 67


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề nhà nước là một trong những vấn đề trung tâm, quan trọng hàng
đầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhà
nước với tư cách là chủ thể định hướng, cũng như là sự biểu hiện tập trung
nhất cho bản chất giai cấp trên con đường phát triển kinh tế, chính trị, xã hội
của mỗi dân tộc. Trong thời đại ngày nay, nhà nước trở thành vấn đề trung
tâm, căn bản nhất cho mỗi bước đi trong sự vận động phát triển đi lên trên con
đường xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước đòi hỏi phải có những
đổi mới căn bản trong tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của nhà
nước cho phù hợp với điều kiện mới, dựa trên nền tảng lí luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới và xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những vấn đề quan trọng, chủ
yếu của đổi mới hệ thống chính trị nhằm thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển
vững chắc, nhanh chóng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Nhà
nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất,

có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cải cách tổ chức và hoạt động của
nhà nước gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng
bộ máy Nhà nước tinh gọn” [6, tr.48].
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân thì việc
nắm được và vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước vào hoàn cảnh đặc thù nước ta là một trong những yếu tố quan


2
trọng hàng đầu. Nhất là quan niệm về nhà nước kiểu mới - Nhà nước của giai
cấp vô sản. Một Nhà nước dân chủ gấp triệu lần so với nhà nước dân chủ tư
sản, một nhà nước thật sự thực hiện quyền dân chủ đối với nhân dân, thu hút
đông đảo quần chúng tham gia vào quá trình tổ chức, quản lý và xây dựng xã
hội mới. Hiện nay, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội thế giới có nhiều biến
động sâu sắc, tạo ra chúng ta nhiều thời cơ mới nhưng cũng đặt ra cho Đảng
và Nhà nước ta không ít khó khăn, thử thách. Vấn đề xây dựng một Nhà nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh văn minh và tiến bộ, đủ sức đảm nhiệm
vai trò quản lý, giữ vững trật tự xã hội, phát triển đất nước được đặt ra như
một vấn đề bức thiết.
Chính vì lẽ đó, với mong muốn góp một phần công sức nhỏ bé vào
công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước Việt Nam vững mạnh, tôi
đã chọn vấn đề: “Vận dụng một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về nhà nước vào việc xây dựng Nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Như nhà lãnh tụ vĩ đại V.I.Lênin đã từng nói, “vấn đề nhà nước là một
vấn đề phức tạp nhất, khó khăn nhất” [16, tr.109]. Tính chất phức tạp, khó
khăn của vấn đề nhà nước nó không chỉ trên cơ sở lý luận có tính chất chính

trị, mà còn rất phức tạp trên thực tiễn đời sống xã hội. Song cũng chính vì lẽ
đó mà nó đã thu hút được nhiều giới khoa học nghiên cứu về đề tài này, trong
đó phải kể đến những công trình nghiên cứu sau:
Các sách và bài nghiên cứu: “Giới thiệu tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh – về xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Trên cơ sở giới thiệu về
một số tác phẩm tiêu biểu của C.Mác, Ph.Ăngghen như: “Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản”, “Phê phán cương lĩnh Gôta”, và một số tác phẩm của Lênin như:


3
“Làm gì”, “Một bước tiến hai bước lùi”, “Nhà nước và cách mạng”… Các tác
giả đã đi sâu phân tích làm rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai
trò của Đảng, về vấn đề chuyên chính vô sản, tập trung lý giải sâu sắc nguồn
gốc, bản chất nhà nước tư sản và sự tất yếu thay thế nó bằng nhà nước vô sản,
mà người đại diện cho nhà nước mới đó không ai khác đó là giai cấp công
nhân, bằng con đường chuyên chính vô sản với nguyên tắc là chế độ dân chủ
cho toàn thể quần chúng nhân dân lao động.
Tác phẩm: “Nhà nước và cách mạng” của V.I.Lênin một tác phẩm tiêu
biểu nhất, mẫu mực của giai cấp vô sản về vấn đề nhà nước. Tác phẩm là sự
tổng kết và phát triển của chủ nghĩa Mác của Lênin về vấn đề nhà nước trên
cơ sở thực tiễn mới - giai đoạn lý luận chủ nghĩa Mác đã trực tiếp đi vào
phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nước Nga lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, vấn đề về bản chất của nhà nước, nhà nước của giai cấp vô
sản, chuyên chính vô sản…vẫn còn là vấn đề để ngỏ để tiếp tục nghiên cứu.
Tiếp đó phải kể đến tác phẩm “Tìm hiểu tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin về nhà nước và chuyên chính vô sản” của tác giả Trần Văn Khánh, Tạp
chí Triết học số 3(103), tháng 6 năm 1998. Điểm nổi bật của công trình này là
tác giả đã chỉ rõ và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp tư sản, đồng thời
thiết lập bộ máy chính quyền nhà nước của mình, tính tất yếu của chuyên
chính vô sản. Trên cơ sở đó tác giả nhìn thấy sự thống nhất về mặt lợi ích

trong nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản, về nguyên tắc xây dựng nhà
nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân.
Với mong muốn xây dựng Nhà nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh,
dân chủ và tiến bộ, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân
dân, những năm trở lại đây các nhà khoa học thuộc các ngành như : Luật học,
chính trị học, triết học và các giới khoa học khác…tiếp tục đi sâu nghiên cứu,
khai thác vấn đề nhà nước một cách cụ thể hơn. Trong đó có các công trình
nghiên cứu tiêu biểu như:


4
Tác phẩm: “Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, và vì dân ở Việt Nam” của tác giả Phùng Văn Tửu, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1999. Trong đó, tác giả đã tổng kết bản chất Nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân, và vì dân trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Điều này đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992, cùng với đó là kết quả đạt được về kinh tế - văn
hóa - xã hội mà đất nước ta đạt được.
Tác phẩm: “55 năm xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” do GS.TS Lê Hữu Nghĩa, TS. Nguyễn Văn
Mạnh (đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách đã
nêu lên những vấn đề quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Chủ tịch Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện
một Đảng lãnh đạo; từ bản chất nhà nước của dân, do dân, vì dân đến vấn đề
cải cách tổ chức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân, các
cơ quan tư pháp…
Cùng với đó là rất nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu quan trọng
khác như: “Nâng cao quyền lực, năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước, nâng
cao hiệu lực pháp luật” của Nguyễn Duy Gia, Nxb Lao động, Hà Nội, 1994;

Tác phẩm “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam một số vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996; hay tác giả Lê Minh Quân với tác phẩm “Xây dựng Nhà nước pháp
quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003…và còn rất
nhiều công trình nghiên cứu quan trọng khác.
Những công trình nghiên cứu trên đã phân tích những quan điểm,
những khía cạnh về nhà nước, nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, vấn đề tập


5
trung nghiên cứu một số quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về
nhà nước và áp dụng vào việc xây dựng nhà nước ở Việt Nam lại chưa được
đi sâu nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích của khóa luận là hệ thống một số quan điểm của C.Mác Ph.Ăngghen - V.I.Lênin về nhà nước và phân tích việc vận dụng một số quan
điểm cơ bản này vào việc xây dựng Nhà nước ở Việt Nam.
Nhiệm vụ của khoá luận:
Thứ nhất: Hệ thống hóa một số quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin về nhà nước.
Thứ hai: Phân tích việc vận dụng một số quan điểm trên vào việc xây
dựng nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề nhà nước,
quan điểm của Đảng về nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam làm cơ sở lý luận.
Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp phân tích và tổng hợp
tài liệu, đối chiếu, so sánh…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin

về nhà nước và sự vận dụng một số quan điểm đó trong việc xây dựng nhà
nước ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: chỉ xoay quanh một số dấu hiệu căn bản về nhà
nước, đặc biệt là về nhà nước kiểu mới của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin.
Trên cơ sở đó vận dụng quan điểm dân chủ, trong nhà nước kiểu mới vào việc
xây dựng Nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì dân.


6
6. Ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận đã bước đầu làm sáng tỏ và hệ thống một số quan điểm của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về vấn đề nhà nước, và sự vận dụng quan
điểm dân chủ vào việc xây dựng Nhà nước Việt Nam thực sự là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Qua đó góp phần vào việc thống nhất
nhận thức lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề nhà nước. Khóa luận có ý
nghĩa trong việc nhận thức và nâng cao giáo dục chủ nghĩa Mác trong thời đại
ngày nay, nhất là trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận.
Ngoài phần mục lục, tài liệu tham khảo, phần mở đầu, kết luận, khóa
luận có kết cấu hai chương và năm tiết.


7
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC

1.1. Quan điểm trước Mác về nhà nước
1.1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong triết học Trung Quốc
cổ đại
Xét về phương diện lịch sử, vấn đề nhà nước pháp quyền xuất hiện

sớm nhất ở Trung Quốc cổ đại, vào cuối thời Xuân Thu, đầu thời Chiến Quốc
với người khở xướng là Thân Bất Hại, sau đó được Quản Trọng, Tư Sản,
Thương Ưởng, Hàn Phi bổ sung và phát triển. Người đời sau gọi đó là tư
tưởng pháp trị và trường phái tư tưởng này được gọi là “Pháp gia”.
Tuy chủ trương chung là dùng pháp luật để trị nước, song các nhà tư
tưởng thuộc pháp gia có những ý kiến không thống nhất. Thận Đáo nhấn
mạnh tầm quan trọng của “thế” – nghĩa là coi trọng địa vị, uy tín, trình độ của
người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ thống quan lại. Thân Bất Hại
đứng đầu nhóm duy pháp, cho rằng, “pháp luật” là yếu tố quan trọng nhất bởi
vì: nếu pháp luật đầy đủ, nghiêm minh thì nước mạnh, nếu pháp luật thiếu,
yếu, lỏng lẻo thì nước yếu.
Thương Ưởng khẳng định rằng, “thuật” (phương pháp, sách lược) là
nhân tố có tầm quan trọng trong đường lối trị nước và đó là thuật bổ nhiệm
quan lại dựa trên chính danh, trên nhu cầu thực tế, thuật giám sát và thưởng
phạt dựa trên nguyên tắc “theo danh mà trách thực”, “theo việc mà trách
công”, quan lại phải chịu trách nhiệm và bổn phận về việc mình làm, không
đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh, không trốn tránh trách nhiệm.
Với tư cách là đại biểu điển hình, là linh hồn của pháp gia, Hàn Phi đã
thống nhất được nội dung của cả ba quan điểm trên. Ông cho rằng, người lập
pháp và thi hành pháp luật phải có cái thế riêng của mình, tức phải chính


