Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.3 KB, 70 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
DƯƠNG THỊ BÊ
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở
HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Huế, 05/2011
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
DƯƠNG THỊ BÊ
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở
HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Huế, 05/2011
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ DÂN TỘC
VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở
HUYỆN NAM ĐÔNG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
ThS.Lê Thị Kim Phương Dương Thị Bê
Triết K31
Huế, 05/2011
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành Khóa luận Tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng cảm


ơn sâu sắc đến cô giáo, ThS. Lê Thị Kim Phương cùng các thầy, cô giáo
trong khoa Lý luận chính trị, bạn bè và người thân đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ em giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thời gian nghiên
cứu.
Em xin chân thành cảm ơn Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân, phòng Dân
tộc huyện Nam Đông, Thư viện trường Đại học Khoa học Huế; Trung
tâm Học liệu Đại học Huế đã tạo điều kiện cho em hoàn thành Khóa luận
Tốt nghiệp này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do kiến thức còn hạn chế, thời
gian không nhiều và những lý do khách quan khác, nên không tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong các thầy, cô giáo góp ý để Khóa luận của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn!
Sinh viên:
Dương Thị Bê
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH
DÂN TỘC 5
1.1. Khái niệm dân tộc và chính sách dân tộc 5
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc 11
1. 3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và quan điểm chính sách dân tộc của
Đảng và nhà nước ta 18
1.4. Định hướng chính sách dân tộc của Tỉnh Thừa Thiên Huế 31
CHƯƠNG 2: VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở HUYỆN NAM
ĐÔNG TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 34
2.1. Sơ lược về huyện Nam Đông 34
2.2 Thực trạng của việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông. 40
2.3. Phương hướng, giải pháp và kiến nghị 53

KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề dân tộc là một nội dung có ý nghĩa chiến lược lớn của chủ
nghĩa Mác – Lênin và của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề thực tiễn
nóng bỏng đòi hỏi giải quyết một cách đúng đắn.
Trong tình hình hiện nay nhiều cuộc xung đột dân tộc, nhiều “Điểm
nóng” về dân tộc trên thế giới đang diễn ra gay gắt, trong khi đó mối quan
hệ giữa các dân tộc anh em nước ta vẫn giữ được thế ổn định, đó là thành
công lớn trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta.
Tuy nhiên chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng các mối quan hệ dân tộc vẫn
còn tiềm ẩn những yếu tố có thể gây bất ổn đang đòi hỏi chúng ta phải tỉnh
táo, nhạy bén, giải quyết kịp thời tránh những diễn biến phức tạp.
Việc nhận thức đúng đắn quan điểm của chủ nghhĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cộng
sản Việt Nam, đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên cả nước nói chung
và có những chính sách phù hợp đến từng địa phương trong cả nước nói
riêng.
Đối với huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một huyện miền
núi có nhiều dân tộc sinh sống như: Cơ tu, Tà ôi, Pa cô, Pa hy,Vân Kiều,…
Việc thực hiện tốt chính sách dân tộc là một vấn đề bức thiết. Muốn vậy,
cần phải nắm vững những quan điểm của chủ nghhĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc sẽ giúp chúng ta có cơ sở khoa học để đánh
giá đúng việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa
Thiên Huế và đưa ra những giải pháp định hướng tốt hơn để thực hiện chính
sách dân tộc trên địa bàn huyện nhằm ổn định tình hình chính trị, phát triển
kinh tế xã hội.
Đặc biệt, Nam Đông nói riêng và cả nước nói chung đang bước vào
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề ổn định chính trị và đoàn kết

dân tộc được xem là chiến lược quan trọng.Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc và việc thực hiện
chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế” là việc làm
cần thiết và có ý nghĩa nhất định.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Trong nhiều năm qua có rất nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp và
gián tiếp phán ánh những mức độ và khía cạnh khác nhau về quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về việc thực hiện chính sách dân tộc trong giai đoạn
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như:
“Một số suy nghĩ trong việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vế
vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của
tác giả Trần Đình Huỳnh, tạp chí Dân tộc học. Tác phẩm đã nêu lên việc
công tác dân tộc, tầm chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa ,để có
những quyết sách chiến lược nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế xã hội
làm cơ sở vẫn chắc cho việc cố kết các tộc người để củng cố tính thống
nhất, hòa hợp giữa các dân tộc Việt Nam phải điều tra một cách cơ bản và
có hệ thống từng dân tộc, từng vùng, phải hiểu biết con người, lịch sử, văn
hóa, truyền thống, những điều kiện tự nhiên và các quan hệ của con người
để làm cơ sở cho việc định ra nội dung, chính sách, hình thức, bước đi và
cách thức tổ chức thực hiện phù hợp, trên cơ sở đó của tác giả Trần Đình
Huỳnh, tác giả đã kế thừa những quan điểm, chiến lược và phải biết phong
tục tập quán của từng dân tộc để có những chính sách phù hợp nhằm phát
triển vấn đề dân tộc.
Tác giả: Phan Hữu Dật với “Về việc xác định các dân tộc, các
nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng” bài viết đã đề cập
đến các nguyên tắc cơ bản, chính sách dân tộc của Lê nin và các nguyên tắc
cơ bản của chính sách dân tộc của Đảng ta Từ bài viết trên tôi đã học hỏi
thêm về các nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc.
“ Đổi mới tư duy trong nghiên cứu lí luận và thực tiễn vấn đề dân
tộc nước ta để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai

đoạn mới” của Hoàng Tường Minh. “Chính sách Lênin nít về dân tộc
trong thực tiễn cách mạng” của Đỗ Tư. “Tư tưởng của V.I. Lênin về
quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam” của Hoàng Mai Hương,
Nguyễn Hồng Hải.
Ngoài ra còn nhiều tài liệu, Tạp chí triết học, Tạp chí Cộng sản, Tạp
chí lí luận chính trị, và các tác phẩm của các nhà kinh điển, các nhà lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học đầu ngành, các cán bộ công tác lí luận
chính trị.
Những công trình trên có giá trị khoa học cao, nhìn một cách tổng
quát các công trình đó đã giải quyết các vấn đề liên quan đến đề tài. Những
vấn đề trên đã chỉ dẫn, gợi ý hết sức quý báu cho việc triễn khai nội dung
nghiên cứu khóa luận. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một đề tài nào làm rõ
quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lên nin về vấn đề dân tộc và việc thực hiện
chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Trên cơ sở kế thừa những tài liệu đã có của chủ nghĩa Mác – Lên nin
về vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Tác giả đã chọn đề tài này làm khóa luận tốt nghiệp
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích:
Góp phần làm rõ quan điểm của củ nghĩa Mác - Lê nin về vấn đề dân
tộc và việc vận dụng quan điểm đó vào việc phân tích đánh giá tình hình,
thực trạng thực hiện chính sách dân tộc và đưa ra những giải pháp định
hướng cho việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa
Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Trình bày hệ thống quan điểm của củ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân tộc. Nêu ra những chính sách dân tộc của Đảng Cộng
Sản Việt Nam trên cở sở đó chỉ ra những việc thực hiện chính sách dân tộc
ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.Qua đó đã nêu lên một số đề xuất,

kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc ở
huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian đến.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1. Cơ sở lí luận:
Đề tài lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc làm cơ sở để nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của Chủ nghĩa duy vật biện
chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp một số phương pháp
nghiên cứu khác như: Phân tích – tổng hợp, lôgic – lịch sử, khái quát…
5. Đóng góp của đề tài.
Với phạm vi là khóa luận tốt nghiệp, đề tài không kỳ vọng gì nhiều.
Tuy nhiên, đề tài nêu lên một cách có hệ thống, khoa học quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc. Bên cạnh đó, đã
làm rõ những phần nào chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam nói
chung cũng như việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh
Thừa Thiên Huế nói riêng. Với kết quả đó đề tài có thể làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này và nói lên việc thực hiện chính
sách dân tộc ở huyện Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
6. Kết cấu của khoá luận.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
Khoá luận được kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ DÂN TỘC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC
1.1. Khái niệm dân tộc và chính sách dân tộc
1.1.1. Khái niệm về dân tộc
Lịch sử phát triển nhân loại đã chứng minh rằng: dân tộc là sản phẩm
của quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người.Tuy nhiên, ở mỗi quốc
gia, khu vực sự hình thành dân tộc có những đặc thù khác nhau, nhưng nhìn

chung vẫn có thể trình bày sự hình thành đó bằng những nét phổ quát nhất.
Trước khi cộng đồng người xuất hiện, loài người đã trải qua những
hình thức cộng động người từ thấp đến cao như: Thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Thị
tộc và tiếp theo sau đó là bộ lạc là những hình thức cộng đồng tộc người đầu
tiên trong lịch sử, xuất hiện và tồn tại trong thời đại công xã nguyên thủy,
trong đó yếu tố huyết thống đóng vai trò chi phối. Tiếp theo là bộ tộc - hình
thức cộng dồng người xuất hiện và tồn tại trong chế độ nô lệ và phong kiến.
Ở cộng đồng bộ tộc, những nhân tố tộc người trong cộng đồng thị tộc, bộ
lạc được kế thừa và phát triển ở mức cao hơn, nhưng đã chịu sự chi phối của
nhân tố kinh tế, nhân tố giai cấp.
Trước khi bàn đến khái niệm dân tộc có rất nhiền ý kiến khác nhau.
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc” thì Xtalin viết rằng:
“Dân tộc là khối người, cộng đồng người ổn định thành lập trong lịch sử,
dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và
hình thức tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng về văn hóa”.[19; 11]
Khi trình bày định nghĩa dân tộc Xtalin còn nêu hai điều kiện:
Thứ nhất, dân tộc phải là một phạm trù lịch sử của thời đại tư bản chủ
nghĩa đang lên, trước Chủ nghiã tư bản thì không thể có dân tộc.
Thứ hai, là phải có bốn yếu tố: ngôn ngữ, lãnh thổ, kinh tế, văn hóa
mới hình thành dân tộc, chỉ thiếu một trong bốn yếu tố đó thì cộng đồng
người nào đó không thể trở thành dân tộc.
Xung quanh định nghĩa này của Xtalin có nhiều ý kiến khác nhau:
Sau khi Liên bang Xô Viết bị sụp đổ hàng loạt ý kiến phủ nhận định
nghĩa của Xtalin như Kozlov viết: Trong hàng loạt thập kỉ ở Liên Xô trước
đây việc khám phá thuyết dân tộc chung quy chỉ là minh họa nghèo nàn về
bản chất cho những lập luận có tính chất chỉ thị của Xtalin người mà năm
1913 nêu ra định nghĩa về dân tộc bằng cách ghép vào đó hai dấu hiệu
katsky (tính cộng đồng ngôn ngữ và lãnh thổ) và, một dấu hiệu theo
O.Bauer (tính cộng đồng với nêt tâm lý hoạc tính cách dân tộc) đã bổ sung
thêm vào đấy tính cộng đồng nhà nước chứ không phải là cộng đồng dân

