Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT thuận thành số 1 bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.55 KB, 51 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT

ĐOÀN THỊ HÂN HOA

ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI
VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN SỨC NHANH
CHO HỌC SINH NỮ KHỐI 10 TRƢỜNG
THPT THUẬN THÀNH SỐ 1 – BẮC NINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: CNKHSP TDTT - GDQP

Hƣớng dẫn khoa học

CN. TẠ TẤT VIỆN

HÀ NỘI, 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Đoàn Thị Hân Hoa
Sinh viên lớp K34 GDTC - GDQP Trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề
tài không trùng với bất cứ đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này tại Trường
THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh. Toàn bộ những vấn đề được đưa ra bàn
luận, nghiên cứu là những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết và đúng thực tế
của Trường THPT Thuận Thành số 1.

Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2012
Sinh viên



Đoàn Thị Hân Hoa


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Giải thích từ viết tắt
1

ĐC

Đối chứng

2

ĐHSP

Đại học sư phạm

3

GDTC

Giáo dục thể chất

4

GS - TS

Giáo sư - Tiến sĩ


5

NXB

Nhà xuất bản

6

QN

Quãng nghỉ

7

STT

Số thứ tự

8

TCVĐ

Trò chơi vận động

9

TDTT

Thể dục thể thao


10

TG

Thời gian

11

THCS

Trung học cơ sở

12

THPT

Trung học phổ thông

13

TN

Thực nghiệm


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Diễn giải

Trang


Bảng 3.1: Kết quả phỏng vấn giáo viên lựa chọn một số trò chơi
vận động phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường

24

THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn mức độ ưu tiên sử dụng test kiểm tra
đánh giá sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận

30

Thành số 1 (n=15).
Bảng 3.3: Tiến trình giảng dạy trò chơi vận động cho học sinh nữ
khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.

31

Bảng 3.4: Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
Bảng 3.5: Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm của hai nhóm đối
chứng và thực nghiệm.
Biểu đồ 3.1: Thành tích chạy nhanh 20m của hai nhóm trước và sau
thực nghiệm.
Biểu đồ 3.2: Thành tích chạy lặp lại 9m – 3m - 6m – 3m – 9m của
hai nhóm trước và sau thực nghiệm.
Biểu đồ 3.3: Thành tích nhặt bóng của hai nhóm thực nghiệm và
đối chứng trước và sau thực nghiệm.

32


33

35

35

36


MỤC LỤC
Đặt vấn đề

1

Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu

4

1.1.

Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về GDTC

1.2.

Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh nữ khối 10 trường THPT.

5

1.3.


Một số nét đặc trưng của trò chơi vận động

8

1.4.

Cơ sở giáo dục sức nhanh

11

Chƣơng 2: Nhiệm vụ, phƣơng pháp và tổ chức nghiên cứu

16

2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

16

2.2. Các phương pháp nghiên cứu chính

16

2.3. Tổ chức nghiên cứu

19

Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu

21


3.1. Tìm hiểu thực trạng về công tác GDTC và việc lựa chọn hệ thống 21
các TCVĐ phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT
Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh
3.2

Lựa chọn và đánh giá hiệu quả sử dụng một số trò chơi vận động 23

phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận
Thành số 1
Kết luận và kiến nghị

37

Tài liệu tham khảo

39

Phụ lục


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Để đạt
được mục tiêu đó, yếu tố con người luôn chiếm vị trí hàng đầu, luôn là động
lực, là chìa khóa để phát triển đất nước.
Để đào tạo được những con người với đầy đủ các phẩm chất, năng lực
và trình độ cần thiết thì giáo dục là phương tiện không thể thiếu. Giáo dục tạo
điều kiện phát triển tối đa năng lực của từng cá nhân, giúp họ hòa nhập vào
cuộc sống xã hội để đóng góp nhiều nhất sức lực và trí tuệ của mình thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Đối với toàn xã hội, mục đích của giáo dục là nâng

cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đối với thế hệ trẻ, giáo dục
giúp họ trở thành những nhân cách toàn diện. Theo quan niệm ngày nay, con
người phát triển toàn diện là những người: “phát triển cao về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức”, tạo nên
những phong cách Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và của
thời đại, tiến kịp với trào lưu chung của thế giới.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác TDTT nói
chung và GDTC trong nhà trường nói riêng, coi sức khỏe là vốn quý của con
người, là loại tài sản quốc gia vô cùng quan trọng. Sự quan tâm đó được thể
hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn
cách mạng với các yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình cụ thể.
Chỉ thị 17/CT – TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT
đến năm 2010 và đặc biệt là Nghị quyết Trung ương II khóa 8 về công tác giáo
dục và đào tạo đã khẳng định rõ GDTC trong trường học là cực kỳ quan trọng.
GDTC không chỉ tác động tích cực tới quá trình phát triển và hoàn thiện thể chất
mà còn góp phần quan trọng phát triển các phẩm chất đạo đức, nhân cách và
những phẩm chất cần thiết cho cuộc sống, học tập và lao động của con người [3].


Chỉ thị số 36 – CT/TW ngày 24 -3-1994 của Ban Bí thư TW Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới khẳng định: “ Phát
triển TDTT là bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội
của Đảng và Nhà nước nhằm bồi dưỡng phát huy nhân tố con người, công tác
TDTT góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách, đạo
đức lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, nâng
cao sức lao động và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang ” [2].
Chính vì thế trong những năm gần đây, Bộ GD – ĐT đã không ngừng cải
tiến nội dung, đổi mới chương trình, phương pháp dạy học ngành GDTC trong
các cấp học.
Muốn tạo ra những con người mới như chúng ta vừa đề cập, chỉ có các

chính sách đúng đắn thôi thì chưa đủ mà phải có sự chung tay, góp sức của
gia đình, nhà trường và của toàn xã hội.
Trong đề tài này, tác giả chỉ đi sâu đề cập đến vấn đề nâng cao sức
khỏe, phát triển thể lực, hoàn thiện từng bước về hình thái và chức năng cho
các em học sinh trong các cấp học ở trường phổ thông. Ở đây, chúng tôi đề
cập cụ thể là học sinh nữ khối 10 ở trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc
Ninh. Tăng cường dinh dưỡng sống, sinh hoạt hợp vệ sinh, học tập và làm
việc hợp lí, nhưng biện pháp tích cực nhất, hiệu quả nhất để đạt được mục
đích nêu trên là tạo điều kiện để các em tham gia các hoạt động TDTT.
Ở lứa tuổi của các em, ngoài các môn học GDTC được quy định trong
chương trình thì các hoạt động vui chơi có vị trí đặc biệt quan trọng và cần
thiết. Chính vì thế, việc đưa TCVĐ vào giờ học chính khóa, hoạt động ngoại
khóa là việc làm không thể thiếu được.
Trong những phương tiện góp phần nâng cao thể chất cho con người thì
trò chơi vận động (TCVĐ) là một phương tiện vận động tạo được sự hưng
phấn cao, giúp các em học sinh giải quyết sáng tạo nhiệm vụ vận động với


hiệu quả cao nhất. Ngoài ra trò chơi vận động còn được hiểu như là phương
pháp dạy học tích cực của bộ môn, qua đó giáo viên có thể tăng lượng vận
động một cách hợp lý, tạo hứng thú, thu hút học sinh trong tiết học, rèn luyện
các chuẩn mực hành vi đạo đức một cách tự nhiên, rèn kỹ năng sống, tác
phong nhanh nhẹn, hoạt bát và các phẩm chất cần thiết khác cho học sinh.
Như vậy, việc đưa TCVĐ vào giờ học chính khóa, hoạt động ngoại
khóa có ý nghĩa hết sức to lớn. Cùng với đó, trong quá trình nghiên cứu tổng
hợp tài liệu tác giả thấy có nhiều công trình nghiên cứu về TCVĐ phát triển
các tố chất thể lực cho học sinh THPT. Tuy nhiên, tại trường THPT Thuận
Thành số 1 – Bắc Ninh, vấn đề này chưa được đề cập tới.
Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của GDTC nói chung và
TCVĐ nói riêng đối với sự phát triển toàn diện cho học sinh, chúng tôi đã lựa

chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Ứng dụng một số trò chơi vận động
phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành
số 1 – Bắc Ninh ”.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nữ khối 10
trường THPT và những đặc điểm của phương pháp sử dụng trò chơi vận động
để GDTC trong trường học, tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục đích lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh
nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh. Hy vọng các trò chơi
được lựa chọn sẽ được ứng dụng có hiệu quả trong công tác GDTC ở trường
THPT Thuận Thành số 1- Bắc Ninh nói riêng và ở các trường THPT nói
chung, làm cơ sở lựa chọn và bồi dưỡng nhân tài thể thao cho đất nước.