8
danh, đồng thời phải có thuật (sách lược) trị nước, sau đó vận dụng pháp luật
phải hợp “thời”.
Theo Hàn Phi Tử, trong pháp luật có ba đối tượng (chủ thể pháp luật)
tham gia: Vua là người đặt ra pháp luật; bề tôi (hệ thống quan lại) là những
người triển khai và giám sát pháp luật; dân là những ngưởi phải tuân thủ nhất
quán pháp luật, trong đó hệ thống quan lại có một vai trò quan trọng
Tư tưởng pháp gia đã có ảnh hưởng sâu rộng về phương diện thực tiễn

trong xã hội Trung Quốc đương thời, tuy còn nhiều hạn chế nhất định, song tư
tưởng pháp trị của Pháp gia đã tạo tiền đề lý luận cho việc hình thành tư
tưởng về nhà nước pháp quyền của nhân loại về sau.
1.1.2. Tư tưởng về nhà nước cuả các nhà triết học phương Tây
Tư tưởng về nhà nước cuả các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Ở phương Tây cổ đại, sự ra đời tư tưởng về nhà nước pháp quyền gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy
Lạp với những tên tuổi điển hình như Solon (638-470 tr.CN), Pithagore (580500 tr.CN), Heraclite (530-470 tr.CN), Democrite (460-370 tr.CN), Platon
(427-347 tr.CN), Aristote (384-322 tr.CN).
Nhìn thấy tính chất quân chủ chuyên chế của nhà nước Hy Lạp đương
thời, Solon cho rằng: “Luật pháp giống như cái mạng nhện, chúng làm cho kẻ
yếu đuối sợ sệt, còn kẻ mạnh thì phá tan chúng” [20, tr.29], do vậy để đạt tới
tự do và công bằng thì quyền lực nhà nước cần phải đặt ngang hàng với pháp
luật, “chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên sự thống nhất”
[2, tr.220].
Nhà toán học kiêm triết gia Pithagore lại đòi hỏi thự hiện mệnh lệnh
của nhà nước, tức là phải tuân thủ pháp luật. Pháp luật phải đứng cao hơn các
phong tục, tập quán truyền thống. Trên quan điểm duy vật biện chứng,
Heraclite cho rằng, pháp luật là phương thức thực hiện các quyền lợi chung


9
của nhân dân; do vậy, muốn có tự do và bình đẳng thì nhân dân phải đấu tranh
để bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của bản thân mình.
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, người đứng
đầu giữ vị trí quan trọng. Trong tác phẩm “Nền cộng hòa”, Platon xác định
rằng, người cầm quyền phải gạt ý chí, quyền lợi cá nhân sang một bên để tuân
thủ ý chí, mục đích của pháp luật. Ông nhìn thấy sự sụp đổ mau chóng của
nhà nước, ở nơi nào mà pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền lực
của một ai đó. Còn ở đâu mà pháp luật đứng trên nhà cầm quyền, còn họ chỉ

là nô lệ của luật pháp thì có sự cứu thoát của nhà nước. Cũng chính trong tác
phẩm này, Platon đã nhìn thấy tính giai cấp của pháp luật, khi cho rằng:
“pháp luật được làm bởi đảng cầm quyền vì lợi ích riêng của Đảng ấy”
[21,tr.35].
Sự sụp đổ của nền dân chủ Athens vào giữa thế kỷ thứ IV tr.CN đã tạo
cơ sở thực tiễn cho Aristote đi đến những kết luận mới về nhà nước. Ông nêu
lên tư tưởng chia hoạt động nhà nước thành ba thành tố: nghị luận, chấp hành
và xét xử. Theo Aristote, nhà nước là một tổ chức phức tạp, tập hợp những cá
thể khác nhau về chức phận, về tình trạng tài sản, về phẩm chất đạo đức, trình
độ học vấn; khả năng tham gia của công chúng vào công việc nhà nước quy
định thể chế chính trị của nó. Còn luật pháp không phải là cái có sẵn mà được
xây dựng nên từ những giá trị truyền thống, phong tục tập quán lâu đời do vậy
nó có tính chất bền vững và thiêng liêng.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong triết học Tây Âu Phục hưng và
cận đại
Bước sang thời đại Phục hưng, châu Âu tràn ngập những biến cố lịch
sử chống lại tư tưởng chuyên chế và thần quyền trung cổ, trong xã hội xuất
hiện nhu cầu cần phải tăng cường quyền lực nhà nước, đó là lý do ra đời tư
tưởng về quyền lực nhà nước của chính khách nổi tiếng người Italia – Nicollo