tộc. Định nghĩa giáo điều như vậy chẳng có chút giá trị nào về mặt lý luận
và thực tiễn.
Có thể nói rằng với ý kiến trên thì ở Liên Bang Xô Viết định nghĩa
của Xtalin về dân tộc bị phủ nhận.
Ở Việt Nam, tuy không chịu ảnh hưởng khái niệm dân tộc của Xtalin
nhưng một số học giả đã phủ nhận một điều kiện tiền đề của Xtalin và cho
rằng dân tộc Viêt Nam đã hình thành từ chế độ phong kiến. Cố tổng bí thư
Lê Duẩn là người đầu tiên đã nêu lên quan điểm độc lập và sáng tạo về khái
niệm dân tộc ở Việt Nam: dân tộc Việt Nam hình thành từ khi lập nước, và
theo cố tổng bí thư Lê Duẩn: dân tộc Việt Nam ta có lịch sử lâu đời mấy
ngàn năm, có ngôn ngữ riêng, có phong tục tập quán riêng, cốt cách làm ăn
riêng, phong thái sinh hoạt riêng và có nền văn hóa lâu đời của mình. Tất cả
những cái đó tạo nên truyền thống, tình cảm riêng của dân tộc ta.
Quan điểm này của cố tổng bí thư Lê Duẩn đã được giáo sư Hà Văn
Tấn khẳng định lại một cách thuyết phục: “Dân tộc Việt Nam đã được hình
thành từ thời Hùng Vương”[19;17].
Ngày nay có thể nói rằng định nghĩa dân tộc của Xtalin không còn
phù hợp với thực tiễn và không còn phù hợp với quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, cụ thể là:
Trong tác phẩm “Thời kỳ Prăngcơ” khi nói về công xã Mác-Ăngghen
đã gắn liền sự hình thành dân tộc với sự ra đời của nhà nước. Các ông cho
rằng, nhà nước là điều kiện sau này của dân tộc.
Về quá trình hình thành nhà nước trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
Mác-Ăngghen viết: “Sự phân công lớn nhất của lao động vật chất và lao
động tinh thần là sự tách rời giữa thành thị và nông thôn xuất hiện với bước
quá độ từ thời kỳ dã man sang thời kỳ đại văn minh, từ chế độ bộ lạc lên
Nhà Nước, từ tính địa phương lên tính dân tộc và tồn tại mãi suốt thời kỳ
lịch sử văn minh cho đến nay”[3;72].
Trong tác phẩm “Biện chứng tự nhiên” Ăngghen cho rằng: Cuối cùng
nghệ thuật và khoa học ra đời bên cạnh thương nghiệp và thủ công nghiệp

các bộ lạc biến thành những dân tộc và quốc gia.
Ở tác phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản ” Mác - Ăngghen đã nói về
một loại dân tộc mới hình thành trong thời kỳ đại tư bản chủ nghĩa, dân tộc
tư sản: “giai cấp tư sản ngày càng xóa bỏ trình trạng phân tán về tư liệu sản
xuất, về tài sản và về dân cư. Nó tụ tập dân cư tập trung các tư liệu sản
xuất, và tích tụ tư sản vào trong tay một số ít người kết quả tất nhiên của
một số ít người, kết quả tất nhiên của những thay đổi ấy là sự tập trung về
chính trị. Những địa phương độc lập liên hệ với nhau hầu như chỉ bởi những
quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ chính phủ thuế quan khác
nhau, thì đã được tập hợp lại thành một dân tộc thống nhất”[6;82]
Nếu như Ăngghen nói về nhà nước là điều kiện tồn tại của dân tộc thì
hình thái cộng đồng người dưới chế độ chiếm hữu nô lệ là dân tộc chiếm
hữu nô lệ, dưới chế độ phong kiến là dân tộc phong kiến, khi đọc “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” thì thấy rằng, Mác – Ăngghen không coi dân tộc
là phạm trù duy nhất của thời đại tư bản chủ nghĩa, của xã hội có giai cấp,
có nhà nước, các ông còn gọi các cộng đồng người chưa đạt đến hình thành
nhà nước cũng bằng dân tộc: “Nhờ cải biến mau chóng công cụ sản suất và
làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng thuận lợi giai cấp tư
sản lôi cuốn cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh”[6; 81].
Như vậy, thuật ngữ dân tộc không chỉ để áp dụng cho dân tộc tư sản
mà còn để gọi các cộng đồng người trong xã hội có nhà nước dưới các hình
thái kinh tế xã hội khác nhau như: Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư sản,
Cộng sản chủ nghĩa (xã hội chủ nghĩa). Nói một cách khác có dân tộc tư
sản, dân tộc tiền tư sản và dân tộc hậu tư sản.
Nên định nghĩa dân tộc của Xtalin và hai điều kiện tỏ ra không thích
hợp, còn bốn đặc trưng tuy không lỗi thời nhưng đòi hỏi phải có sự chỉnh lý.
- Đặc trưng ngôn ngữ : Đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
-Đặc trưng lãnh thổ: Lúc đầu mới hình thành dân tộc thì đây là điều
kiện bắt buộc nhưng về sau khi dân tộc bị sé lẻ, phân tán đi nhiều nơi thì
không phải là đặc trưng bắc buộc (trường hợp dân tộc Do Thái).