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về GDTC
Trong sự nghiệp phát triển thể dục thể thao hiện nay, việc mở rộng các
hoạt động thể dục thể thao quần chúng trong đó có thể thao trường học là vấn
đề hết sức quan trọng. Chỉ thị 36/CT – TW ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng (khóa VII) giao trách nhiệm cho Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Tổng cục TDTT thường xuyên phối hợp chỉ đạo công tác GDTC, cải tiến
chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT
các cấp cho trường học, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất để thực
hiện chế độ GDTC bắt buộc ở tất cả các trường học, để việc tập luyện TDTT
trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên, qua đó phát hiện
và tuyển chọn nhiều tài năng thể thao cho đội tuyển quốc gia.
Trong giai đoạn mới sự nghiệp TDTT cần được tiếp tục phát triển theo
những quan điểm đã nêu trong Chỉ thị 36 CT – TW, và phương hướng nhiệm
vụ đã được đại hội Đảng IX xác định : “Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao,

nâng cao thể trạng và tầm vóc của người Việt Nam. Phát triển phong trào thể
dục thể thao quần chúng với mạng lưới cơ sở rộng khắp; Đào tạo bồi dưỡng
đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao, đưa thể thao Việt Nam lên
trình độ chung trong khu vực Đông Nam Á và có vị trí cao trong nhiều bộ
môn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích nhân dân và các tổ chức tham gia
tích cực có hiệu quả các hoạt động văn hóa thể thao”.
Công tác thể dục thể thao phải góp phần tích cực thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, và mở rộng quan hệ đối ngoại của
đất nước, trước hết là góp phần nâng cao sức khỏe, rèn luyện ý chí, giáo dục
đạo đức, nhân cách, lối sống và nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân


dân; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao lòng tự hào dân tộc và
đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phương. Phấn đấu đến năm 2010 toàn quốc
đạt tỉ lệ 18 – 20% dân số tập luyện thể dục thể thao thường xuyên; 80 – 90%
học sinh, sinh viên đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể theo quy định; giữ vị trí
là một trong ba nước đứng đầu về thể thao ở khu vực Đông Nam Á, một số
môn có thứ hạng cao tại các giải thể thao Châu á và thế giới.
1.2. §Æc ®iÓm t©m sinh lÝ cña häc sinh n÷ khèi 10
tr-êng THPT
1.2.1. §Æc ®iÓm t©m lÝ
Ở lứa tuổi này các em thích tỏ ra mình là người lớn, muốn được mọi
người tôn trọng, tỏ ra mình là người hiểu biết, có khả năng phân tích tổng
hợp, các em có sự hiếu động, tinh nghịch, các em có nhiều hoài bão nhưng lại
thiếu kinh nghiệm sống.
Tuổi này chủ yếu hình thành thế giới quan, tự ý thức, hình thành ý
thức, hình thành tính cách và hướng về tương lai. Đó cũng là tuổi lãng mạn
mơ ước độc đáo và mong cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
Về hứng thú: Các em có thái độ tự giác tích cực trong học tập, xuất
phát từ động cơ học đúng đắn và lựa chọn nghề nghiệp sau này. Song hứng

thú học tập do nhiều động cơ khác nhau như đua với bạn bè, tự ái, hiếu
danh…cho nên khi giảng dạy giáo viên cần giúp các em xây dựng động cơ
đúng đắn để các em có được hứng thú học tập các môn học nói chung và môn
học GDTC nói riêng.
Về tình cảm: Các em đã biểu lộ rõ hơn về tình cảm của bản thân với
môi trường mình gắn bó, với các thầy cô giáo đã dạy các em. Vì vậy, việc
giáo viên gây được thiện cảm và sự tôn trọng của các em là một trong những
thành công giúp giáo viên có nhiều thuận lợi trong quá trình giảng dạy, thúc
đẩy các em tự giác, tích cực trong học tập.