10
Machiavelli (1469-1527). Ông chủ trương phân biệt giáo hội với nhà nước.
Theo ông, nhà nước phải có một tổ chức quyền lực có các công cụ bạo lực
mạnh như quân đội, luật pháp, để bảo vệ lợi ích quốc gia, nhà chính trị bao
giờ cũng phải ưu tiên sử dụng sức mạnh bạo lực. Tác phẩm “Ông hoàng” nổi
tiếng của ông đã đặt nền móng cho sự ra đời của nền chính trị học hiện đại.
Sau thời kỳ phục hưng, một trật tự xã hội mới đã thực sự bắt đầu ở châu
Âu. Do nhu cầu phải thiết lập lại một bộ máy nhà nước mới, khác hẳn với nhà
nước quân chủ chuyên chế phong kiến, học thuyết về nàh nước pháp quyền tư

sản đã từng bước được hình thành. Đó là sự phục hồi, kế thừa các giá trị đó
lên tầm cao mới phù hợp với nhu cầu của lịch sử.
Montesqiue (1689-1755) nhà triết học thời khai sáng người Pháp đã
nghiên cứu và đưa ra lý thuyết phân chia quyền lực. Cơ sở lý luận của lý
thuyết này được ông trình bày như sau: “Kinh nghiệm của hàng thế kỷ cho
thấy rằng, khi nắm giữ quyền lực, bất kỳ người nào cũng có thiên hướng lạm
dụng nó, và người đó còn đi theo hướng ấy, cho tới lúc chưa đạt tới giới
hạn”[20, tr.686].
Biện pháp hữu hiệu để chống lại tình trạng đó là phải có sự phân chia
quyền lực nhà nước thành ba quyền riêng biệt: quyền lập pháp, quyền hành
pháp (quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp) và quyền tư
pháp (quyền thi hành những điều trong luật dân sự). Quyền lập pháp giao cho
nghị viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tòa
án. Nhưng khi quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một
người hay một nghị viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự do nữa. Cũng
không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người
ta sẽ độ đoán đối với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là
người đặt ra luật.


11
Nếu quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thi quan tòa có cả sức
mạnh của kẻ đàn áp. Sơ đồ phân quyền này không chấp nhận việc một cơ
quan nhà nước đứng trên hoặc nắm trọn vẹn cả ba quyền, không một cơ quan
nào được vượt lên những cơ quan khác và có thể tước đoạt quyền cá nhân
của công dân. Sự phân quyền là nhằm dùng một quyền lực này để kiểm soát
và trở thành một trong những nội dung cơ bản thuyết tam quyền phân lập
trong nhà nước pháp quyền tư sản truyền thống và hiện đại.
Rútxô gắn bất bình đẳng trong xã hội với sự xuất hiện tư hữu nảy sinh

trong quá trình hoàn thiện công cụ sản xuất, cũng như những lầm lạc của con
người. Từ đó xuất hiện kẻ giàu, người nghèo và cuộc đấu tranh giữa họ. Tuy
Rútxô đã mô tả một cách duy tâm sự nảy sinh Nhà nước và pháp luật, song ở
ông đã có một loạt các tư tưởng tuyệt vời về mối quan hệ Nhà nước pháp luật
và bất công xã hội, do sự nảy sinh chế độ tư hữu. Nhà nước và pháp luật là
sản phẩm của sự tư hữu đó. Hơn thế nữa, bất công này dẫn đến đối lập quyền
lợi, đàn áp lẫn nhau, đó là cội nguồn của áp bức. Điều này nói lên sự cố gắng
của Rútxô trong việc giải thích nguồn gốc Nhà nước và pháp luật từ lập
trường duy vật.
Theo Rútxô, mọi điều luật mà toàn dân chưa chuẩn y đều vô giá. Hội
nghị các dân biểu nếu có cũng chỉ có quyền chuẩn bị dự luật chứ không có
quyền làm ra pháp luật. Trong Nhà nước, Rútxô phân biệt quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Quyền thứ nhất là ý chí của tổ chức chính trị, còn quyền lực
thứ hai là sức mạnh của nó.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong triết học cổ điển Đức
Kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhà khai sáng người Pháp
Rousseau, Immanuel Kant (1724-1804) cho rằng, nhà nước là sự liên kết mọi
người trong khuôn khổ của pháp luật nhằm giám sát và đảm bảo quyền bình
đẳng cho mội công dân.


12
Nhà nước ra đời nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hòa sự
phát triển của xã hội theo hướng ngày càng hoàn thiện vì lợi ích con người.
Bởi theo ông, tự do không chỉ là quyền tự nhiên của mỗi người mà trong đó
còn bao hàm cả phương diện xã hội, mỗi người đều có quyền phát ngôn,
quyền tham gia vào công việc chung của nhà nước phù hợp với những gì
pháp luật quy định, ông viết: “Chỉ có trong xã hội mà các thành viên của nó
tự do cao nhất mới thực hiện được mục đích phát triển tư chất tự nhiên của
con người”[3, tr.178].