-Đặc trưng kinh tế: Thị trường chung có thể thay thế bằng lợi ích
chung (lợi ich kinh tế, lợi ích chính trị).
-Đặc trưng văn hóa: Cần thiết nhưng chỉ giới hạn trong khuôn khổ
tâm lý thì quá hạn hẹp, nên có thể mở rộng thành đặc tính dân tộc. Còn về
phong tục tập quán rất quan trọng, nhưng nên tách ra thành một đặc trưng
riêng như các nhà dân tộc học Trung Quốc đã làm.
Có thể nói rằng: Có rất nhiều khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất:
Nghĩa thứ nhất: Dân tộc là chỉ cộng đồng người có mối quan hệ chặt
chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hóa có
những đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý thức tự giác
tộc người của dân cư cộng đồng đó.
Với nghĩa này dân tộc là một bộ phận của quốc gia
Ví dụ: dân tộc Kinh, dân tộc Ba na, dân tộc Êđê… ở nước ta .
Nghĩa thứ hai: Chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân
một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và
có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau về quyền lợi chính trị,
kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó (quốc gia
dân tộc).
Ví dụ: Dân tộc Ấn Độ, dân tộc Trung Hoa, dân tộc Viêt Nam…Ta
cũng có thể gọi: là quốc gia Ấn Độ, quốc gia Trung Hoa, quốc gia Việt
Nam.
Dân tộc thường được nhân biết qua các đặc trưng chủ yếu sau:
- Có chung sinh hoạt kinh tế, các mối quan hệ kinh tế là cơ sở để liên
kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc. Nó tạo nên cở sở vững chắc của
cộng đồng dân tộc.
- Có thể tập trung trên một vùng lãnh thổ của cả nước hoặc cư trú đan
xen với nhiều dân tộc anh em. Vận mệnh dân tộc một phần rất quan trọng

gắn với việc xác lập và bảo vệ lãnh thổ đất nước.
- Có ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng (trên cơ sở ngôn ngữ
chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, tình cảm.
- Có nét tâm lý riêng ( nét tâm lý dân tộc ) biểu hiện kết tinh trong đặc
thù văn hoá dân tộc gắn bó với nết văn hoá của cả cộng đồng các dân tộc
(quốc gia dân tộc).
Các đặc trưng chủ yếu trên gắn bó chặt chẽ với nhau trong một chỉnh
thể đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định.
Sự tổng hợp các đặc trưng nêu trên làm cho cộng đồng dân tộc được
đề cập ở đây về thực chất là một cộng đồng xã hội - tộc người, trong đó
những nhân tố tộc người đoàn kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội. Điều
đó làm cho khái niệm dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc, chủng tộc,
thường chỉ căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, chẳng hạn màu da, hay cấu
tạo tự nhiên, các bộ phận trong cơ thể phân loại cộng đồng người.
Hiểu khái niệm và các đặc trưng của dân tộc như trên càng thấy rằng
khái niện dân tộc và khái niệm quốc gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Điều
khẳng định có căn cứ ở chổ dân tộc ra đời trong những quốc gia nhất định
và thường thì những nhân tố hình thành dân tộc chín muồi không tách rời
với sự chín muồi của nhân tố hình thành quốc gia chúng bổ xung và thúc
đẩy lẫn nhau.
1.1.2 Khái niệm về chính sách dân tộc
Thuật ngữ “Chính sách dân tộc” cần được phân biệt với chính sách xã
hội, chính sách miền núi và chính sách dân vận của Đảng, để từ đó xác định
vị trí, nội dung, tổ chức bộ máy, phương hướng hoạt động thực hiện chính
sách dân tộc.
Chính sách dân tộc giải quyết mối quan hệ trong cộng đồng dân cư đa
dân tộc của một quốc gia theo quan điểm của giai cấp nắm chính quyền.
Chính sách dân tộc của Đảng công sản là môt hệ thống chủ trương và giải
pháp nhằm thực hiện quyền bình đẳng chính trị, kinh tế, văn hoá giữa các

dân tộc, trong đó có sự quan tâm đến các dân tộc thiểu số có trình độ phát
triển kinh tế xã hội thấp. Chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ta đảm
bảo phát huy sức mạnh dân tộc và bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc, giải
quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa các dân tộc làm cho các dân tộc đoàn
kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển.
Chính sách xã hội là chính sách về con người chăm lo bồi dưỡng và
phát huy nhân tố con người. Trên ý nghĩa đó, chính sách dân tộc nằm trong
chính sách xã hội, nhưng không đồng nhất với chính sách xã hội. Đảng ta đã
xác định, chính sách dân tộc là vấn đề chiến lược lớn của cách mạng. Đồng
nhất chính sách dân tộc với chính sách xã hội sẽ không quán triệt đầy đủ
tính chất, đặc điểm, tầm quan trọng của lĩnh vực công tác này, hạn chế,
thậm chí mắc sai lầm trong thực tiễn công tác.
Chính sách dân tộc cũng không đồng nhất với chính sách miền núi.
Miền núi có địa hình phức tạp, xa cách trung tâm chính trị , kinh tế, văn hóa.
Điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở miền núi thường gặp khó khăn. Đồng
bào các dân tộc thiểu số thường sống ở miền núi. Vì vậy việc thực hiện
chính sách miền núi có nội dung quan trọng là thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng . Tuy nhiên ở nước ta hiện nay số lượng người kinh ở miền núi và
dân tộc thiểu số từ nơi khác đến đã tăng lên đáng kể. Tỉ lệ này ở miền núi
phía Bắc là 56%, Tây Nguyên 60%, đặc biệt nam Tây Nguyên 80%. Trong
các dân tộc thiểu số có dân tộc sinh sống ở đồng bằng. Đồng bào dân tộc
Chăm sống ở Đồng bằng và miền núi Ninh Thuận, Bình Thuận; đồng bào
Khơ me sống ở Đồng bằng sông Cửu Long, còn người Hoa sống chủ yếu ở
thành thị. Do vậy chính sách dân tộc miền núi quan tâm đến điều kiện cụ thể
của dân cư sống ở miền núi không hoàn toàn đồng nhất với chính sách dân
tộc, quan tâm đến điều kiện đặc thù của các dân tộc thiểu số.
Quan niệm chính sách dân tộc với chính sách dân vận cũng khác nhau
cơ bản. Chính sách dân vận có đối tượng là các từng lớp dân cư. Theo đặc
điểm của lứa tuổi, giới tính tôn giáo, nghệ thuật… Trong các dân tộc đều có
các đối tượng trên thuộc phạm vi của công tác dân vận. Nhưng chính sách