Về trí nhớ: Các em ở tuổi này giảm dần việc ghi nhớ máy móc, do các
em đã biết cách ghi nhớ có hệ thống, đảm bảo tính logic chặt chẽ và lĩnh hội
được bản chất vấn đề cần học tập. Vậy nên khi giảng dạy GDTC giáo viên có
thể sử dụng phương pháp trực quan kết hợp với giảng giải, phân tích chi tiết kỹ
thuật động tác và vai trò, ý nghĩa cũng như cách sử dụng phương tiện, phương
pháp để các em có thể tự tập một cách độc lập trong thời gian nhàn rỗi.
Các phẩm chất ý chí đã rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn so với lứa tuổi
trước đó. Các em có thể tiếp thu được những bài tập khó và đòi hỏi khắc phục
khó khăn trong học tập.
1.2.2. Đặc điểm sinh lí
Hệ thần kinh: Được tiếp tục phát triển đi đến mức hoàn thiện, khả năng
tư duy, khả năng phân tích trừu tượng hóa được phát triển tạo thuận lợi cho
việc hình thành nhanh chóng phản xạ có điều kiện. Đây là đặc điểm thuận lợi
để các em nhanh chóng tiếp thu và hoàn thiện kỹ thuật động tác. Tuy nhiên
một số bài tập mang tính đơn điệu, không hấp dẫn cũng làm cho các em
chóng mệt mỏi. Cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện một cách phong phú,
đặc biệt tăng cường các hình thức thi đấu, trò chơi để gây hứng thú, tạo điều
kiện hoàn thành tốt các bài tập chính, nhất là các bài tập về sức nhanh. Ngoài
ra do sự hoạt động mạnh của tuyến giáp, tuyến sinh dục, hưng phấn và ức chế

không cân bằng đã ảnh hưởng đến hoạt động thể lực. Đặc biệt là các em nữ,
tính nhịp điệu giảm sút nhanh chóng, khả năng chịu đựng lượng vận động
yếu. Vì vậy, giáo viên cần sử dụng trò chơi thích hợp và thường xuyên quan
sát phản ứng cơ thể của học sinh để có biện pháp giải quyết kịp thời.
Hệ vận động: Hệ xương bắt đầu giảm tốc độ phát triển. Mỗi năm, nữ
cao thêm 0,5 đến 1cm. Tập luyện TDTT một cách hệ thống làm cho xương
khỏe mạnh hơn. Ở lứa tuổi học sinh THPT, các xương nhỏ như xương tay,
xương bàn tay hầu như đã hoàn thiện nên các em có thể tập một số động tác


treo, chống, mang vác nặng mà không làm tổn hại hoặc không tạo sự phát
triển lệch lạc của cơ thể. Cột sống đã ổn định hình dáng nhưng vẫn chưa được
hoàn thiện, vẫn có thể cong vẹo nên việc tiếp tục bồi dưỡng tư thế chính xác
thông qua các hệ thống bài tập như đi, chạy nhảy, thể dục nhip điệu, thể dục
cơ bản cho các em là rất cần thiết và không thể xem nhẹ. Riêng đối với các
em nữ, xương xốp hơn các em nam, ống tủy rỗng hơn, chiều dài ngắn hơn,
bắp thịt nhỏ hơn và yếu hơn, nên xương của nữ không khỏe bằng nam. Đặc
biệt, xương chậu của nữ to hơn và yếu hơn. Vì thế, trong GDTC không thể sử
dụng các bài tập có khối lượng vận động, cường độ vận động như nam mà
phải có sự phù hợp đặc điểm giới tính.
Hệ cơ: Các tổ chức cơ phát triển muộn hơn xương nên sự co cơ vẫn
tương đối yếu. Các cơ bắp lớn phát triển tương đối nhanh (cơ đùi, cơ cánh
tay) còn các cơ nhỏ, cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Các cơ co phát triển sớm
hơn các cơ duỗi, các cơ duỗi của nữ lại càng yếu. Đặc biệt, tuổi 16 các tổ
chức mỡ dưới da phát triển nhanh – mạnh. Nói chung, đầu thời kỳ học sinh
THPT thường nữ 15 tuổi là thời kỳ cơ bắp phát triển nhanh nhất. Do những
đặc điểm kể trên nên các trò chơi phải đảm bảo nguyên tắc vừa sức, đảm bảo
cho tất cả các loại cơ to nhỏ đều được phát triển.
Hệ tuần hoàn: Hệ tuần hoàn của học sinh THPT đang phát triển và đi
đến hoàn thiện. Buồng tim phát triển tương đối hoàn chỉnh, mạch đập của