Dựa trên lý luận về “mệnh lệnh tuyệt đối” (mỗi người hành động theo
tiếng gọi lương tâm chứ không vì mục đích vụ lợi cá nhân), Kant khẳng định
rằng, trong nhà nước pháp quyền, mỗi cá nhân này không thể lấy cá nhân
khác làm mục đích hay phương tiện sống của mình, thậm chí cá nhân không
thể trở thành vật hy sinh vì phúc lợi chung của toàn xã hội. Với quan niệm cá
nhân là trung tâm như vậy, ông cho rằng, nhà nước pháp quyền không là gì
khác như một cộng đồng pháp lý, do vậy nó phải đảm đương trách nhiệm
ngăn chặn sự chuyên quyền độc đoán. Để hoàn thành nhiệm vụ cao cả này thì
bộ máy nhà nước cần có sự phân chia quyền lực: quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp, trong đó quyền lập pháp chiếm vị trí tối cao. Điều đó là cần thiết
trong một nhà nước, nơi nhân dân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quyền
lực. Công dân chỉ thực hiện những đạo luật mà họ tán thành, chứ không phải
bất cứ thứ luật lệ nào ép buộc họ. Xuất phát từ quan niệm đó, Kant khẳng
định nhà nước lý tưởng là chế độ cộng hòa thuần nhất, ở đó pháp luật chiếm
vị trí tối thượng, không phụ thuộc vào bất cứ một cá nhân nào. Quan niệm về
nhà nước pháp quyền của Kant đã tạo tiền đề cho sự hình thành tư tưởng về
nhà nước pháp quyền của Hegel
Trong “Triết học pháp quyền” (1824), Hegel (1770-1831) thể hiện
những quan điểm cơ bản của mình về nguồn gốc và bản chất nhà nước. Khác


13
với tư tưởng các nhà khai sáng giải thích nguồn gốc nhà nước từ quan điểm
“Khế ước xã hội”, Hegel khẳng định nhà nước hiện đại chỉ xuất hiện khi tồn
tại sự khác biệt giữa đẳng cấp trong xã hội, khi sự chênh lệch giữa người giàu
và người nghèo trở nên quá lớn. Do vậy, sự xuất hiện của nhà nước với tư
cách là lực lượng xã hội đóng vai trò trung gian hòa giải và dung hòa mâu
thuẫn giữa người giàu và người nghèo.
Nhà nước theo cách của Hegel không chỉ đơn thuần là cơ quan hành
pháp mà tổng thể các quy chế, đạo đức, pháp quyền, chính trị, văn hóa,... của

xã hội, nhờ đó mỗi quốc gia mới có thể phát triển bình thường. Điểm tiến bộ
trong triết học Hegel là quan điểm cho rằng, mọi hoạt động mà nhà nước phải
gắn liền với đạo đức, nói cách khác “nhà nước là tính hiện thực của ý niệm
đạo đức”.
Theo ông, thang bậc thứ nhất của đạo đức là gia đình. Ở đây, mỗi cá
nhân khước từ đặc điểm cá tính để tham gia với tư cách là một thành viên
trong một chỉnh thể là gia đình. Khi gia đình tan rã, mỗi thành viên của nó
cảm thấy cần phải hợp nhất thành một tổ chức khác (thang bậc thứ hai của
đạo đức) xã hội công dân ra đời.
Trong xã hội công dân, mỗi cá nhân theo đuổi mục đích của riêng
mình, do vậy tăng nguy cơ hỗn loạn xã hội, phát sinh nhà nước với tư cách là
giai đoạn thứ ba của đạo đức. Trong trạng thái nhà nước, tự do công dân được
biểu hiện cụ thể và đầy đủ nhất, bởi vì pháp luật nhà nước thể hiện ý chí và
bảo vệ quyền lợi chung cho mọi công dân.
Như vậy, triết học cổ điển Đức nói riêng và triết học phương Tây cận
đại nói chung đã đặt cho mình nhiệm vụ giải thích tính tất yếu, hợp lý và tiến
bộ của nhà nước và pháp luật tư sản. Bằng nhiều cách lý giải khác nhau, các
triết gia đã thể hiện ý chí và nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản trong


14
cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến lạc hậu, chuyên chế vì một trật tự xã
hội mới là xã hội tư sản.
Tóm lại, tuy còn nhiều điểm còn hạn chế do lập trường giai cấp, trình
độ nhận thức và hoàn cảnh lịch sử quy định, song tư tưởng về nhà nước pháp
quyền trong triết học trước Mác đã phần nào phản ánh được nguyện vọng và ý
chí của nhân loại tiến bộ về một xã hội mà tất cả mọi người chung sống trong
hoàn cảnh tự do, bình đẳng, bác ái.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguồn gốc, bản chất và đặc