dân tộc chú ý đến đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập quán,
điều kiện phát triển của mỗi dân tộc nên không hoàn toàn đồng nhhấ với
chính sách dân vận.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
1.2.1 Quan điểm của Mác-Ăngghen về dân tộc
Khi đọc tác phẩm của Mác –Ăngghen chúng ta thấy rằng hai ông
chưa nêu lên định nghĩa về giai cấp hay dân tộc. Nhưng vấn đề về giai cấp
hay dân tộc đã được Mác-Ăngghen dành cho một vị trí quan trọng trong học
thuyết của mình.
Khi xác định khái niệm dân tộc trong tác phẩm: “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản’’ Mác và Ăngghen không chỉ đề cập đến vấn đề dân tộc tư
sản mà còn đề cập đến vấn đề dân tộc tiểu tư sản, thậm chí còn nói đến dân
tộc dã man nhất nghĩa là chưa đạt đến trình độ nhà nước. Quan điểm của
Mác - Ăngghen về sự hình thành dân tộc: Từ tổ chức bộ lạc lên nhà nước, từ
tính địa phương lên dân tộc một lần nữa được thể hiện trong tác phẩm ‘‘Hệ
tư tưởng Đức”. Trong tác phẩm “Biện chứng tự nhiên”, Ăngghen cũng nêu
lên quan điểm về con đường hình thành dân tộc và quốc gia, các bộ lạc biến
thành những dân tộc và quốc gia.
Đứng trên lập trường chân chính của giai cấp vô sản, Mác và
Ăngghen đã cương quyết chống lại đường lối dân tộc của giai cấp tư sản.
Đọc tác phẩm của Mác và Ăngghen chúng ta thấy rãi rác đó đây trong
các công trình nghiên cứu của hai ông có thể rút ra một số luận điểm về vấn
đề quan trọng này:
Một là: Mác và Ăngghen cương quyết chống lại ách áp bức và bóc lột
các dân tộc khác của giai cấp tư sản:
“Hãy xóa bỏ trình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này
bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”[6;106]
Một dân tộc này mà đi bóc lột dân tộc khác thì dân tộc đó không thể
tự do.
Lịch sử Ai – xơ – len chứng minh rằng đối với một dân tộc đi nô dịch

dân tộc khác thì tai họa biết chừng nào.
Dưới góc độ hoạt động của các nhà cách mạng vì giai cấp vô sản,
Mác và Ăngghen luôn quan tâm và ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của
các dân tộc bị áp bức và thuộc địa. Hai ông đã kêu gọi công nhân Đức kêu
gọi cuộc đấu tranh của nhân dân Ba Lan, khi cuộc đấu tranh của nhân dân
Ba Lan chống ách thống trị của Nga Hoàng bùng nổ vào những năm 40 của
thế kỉ XIX. Năm 1857, Ph. Ăngghen đã viết bài kêu gọi ủng hộ phong trào
giải phóng dân tộc đang phát triển ở nhiều quốc gia trong châu lục này như:
Ấn Độ, Trung Quốc, Iran, Ai Cập. C.Mác đã kịch liệt phê phán lập trường
sô vanh của những người lãnh đạo cách mạng Tây Ban Nha khi họ từ chối
trao trả độc lập cho những nước thuộc địa của Bồ Đào Nha ở Mỹ La Tinh,
mà muốn thay thế thực dân Bồ Đào Nha cai trị những nước thuộc địa đó.
Cũng trong thập kỉ 50 của thế kỷ XIX, Mác và Ăngghen đã có nhiều bài viết
bênh vực quyền độc lập của Ai – xơ - len một nước đang nằm dưới ách
thống trị của thực dân Anh.
Hai là: khi đề cập đến phong trào giải phóng dân tộc ở Ba Lan, Ai –
xơ - len, vùng Băng can… Mác và Ăngghen trước sau như một ủng hộ cuộc
đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, để thành lập chế độ tự trị, thậm chí tách
ra thành một nhà nước độc lập riêng biệt.
Trong thư đề ngày 2. 11.1867 Mác viết cho Ăngghen như sau:
“Trước kia tôi cho rằng Ai-xơ-len không thể tách khỏi mặc dù sau khi tách
ra thì tình hình sẽ đi đến thành lập liên bang’’[5;533].
Để giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để trên lập trường giai cấp
vô sản, Mác và Ăngghen chủ trương tiến hành thủ tiêu nhà nước tư sản xây
dựng một nhà nước kiểu mới, không còn đối kháng giai cấp nữa.
“Khi sự đối kháng giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự
thù địch giữa các dân tộc đồng thời cũng mất theo”[6;106]
Trong điều kiện lúc đó hai ông nhận thức rằng cách mạng xã hội
không thể giành thắng lợi trong một nước riêng lẻ mà chỉ có thể thắng lợi
trong một loạt nước, vì vậy để đạt được mục đích lật đổ giai cấp tư sản, giai