nam vào khoảng 70 đến 80 nhịp/phút, nữ 75 đến 85 nhịp/phút. Hệ thống điều
hòa vận động mạch phát triển tương đối hoàn chỉnh. Phản ứng của hệ tuần
hoàn trong vận động mạch tương đối phát triển và huyết áp phục hồi nhanh
chóng. Khi sử dụng các trò chơi vận động có khối lượng và cường độ vận
động lớn cần phải thận trọng và thường xuyên kiểm tra, theo dõi sức khỏe của
học sinh, tránh để các em ham chơi quá sức dẫn đến mệt mỏi.


Hệ hô hấp: Đã phát triển và tương đối hoàn thiện, gần bằng tuổi trưởng
thành. Dung lượng phổi tăng lên nhanh chóng từ lúc 15 tuổi là 2 đến 2,5 lít
đến 16 – 18 tuổi là 3 đến 4 lít. Tần số hô hấp giống như người lớn 10 đến 20
lần/ phút.
Từ sự nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tế, nhận thức
được vai trò to lớn của GDTC, theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo về
công tác GDTC đối với học sinh, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa
chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh
nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh góp phần nâng cao
chất lượng công tác GDTC cho trường THPT Thuận Thành số 1. Các em rất
hào hứng , vui chơi, tham gia nhiệt tình, xua tan căng thẳng, giúp tinh thần
minh mẫn hơn trong những giờ học tiếp theo. Kích thích các em suy nghĩ,
sáng tạo không chỉ trong giờ học thể dục mà cả trong các giờ học khác, một
phần khắc phục được những nhược điểm như trên mà chúng tôi vừa nêu. Học
sinh thêm yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cô, gia đình và bạn bè hơn. Các em
hào hứng trong những giờ thể dục, đó là những giờ được chơi trò chơi vận
động, là những giờ mà các em được rèn luyện thể chất. Ở đó, các em rèn
luyện được sự nhanh nhẹn, khéo léo...hỗ trợ cho những kỹ năng trong cuộc
sống, các em được hiểu biết từ các trò chơi đem lại, từ các tố chất thể lực, đến
các phẩm chất đạo đức.
Vì vậy trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu những
trò chơi mang tính chất vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sự phát triển

sức nhanh của học sinh nữ khối 10, từ đó đưa ra một số ứng dụng có hiệu quả
trong công tác GDTC trường THPT Thuận Thành nói riêng và ở các trường
THPT khác nói chung.
1.3. Một số nét đặc trƣng của trò chơi vận động
1.3.1. Đặc điểm và cách thức phân loại trò chơi vận động
Trò chơi vận động là những trò chơi nhằm củng cố và hoàn thiện kỹ năng
vận động cơ bản của con người như: Đi, chạy, nhảy, mang vác, leo trèo,...


Hầu hết những trò chơi vận động được sử dụng trong chương trình
GDTC đã mang sẵn tính mục đích một cách rõ ràng. Trong quá trình chơi, học
sinh tiếp xúc, quan hệ với nhau, cá nhân phải hoàn thành nhiệm vụ của mình
trước tập thể ở mức độ cao, tập thể có trách nhiệm động viên giúp đỡ cá nhân
hoàn thành nhiệm vụ của mình, vì vậy tình bạn, lòng nhân ái, tinh thần tập
thể…được hình thành. Cũng trong quá trình chơi, đã xây dựng cho học sinh tác
phong khẩn trương, nhanh nhẹn, tính kỷ luật, sự sáng tạo để học sinh hoàn
thành nhiệm vụ với kết quả cao, góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân
cách cho học sinh. Do vậy có thể nói trò chơi mang tính tư tưởng rất cao.
Nhìn chung các trò chơi vận động đều dễ chơi vì chơi là một nhu cầu
mang tính tự nhiên của tuổi trẻ, có thể nói vui chơi cũng cần thiết và quan
trọng như ăn uống hàng ngày của các em. Dù được hướng dẫn hay không
hướng dẫn thì các em vẫn tìm mọi cách và tranh thủ mọi thời gian, điều kiện
để chơi. Khi được chơi các em tham gia hết sức tự giác và chủ động, đây là
một yếu tố quan trọng trong công tác GDTC cho thế hệ trẻ.
Trong quá trình tham gia vào trò chơi các em biểu lộ tình cảm vui khi
thắng lợi, buồn khi thất bại, bản thân thấy có lỗi khi không làm tốt. Vì tập thể
mà các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại
thắng lợi cho đội, trong đó có bản thân mình, đây là đặc tính thi đua rất cao
của trò chơi vận động. Trong quá trình GDTC, phương pháp trò chơi được sử
dụng tương đối rộng rãi, mang lại hiệu quả cao đối với lứa tuổi học sinh. Ưu