trưng của nhà nước
Nhà nước là gì ? Nguồn gốc bản chất của nó ra sao ? Khi nào thì nhà
nước ra đời ?....Có rất nhiều câu hỏi và câu trả lời khác nhau. Nhưng chỉ đến
khi chủ nghĩa Mác ra đời thì mới có được câu trả lời và lý giải một cách đúng
đắn và khoa học nhất về vấn đề nhà nước. Trên quan điểm của chủ nghĩa duy
vật lịch sử, với sự tổng kết phân tích lịch sử nhà nước tư sản trong xã hội tư
bản C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin cho rằng: Nhà nước là một hiện tượng
lịch sử, là sản phẩm của xã hội mà trong những điều kiện lịch sử nhất định,
sự ra đời của nhà nước là sự phản ánh tất yếu tồn tại xã hội trong mỗi giai
đoạn lịch sử đó.
Nguồn gốc của nhà nước
Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm:
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” – 1884; “Nhà
nước và cách mạng” – 1917; “Kinh tế chính trị trong thời đại chuyên chính vô
sản” – 1919… C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đã chỉ ra rằng trong quá trình
phát triển của xã hội, nhà nước là một hiện tượng chính trị xã hội, một hiện
tượng lịch sử. Xã hội đã từng có giai đoạn không có nhà nước như xã hội
cộng sản nguyên thủy, với trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém, lạc hậu,


15
trong xã hội nguyên thủy chưa có sự phân hóa giai cấp, Thị tộc, Bộ lạc là
những tổ chức đầu tiên trong chế độ xã hội này. Cộng đồng dân cư là những
người bầu ra tộc trưởng đứng đầu cho thị tộc bộ lạc đó. Quyền lực của những
người đứng đầu cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh của uy tín và đạo
đức.
Do nhu cầu tất yếu để duy trì và phát triển chính cuộc sống của mình,
người dân đã bầu ra những thủ lĩnh quân sự nhằm đảm đương những chức
năng khác nhau: “Ngoài những chức năng quân sự của mình ra, người thủ
lĩnh quân sự còn có những chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng

tế lễ và tư pháp này không được quy định một cách thật chính xác, còn những
chức năng quân sự thì người thủ lĩnh quân sự thực hành với tư cách là đại
diện đại biểu tối cao của bộ lạc, hay liên minh bộ lạc” [15, tr.162].
Như vậy, những thủ lĩnh quân sự thể hiện chức năng của mình theo ý
nguyện của nhân dân. Họ không phải là người bóc lột hay cai trị bằng quyền
lực nhằm phục vụ lợi ích cá nhân của mình.
Điều đó cho thấy cơ cấu xã hội trong thời kỳ Cộng sản nguyên thủy tồn
tại, vận động và phát triển, trên cơ sở một nguyên tắc tối cao đó là chế độ tự
quản của nhân dân. Mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn tồn tại
trong vòng trật tự. Điều này đã được Ph.Ăngghen chỉ ra: “Với tất cả tính ngây
thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao,
không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng
đốc, trưởng quan và quan tòa, không có nhà tù, không có những vụ xử án, thế
mà mọi việc đều trôi chảy” [15, tr.147].
C.Mác, Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa nhất, xét đến cùng
nguồn gốc cho sự ra đời của nhà nước chính là nguồn gốc kinh tế. Và biểu
hiện trực tiếp của nó chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời
của chế độ tư hữu, dẫn đến sự phân chia giai cấp trong xã hội. C.Mác,


16
Ph.Ăngghen cho rằng cơ sở của sự tan rã xã hội cộng sản nguyên thủy và đưa
đến sự ra đời của nhà nước là:
Một là: Sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà trước hết là công cụ
lao động một mặt nó tạo ra lực lượng sản xuất, khối lượng sản phẩm của cải
tiêu dung nhiều hơn so với nhu cầu sử dụng, mặt khác nó cho phép và điều
tiết sản xuất theo hướng nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình. Như vậy sự phát triển
của lực lượng sản xuất đã đưa đến kết quả mang tính hai mặt: Thứ nhất: Chế
độ sở hữu chung trước đây bị thay thế bởi chế độ sở hữu tư nhân đối với tư
liệu sản xuất. Thứ hai: Xuất hiện chế độ người bóc lột người.

Hai là: Sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dung đã làm nảy sinh khát
vọng muốn chiếm đoạt của cải của những người có chức vị, có quyền trong xã
hội. Họ sử dụng quyền lực hiện có trong tay để tiến hành chiếm đoạt của cải
đó. Đây chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phân hóa giai xã
hội thành những người có của và những người không có của. Giai cấp xuất
hiện và tính chất của quan hệ giai cấp ở đây là người áp bức người, sự đối
kháng giai cấp một bên là giai cấp bóc lột và một bên là giai cấp bị bóc lột
ngày càng trở nên sâu sắc.
Ba là: Chiến tranh ăn cướp giữa các thị tộc, bộ lạc đã làm cho quyền
lực các thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Song song với sự lớn
mạnh về quyền lực thì lợi ích kinh tế cũng được củng cố và mở rộng. Họ trở
thành một lực lượng đối lập với nhân dân.
Bốn là: Cơ quan tổ chức thị tộc, bộ lạc dần dần trở nên xa lạ với nhân
dân. Từ chỗ là công cụ của nhân dân trở trành cơ quan đối lập thống trị và áp
bức nhân dân: Điều nay được Ph.Ăngghen chỉ ra: “Lúc đầu xã hội, bằng sự
phân công đơn giản trong lao động thiết lập ra những cơ quan đặc thù để bảo
vệ lợi ích chung của mình. Nhưng với thời gian các cơ quan ấy mà cơ quan
chủ chốt là chính quyền nhà nước do phục vụ lợi ích riêng của mình đã từ chỗ
là tôi tớ của xã hội biến thành chủ nhân của xã hội” [15, tr.288]