cấp vô sản tất cả các nước hãy liên hiệp lại. Nhu cầu tất yếu là phải thiết lập
sự đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa quốc tế vô sản là nét rất quan trọng trong thế
giới quan cộng sản chủ nghĩa. Chính vì vậy, “Tuyên ngôn của Đảng cộng
sản” nổi tiếng kết thúc bằng khẩu hiệu có sức mạnh động viên và cổ vũ lớn
lao mang tính thời đại “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”.[6;132]
1.2.2 Quan điểm của Lênin về dân tộc
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và phong trào dân tộc trong điều kiện
của chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan :
Xu hướng thứ nhất: Ở những quốc gia khu vực chủ nghiã tư bản gồm
nhiều cộng đồng dân cư có nguồn gốc tộc người khác nhau làm ăn, sinh
sống đến một thời kỳ nào đó, sự trưởng thành của ý thứ dân tộc, sự thức tỉnh
đầy đủ về quyền sống của mình và các cộng đồng dân cư đó muốn tách khỏi
nhau để thành lập các dân tộc độc lập. Bởi vì họ hiểu rằng, chỉ trong cộng
đồng độc lập đó họ mới có quyền quyết định vận mệnh của mình mà cao
nhất là quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của
dân tộc mình. Trong thực tế, xu hướng này biểu hiện thành phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc để đi tới thành lập các quốc gia độc lập dân tộc.
Xu hướng này phát huy tác động trong giai đoạn đầu của chủ nghiã tư bản
và vẫn còn tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí, các dân
tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Chính sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn
hóa trong xã hội tư bản đã làm xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách
giữa các dân tộc, tạo nên mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các
dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau. Xu hướng này phát huy tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Sự thể hiện hai xu hướng khách quan trên đây trong điều kiện của chủ
nghĩa đế quốc gặp nhiều trở ngại. Nguyện vọng của các dân tộc được sống
độc lập, tự do bị chính sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ. Chính
sách xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đã biến hầu hết các dân tộc nhỏ bé

hoặc còn ở trình độ lạc hậu thành thuộc địa và phụ thuộc của nó. Xu hướng
các dân tộc xích lại gần nhau trên cơ sở tự nguyên và bình đẳng bị chủ nghĩa
đế quốc phủ nhận để thay vào đó là những khối liên hợp do nó lập ra nhằm
duy trì sự áp đặt, sự áp bức bóc lột đối với các dân tộc đó, trên cơ sở bất
bình đẳng và bị cưỡng bức.
Dựa trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề
dân tộc, dựa vào sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách
mạng thế giới và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách
quan của phong trào dân tộc gắn liền với quá trình phát triển của chủ nghĩa
tư bản nhất là khi đã bước vào giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Lênin đã khái
quát lại thành “Cương lĩnh dân tộc” của Đảng cộng sản. Trong tác phẩm về
quyền dân tộc tự quyết, Người đã nêu rõ: “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng,
các dân tộc được quyền tự quyết, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại”
[14;375].
“Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc đầu tiên trong
cương lĩnh mác xít về vấn đề dân tộc. Đây là một phạm trù rất rộng, nó
không chỉ là sự bình đẳng giữa dân tộc này với dân tộc khác trong nội bộ
của một quốc gia mà còn là sự bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc khác
trong quan hệ quốc tế. Theo V.I.Lênin nội hàm của quyền bình đẳng dân tộc
bao gồm bình đẳng trong việc thành lập quốc gia dân tộc riêng của họ”.
[12;73].
Nội dung cơ bản của quyền bình đẳng dân tộc theo Lênin là các dân
tộc dù lớn hay là nhỏ dù đông người hay ít người điều có nghĩa vụ hay
quyền lợi ngang nhau mà không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc
lợi về chính trị, kinh tế văn hóa với dân tộc khác. Đây là sự bình đẳng hoàn
toàn một sự bình đẳng toàn diện giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực về chính
trị, kinh tế, văn hóa.
Ý nghĩa sâu sắc về quyền bình đẳng dân tộc, Lênin chỉ rõ như sau: ý
nghĩa sthật sự của việc đòi quyền bình đẳng chung quy chỉ là đòi thủ tiêu
giai cấp. Bình đẳng văn hóa có nghĩa là các dân tộc có quyền sử dụng tiếng

mẹ đẻ trong trường học, văn hóa, nhà hát… Mặt khác Lênin còn cho rằng
nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa sẽ đòi hỏi các dân tộc sống trong một
quốc gia phải học tiếng của dân tộc đa số.
Quyền dân tộc tự quyết : là nguyên tắc quan trọng thứ hai trong
cương lĩnh của Lênin về vấn đề dân tộc. Mọi người đều biết, đế quốc Nga
Sa Hoàng là một nhà tù lớn của rất nhiều dân tộc. Các dân tộc bị trị bị áp
bức và bị bóc lột nặng nề không được quyền quyết định vận mệnh của mình.
Trong điều kiện như vậy khẩu hiệu “Dân tộc tự quyết” có sức lôi cuốn mạnh
mẽ các dân tộc bị áp bức vào trào lưu cách mạng do giai cấp vô sản lãnh
đạo. Nội dung cơ bản của quyền dân tộc tự quyết là các dân tộc có quyền tự
quyết đối với vận mệnh của dân tộc mình mà không ai ở ngoài có quyền can
thiệp vào cộng việc nội bộ của dân tộc đó.
Khẩu hiệu về quyền dân tộc tự quyết của dân tộc là một bịên pháp
tích cực trong cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cho sự gần gũi của các dân
tộc Lênin đã nhìn thấy rằng: cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ đem lại cho các
dân tộc bị áp bức và thuộc địa một sự tự do hoàn toàn tách ra, với mục đích
xích gần, tự nguyện và sự đoàn kết của các dân tộc được phát triển dễ dàng
và nhanh chóng. Nhưng quyền tự quyết hoàn toàn có nghĩa là cần thiết phải
tách khỏi nước lớn trong mọi điều kiện Lênin đã nhiều lần lên tiếng bảo vệ
sự hiểu biết đúng đắn về quyền tự quyết của các dân tộc, Lênin viết: Nói
chung, chúng ta chống việc tách nhưng chúng ta đứng bên quyền tách vì do
chủ nghĩa dân tộc phản động Nga hoặc chúng ta đòi quyền tự do tự quyết
không phải là chúng ta mơ ước phần nhỏ kinh tế hay mơ ước xây dựng nước
nhỏ bé mà ngược lại chúng ta muốn những quốc gia lớn và sự xích lại gần
của liên bang các dân tộc nhưng trên cơ sở thật sự dân chủ, thật sự quốc tế,
và trở nên vô nghĩa nếu không tự do tách ra.
Như vậy, khẩu hiệu “Các dân tộc có quyền tự quyết” không phải là để
các dân tộc tách ra, mà chính là để các dân tộc xích lại gần nhau, sức mạnh
của khẩu hiệu đó là ở chỗ, nó gạt bỏ tất cả mọi cơ sở về mưu đồ xâm lăng
của dân tộc này đối với dân tộc khác và nhằm cho sự chuẩn bị cho các dân