điểm của phương pháp này là vừa chơi, vừa học, tạo cho học sinh trạng thái
hưng phấn, qua đó tác dụng đến thân thể, tăng cường sức khỏe. Trong điều
kiện sân bãi dụng cụ cho phép, có thể sử dụng tối ưu điều kiện tự nhiên sẵn
có. Trò chơi vận động có thể biến đổi hợp lí và đa dạng, phong phú. Khi tổ
chức trò chơi nên lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp với buổi học. Hoạt động
của người chơi được tổ chức tương ứng với chủ đề được giả định, có tính chất


hình ảnh. Chủ đề tổ chức trò chơi có thể lấy từ hiện thực xung quanh, phản
ánh nhu cầu thực dụng của cuộc sống.
Do sự đa dạng, phong phú của các trò chơi nên việc phân loại trò chơi
có nhiều quan điểm khác nhau. Người ta chia toàn bộ trò chơi làm ba nhóm
chính: Trò chơi sáng tạo, trò chơi vận động và trò chơi thể thao. Ở đây do
điều kiện thời gian, chúng tôi chỉ đi sâu vào nhóm trò chơi vận động, dưới
đây là một số cách phân loại:
Phân loại căn cứ vào những động tác cơ bản trong quá trình chơi như:
Chạy, nhảy, leo trèo... và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều động tác trên.
Mục đích của cách phân loại này để người học dễ dàng chọn lọc và sử dụng
kỹ năng vận động cơ bản của học sinh.
Phân loại căn cứ vào các tố chất thể lực trong quá trình chơi như trò
chơi rèn luyện sức nhanh, sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo. Tuy nhiên
cách phân loại này đôi khi không chính xác.
Phân loại căn cứ vào khối lượng vận động. Một số trò chơi có lượng
vận động không đáng kể được xếp vào loại trò chơi giải trí, trò chơi tĩnh. Một
số trò chơi vận động trung bình, xếp vào trò chơi động. Tuy nhiên cách phân
loại này nhiều khi cũng không chính xác do cách thức tổ chức và tài nghệ của
giáo viên.
Phân loại theo cách chia trò chơi ra làm hai nhóm chính và phụ, trò chơi
chia đội và không chia đội, và một nhóm phụ chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi
không chia đội có thể phân ra làm hai loại: Có người điều khiển và không có

người điều khiển. Trò chơi chia đội được tiến hành trong điều kiện số người
trong đội phải ngang bằng nhau. Khi lựa chọn TCVĐ giáo viên phải căn cứ vào
lứa tuổi, giới tính, trình độ vận động và điều kiện sân bãi dụng cụ để chọn trò
chơi phù hợp.
Sau khi lựa chọn được trò chơi giáo viên phải biên soạn thành giáo án
giảng dạy. Khi tổ chức chơi, giáo viên nói ngắn ngọn, rõ ràng, dễ hiểu nhưng
tất cả học sinh đều nghe được và nắm được cách chơi, luật chơi...