17
Như vậy nhà nước ra đời khẳng định một chân lý rằng nó không phải là
cơ quan điều hòa mâu thuẫn giai cấp, làm dịu những xung đột giai cấp hay vì
lợi ích chung của toàn thể quần chúng nhân dân. Ngược lại nhà nước ra đời do
mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc không thể điều hòa được. Do đó, để duy
trì lợi ích kinh tế duy trì địa vị thống trị thì nhà nước phải có những đội vũ
trang đặc biệt. Dĩ nhiên đội vũ trang này phải là những công cụ thống trị của
nhà nước.
Xét về nguồn gốc trực tiếp xuất hiện nhà nước, V.I.Lênin đã chỉ ra:

“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể
điều hòa được. Bất cứ ở đâu hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện.
Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai
cấp là không thể điều hòa được” [16, tr.9]. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong
một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở
tồn tại của nó không còn nữa.
Bản chất của nhà nước.
Xét về bản chất, nhà nước là nhà của giai cấp có thế lực nhất, của giai
cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp
thống trị về mặt mặt chính trị. Do đó, có thêm được những phương tiện để
đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức: “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy
của giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác” [15, tr.290]. Hay như
V.I.Lênin đã nói: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là
một cơ quan áp bức giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập
ra một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng
cách làm dịu xung đột giai cấp”[16, tr.9]. Nhà nước là bộ máy dùng để duy trì
sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của
một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp.


18
Không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước
chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị
về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối
với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn
áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống
trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức là nhà nước của giai
cấp bóc lột.
Theo bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung

đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay
gắt. Cũng theo bản chất đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc
thượng tầng trong xã hội có giai cấp. Tất cả những hoạt động chính trị, văn
hóa, xã hội do nhà nước tiến hành, xét cho cùng, đều xuất phát từ lợi ích của
giai cấp thống trị. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, cho dù được che giấu
dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính
phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là
công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Song nhà nước không phải là cái gì đó nhất thành bất biến mà sự vận
động phát triển của xã hội với những mâu thuẫn của giai cấp mới luôn nảy
sinh sẽ quy định sự thay thế tất yếu, chuyển từ hình thái nhà nước này sang
một hình thái nhà nước khác, từ nhà nước nô lệ, phong kiến, tư sản… đến:
“Xã hội tư bản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt
vong, không xóa bỏ được những đối kháng giai cấp. Nó chỉ đem đến những
giai cấp mới những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới
thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức cũ, những hình thức đấu
tranh cũ mà thôi”[12, tr.450]. Như vậy sự thay thế nhà nước cũ bằng nhà
nước mới không phải bằng con đường hòa bình, không có cách mạng. Trên
thực tế C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã vạch rõ trên cả hai phương diện lý


19
luận và thực tiễn rằng sự thay thế của nhà nước tất yếu bằng một con đường,
đó là một cuộc cách mạng bạo lực C.Mác đã nói rõ vai trò của cách mạng bạo
lực “là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đương thai nghén một xã hội mới”.
Đặc trưng của nhà nước.
Trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước” - Ph.Ăngghen đã nêu lên hai đặc trưng của nhà nước.
Một là, sự phân chia dân cư theo lãnh thổ
Trong công xã nguyên thủy, con người quan hệ với nhau trên cơ sở

huyết thống, sống trong lãnh thổ, tạo nên bộ tộc, bộ lạc huyết thống. Đến khi
xuất hiện nhà nước thì nhà nước là cơ quan quyền lực tập trung trên một cơ
cấu lãnh thổ nhất định. Cùng với sự xuất hiện nhà nước, biên giới quốc gia
cũng được hình thành, phân chia địa phận các quốc gia riêng rẽ. Vị trí pháp lý
về chính trị của con người được xác định bằng sự cư trú của họ trên lãnh thổ
của một quốc gia nhất định.
Hai là, xuất hiện hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang
tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội, công cụ chủ yếu của
quyền lực nhà nước là “những đội ngũ vũ trang đặc biệt” như quân đội nhà
nghề, cảnh sát vũ trang, nhà tù và cơ quan cưỡng chế, những cơ quan hành
chính thực hiện chức năng cai trị…buộc người khác phải phục tùng ý chí của
giai cấp thống trị V.I.Lênin chỉ ra rằng; “Quân đội thường trực và cảnh sát là
những công cụ vũ lực chủ yếu của quyền lực nhà nước” [16, tr.12].
Mặt khác, để nuôi dưỡng bộ máy cai trị của nó thì nhà nước đã đặt ra
và dựa vào nguồn thuế khóa, quốc trái và nhiều hình thức bóc lột khác. Ph.
Ăngghen viết: “Nắm được quyền lực công cộng và quyền thu thuế, bọn quan
lại với tư cách là những cơ quan của xã hội, được đặt lên trên xã hội” [15,
tr.254]. Ngoài hai đặc trưng cơ bản trên, nhà nước còn có những đặc trưng
quan trọng khác như một bộ máy thực hiện chức năng quản lí và cưỡng chế.