tộc tiến tới sự liên minh tự nguyên vào một quốc gia xã hội chủ nghĩa bao
gồm nhiều dân tộc.
Lênin còn nói: “ Chủ nghĩa xã hội có mục đích không những xóa bỏ
tình trạng nhân loại bị chia thành những quốc gia nhỏ mà xóa bỏ trạng thái
biệt lập giữa các dân tộc, không những làm cho các dân tộc gần gũi nhau mà
cũng còn nhằm thực hiện hợp nhất các dân tộc lại. Nhân loại chỉ trãi qua
thời kỳ quá độ chuyên chính của giai cấp bị áp bức, mới xóa bỏ được giai
cấp, cũng giống như vậy, nhân loại chỉ trãi qua thời kỳ quá độ chuyên chính
của giai cấp bị áp bức, mới có thể xóa bỏ được giai cấp, cũng giống như
vậy, nhân loại chỉ trải qua thời kỳ quá độ hoàn toàn giải phóng tất cả các
dân tộc bị áp bức, nghĩa là các dân tộc được tự do phân lập thì mới có thể
đạt được sự hợp nhất tất nhiên của các dân tộc”.[15;328]
“Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại” là nguyên tắc thứ ba
trong cương lĩnh của Lênin về vấn đề của các dân tộc”. Trên thực tế, luận
điểm này lần đầu tiên được phát triển bởi C.Mác và Ph.Ăngghen và được
Lênin kế thừa và phát triển. Trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản đang phát triển
mạnh mẽ. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận thấy rằng cách mạng xã hội chủ
nghĩa không thể thắng lợi được trong một nước riêng lẻ, mà có thể lật đổ
giai cấp tư sản giai cấp vô sản tất cả các nước phải liên hiệp lại”.[12;75]
Đó là sự liên minh quốc tế trong cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Lênin kiên trì nguyên tắc thống nhất giữa các nhiệm vụ dân tộc và quốc tế
của giai cấp công nhân. Lênin cho rằng, việc giải phóng khỏi ách áp bức của
tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc
tế và của tất cả những người vô sản, của tất cả nhân dân lao động và của tất
cả các nước.
Quan hệ mật thiết đến sự liên minh quốc tế và sự đoàn kết nhân dân
lao động của các dân tộc trên thế giới là luận điểm của Lênin về vấn đề hợp
nhất các dân tộc. Lênin cho rằng:”Nguyên tắc của chủ mghĩa dân tộc tư sản
và sự phát triển dân tộc nói chung, do đó sinh ra đặc tính của chủ nghĩa dân

tộc tư sản, những cuộc xung đột dân tộc không có lối thoát. Còn giai cấp tư
sản thì không những không bảo vệ sự phát triển của dân tộc, của mọi dân
tộc, mà trái lại nó đề phòng cho quần chúng khỏi những ảo tưởng như thế.
Nó chủ trương để lưu thông tư bản chủ nghĩa được tư do đầy đủ nhất và
hoan nghênh mọi sự đồng hóa dân tộc, trừ sự đồng hóa bằng bạo lực hoặc
dựa trên sự đặc quyền”[13;169]. Lê nin còn nói:
“Giai cấp vô sản không thể tán thành bất cứ một sự thừa nhận nào đối
với chủ nghĩa dân tộc, trái lại nó tán thành bất cứ cái gì giúp vào sự xóa bỏ
mọi sự phân biệt dân tộc, vào việc phá hủy những hàng rào ngăn cách dân
tộc, tán thành bất cứ cái gì làm cho mối liên hệ các dân tộc ngày càng mật
thiết bất cứ cái gì dẫn đến sự hợp nhất giữa các dân tộc hành động khác đi
có nghĩa là đứng về phía giai cấp tiểu thị dân tộc chủ nghĩa phản động” .
[13;169]
“Những luận điểm trong cương lĩnh Mácxít về vấn đề dân tộc do
V.I.Lênin đề ra là sự kế thừa và phát triển những luận điểm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, ngoài lĩnh vực này nó chứng tỏ tư duy lý luận sắc bén của
V.I.Lênin và nhận được sự ủng hộ rộng rãi của những người Bônsêvích
Nga” [12;77]. Đồng thời trong cương lĩnh còn là cơ sở lý luận pháp lý để
giải quyết các quan hệ dân tộc cả trong quan hệ tranh chấp, xung đột giữa
các dân tộc, nó có vai trò to lớn đặc biệt với phong trào giải phóng dân tộc
từ thế kỷ XX đến nay.
1. 3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và quan điểm chính sách
dân tộc của Đảng và nhà nước ta
1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không
phải là vấn đề dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Vấn đề dân
tộc thuộc địa thực chất là để đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa
nhằm thủ tiêu sự thống trị của chủ nghĩa thực dân giành độc lập dân tộc, xóa
bỏ ách áp bức bóc lột, thực hiện quyền dân tộc tự quyết thành lập nhà nước
dân tộc độc lập.

Ở thời đại mà chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới,
cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô
sản, việc nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc như thế nào có mối quan hệ
đến toàn bộ đường lối chiến lược của sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước lầm than bởi chính sách
xâm lược của chủ nghĩa thực dân – đế quốc. Nguyễn Aí Quốc đã hiểu nỗi
đau của dân tộc thuộc địa, chính điều nay đã thôi thúc Người ra đi tìm
đường cứu nước. Trên con đường ấy, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề thuộc địa và giải phóng dân
tộc. Vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác- Lênin chủ yếu là vấn đề dân tộc ở
các nước ở Châu Âu, còn ở Hồ Chí Minh, Người đã có nhiều thời gian
nghiên cứu về vấn đề dân tộc ở tất các nước trên thế giới, đặc biệt là vấn đề
dân tộc thuộc địa. Do vậy mà không ai hiểu vấn đề dân tộc thuộc địa như
Hồ Chí Minh. Người đã nhận định “ chủ nghĩa tư bản là một con đỉa hai vòi,
có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác
bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta đồng thời phải cắt cả hai vòi”[ 11;298]. Chính vì vậy mà người
khẳng định rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một
bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Tuy nhiên công cuộc giải phóng dân
tộc thuộc địa phải dựa vào bản thân dân tộc mình là chính, người thấy rõ vai
trò của các dân tộc thuộc địa. Cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có
thể giành thắng lợi trước Cách mạng chính quốc đó là những điểm sáng tạo
của Hồ Chí Minh làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ thực tiễn trên ta có thể khẳng định rằng vấn đề dân tộc ở Hồ Chí
Minh không phải là dân tộc nói chung mà là vấn đề dân tộc thuộc địa. Cả
cuộc đời Người luôn phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình, đồng
thời giải phóng cho tất cả các nước bị áp bức nô dịch trên toàn trên thế
giới…
Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất ở trên đời là độc lập
của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Chính vì vậy, mục đích lớn nhất chi phối

cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh là: “Làm cho đất nước ta hoàn toàn
được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
”[11; 161]. Để thực hiện ý tưởng đó Hồ Chí Minh đã sử dụng mọi vũ khí để
đấu tranh, người tham gia mọi lĩnh vực của đời sống, đến mọi nơi, làm mọi
việc để hoạt động cách mạng, để nghiên cứu tìm con đường giải phóng dân
tộc đúng đắn và người tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc đối với dân tộc bị
áp bức trên thế giới.
Trên con đường học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và vân dụng
sáng tạo nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng, Nguyễn Ái Quốc đã thay
mặt cho những người Việt Nam yêu nước. Người gửi đến Hội nghị Véc-xây
bản yêu sách gồm 8 điểm đòi hỏi các quyền tự do, dân chủ cho nhân Việt
Nam. Bản yêu sách chỉ tập trung vào hai nội dung. Thứ nhất, là đòi quyền
bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương, phải xóa bỏ
chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng chế độ và các đạo luật. Thứ
hai, là đòi các quyền tự do tối thiểu cho nhân dân, đó là tự do ngôn luận, tự
do cư trú, tự do lập hội, tự do xuất dương, tự do học tập….đây là một hành
động dũng cảm thể hiện lòng yêu nước nồng nàn với một tình cảm sâu nặng
của Người và cũng là cuộc thử nghiệm đầu tiên khi Người bước lên vũ đài
chính trị đòi quyền tự do cho dân tộc bằng con đường nghị trường. Đồng
thời biết đưa ra những đòi hỏi trong phạm vi cải cách dân chủ là một hành
động tài trí, khôn ngoan. Tuy nhiên bản yêu sách đó không được chấp nhận,
từ đó Người rút ra bài học: Các dân tộc muốn giải phóng chỉ có thể trông
cậy vào mình, và lực lượng bản thân mình. Từ đó, Người ra sức học tập và
tiến hành tổ chức để thành lập tổ chức Đảng và xác lập mục tiêu: Phải đánh
đuổi đế quốc Pháp cùng bọn phong kiến và làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả
dân tộc nên Hồ Chí Minh đã từng viết:
“Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Không gì cay đắng bằng mất quyền tự do”[10;332].
Cũng chính vì thế mà Người luôn kêu gọi đồng bào đấu tranh giành

độc lập tự do cho Tổ quốc.
“ Thà chết cho tự do còn hơn sống nô lệ” [11;18]
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Người đã thay mặt đồng
bào đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945. Trong đó
Người sử dụng hai bản tuyên ngôn của Mỹ và của Pháp để khẳng định
quyền bình đẳng cho dân tộc Việt Nam cũng như các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Bản tuyên ngôn chỉ rõ: Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do
và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững độc lập tự do ấy. Bên cạnh đó trong các điện văn và bức thư gửi tới
Liên Hợp Quốc và chính phủ các nước vào thời gian đó, Người đã trịnh
trọng tuyên bố: Nhân dân chúng ta thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng
nhân dân chúng ta cũng cương quyết đến cùng để bảo vệ quyền thiêng liêng
nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập
và chủ quyền dân tộc. Người ra lời kêu gọi vang dội núi sông: “ Không!
chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”. [11;480] và khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành
chiến tranh cục bộ ở Miềm Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có giá trị thời đại
là: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Được sự cổ vũ của tinh trần đó,
nhân dân hai miền Bắc – Nam, đã kiên cường đấu tranh và buộc Mỹ phải ký
hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”, không chỉ là lý tưởng
mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là lý do
chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của sự nghiệp đấu tranh

×