20
Nhà nước với chức năng cưỡng chế mang thống trị chính trị của giai cấp cầm
quyền là công cụ chuyên chính của giai cấp đó. Mặt khác nhà nước thực hiện
chức năng quản lí những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội trong một
giới hạn nhất định, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của toàn thể nhân dân dưới
sự quản lí của nhà nước. Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lợi nhà
nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và đối ngoại.
Tóm lại, trên đây là những tư tưởng căn bản nhất của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về nguồn gốc, bản chất, chức năng và con đường bạo

lực cách mạng để thay thế hình thái nhà nước trong lịch sử xã hội loài người.
Trên cơ sở những quan điểm về vấn đề nhà nước, đó chính là cơ sở lí luận để
soi đường cho việc đi sâu nghiên cứu về vấn đề nhà nước của giai cấp vô sản
được bộc lộ một cách chín muồi nhất trong xã hội tư bản chủ nghĩa.
1.2.2. Quan điểm “Nhà nước tức là giai cấp vô sản được tổ chức
thành giai cấp thống trị, là việc giành lấy dân chủ”.
Việc lí giải bản chất, vai trò và chức năng của nhà nước đã và sẽ còn là
một trong những vấn đề trọng điểm phức tạp, gay gắt trong cuộc đấu tranh tư
tưởng chính trị xã hội. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã đóng góp to lớn và
kho tàng to lớn về vấn nhà nước và đặc biệt là về nhà nước của giai cấp vô
sản. Trên thực tế cho đến nay những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin vẫn luôn có ý nghĩa thời đại to lớn.
Ngay trong tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, C.Mác đã đưa ra
một định nghĩa về nhà nước có tính trọng yếu nhất, nhà nước tức là giai cấp
vô sản được tổ chức thành giai cấp thống trị. Như vậy, lí luận về nhà nước của
Mác gắn liền một cách mật thiết với toàn bộ học thuyết của ông về vai trò
cách mạng của giai cấp vô sản. C.Mác cho rằng giai cấp vô sản không thể tự
giải phóng mình và toàn thể nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột dưới chế độ
tư bản chủ nghĩa nếu không thay thế xã hội tư bản cũ bằng một tổ chức liên


21
hiệp, tổ chức liên hiệp này sẽ loại bỏ các giai cấp sự ra đời đối kháng giai cấp.
Trong nhiều tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen như: “Sự khốn cùng của triết
học”, “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Ngày 18 tháng sương mù của Lui Bônapactơ”, “Nội chiến ở Pháp”, “Phê phán cương lĩnh Gôta”, hay trong thư
Ph.Ăngghen gửi A.Bêben ngày 18-28 tháng 3 năm 1875… đều đã chỉ ra rằng:
“bước thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản và người lao
động cần có nhà nước” tức giai cấp vô sản được tổ chức thành giai cấp thống
trị” [11, tr.626].
Như vậy, nhà nước là một tổ chức quyền lực đặc biệt, nó là tổ chức bạo

lực của giai cấp thống trị. Sự thống nhất về lợi ích kinh tế là điều kiện cần để
có sự thống nhất về quyền lực chính trị giữa giai cấp vô sản và quần chúng
người lao động. sự ra đời của nhà nước của giai cấp vô sản là để trấn áp sự
phản kháng của giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản cần đến nhà nước không
phải vì tự do mà là để trấn áp kẻ địch của mình, và ngày nào có thể nói đến tự
do thì nhà nước không còn nữa” [12, tr.18].
Tuy nhiên không phải giai cấp nào lực lượng nào cũng thực hiện được
vai trò sứ mệnh lịch sử này, C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: chỉ
có giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh đó: “Vì nó là giai cấp duy nhất
triệt để cách mạng, giai cấp duy nhất có thể đoàn kết tất cả những người lao
động và tất cả những người bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản nhằm truất bỏ giai cấp đó hoàn toàn” [16, tr.31]. Và giai cấp vô sản thông
qua cách mạng bạo lực thực hiện cách mạng bạo lực thực hiện cách mạng
chính trị bằng cách thiết lập một chính quyền của mình – Nhà nước vô sản.
Tính tất yếu của việc giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng thể hiện ở chỗ
đó là giai cấp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, trực tiếp nắm trong tay
tư liệu sản xuất, có tinh thần kỷ luật và được vũ trang lý luận chủ nghĩa Mác.
Do đó, nguyên tắc liên kết giai cấp giữa giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân


×