1.3.2. Một số hạn chế khi áp dụng trò chơi vận động
Khó kiểm soát lượng vận động khi tiến hành trò chơi vận động.
Một số em tham gia vượt quá khả năng chịu đựng để xảy ra những tai
nạn đáng tiếc.
Đôi khi học sinh tham gia một cách hời hợt, thiếu tích cực, không phát
huy được hiệu quả của TCVĐ.
Giáo viên khó kiểm soát được hết toàn bộ lớp nên chưa phát huy hết
được những ưu điểm của TCVĐ.
Nhưng theo chúng tôi nhược điểm quan trọng nhất là sự khó kiểm soát
lượng vận động trong khi tiến hành trò chơi vận động.
Vì vậy lựa chọn và áp dụng có hiệu quả một số TCVĐ cho các em học
sinh nữ khối 10 là hết sức cần thiết.
1.4. C¬ së gi¸o dôc sức nhanh
1.4.1. Khái niệm và các hình thức biểu hiện của sức nhanh
Sức nhanh là một tổ hợp thuộc tính chức năng của con người. Nó quy
định chủ yếu và trực tiếp đặc tính tốc độ động tác cũng như thời gian phản
ứng vận động.
Người ta phân biệt ba hình thức đơn giản biểu hiện sức nhanh như sau:
1. Thời gian tiềm tàng của phản ứng vận động.
2. Tốc độ động tác đơn(với số lượng đối kháng bên ngoài nhỏ).
3. Tần số động tác.

Các hình thức đơn giản của sức nhanh tương đối độc lập với nhau. Đặc
biệt những chỉ số về thời gian phản ứng vận động hầu như không tương quan
với tốc độ động tác. Những hình thức kể trên là thể hiện các năng lực tốc độ
khác nhau.
Trong thực tiễn thường thấy sức nhanh được thể hiện tổng hợp. Thí dụ,
thành tích chạy ngắn phụ thuộc vào thời gian phản ứng vận động, tốc độ động


tác đơn (đạp sau, chuyển đùi) và tần số bước. Trong động tác có phối hợp
phức tạp thì tốc độ không chỉ phụ thuộc vào sức nhanh mà còn chịu sự chi
phối của nhiều nhân tố khác. Thí dụ trong chạy thì tốc độ phụ thuộc vào độ
dài bước chạy và tần số động tác, còn độ dài bước chạy phụ thuộc vào độ dài
chi dưới và lực đạp sau. Vì vậy, tốc độ động tác hoàn chỉnh chỉ thể hiện gián
tiếp sức nhanh của con người. Cho nên trong phân tích, đánh giá sức nhanh
phải căn cứ vào mức độ phát triển của từng hình thức đơn giản của nó.
Nhìn chung, năng lực tốc độ của con người mang tính chất đặc thù.
Chuyển sức nhanh trực tiếp chỉ xảy ra đối với các động tác có cấu trúc giống
nhau. Thí dụ, nâng cao thành tích bật xa tại chỗ lập tức ảnh hưởng tới thành
tích chạy ngắn và những động tác khác mà trong đó tốc độ duỗi chân giữ vai
trò quan trọng. Trong khi đó kết quả tập luyện bật xa tại chỗ không hề ảnh
hưởng tới tốc độ bơi, đấm bốc, đánh máy chữ.
1.4.2. Cơ sở sinh lý, sinh hóa của sức nhanh
Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động gồm 5 thành phần:
1. Xuất hiện hưng phấn trong cơ quan cảm thụ
2. Dẫn truyền hưng phấn vào hệ thần kinh trung ương.
3. Truyền hưng phấn trong tổ chức lưới và hình thành tín hiệu li tâm.
4. Truyền tín hiệu từ hệ thần kinh trung ương tới cơ.
5. Hưng phấn cơ và cơ hoạt động tích cực.
Trong đó, giai đoạn thứ 3 chiếm nhiều thời gian nhất. Những động tác
được thực hiện với tốc độ tối đa khác hẳn với động tác chậm về đặc điểm sinh

lí. Sự khác biệt cơ bản thể hiện ở chỗ: Khi thực hiện với tốc độ tối đa thì khả
năng điều chỉnh bằng cảm giác trong tiến trình thực hiện động tác sẽ gặp khó
khăn. Do đó, với tốc độ cao khó có thể thực hiện động tác thật chính xác.
Trong các động tác rất nhanh và được thực hiện với tần số cao. Thí dụ,
trong chạy cự li ngắn, cơ chỉ hoạt động tích cực ở những điểm cuối cùng của


biên độ động tác. Động năng được truyền cho một bộ phận nào đó của cơ thể,
sau đó nó bị triệt tiêu khi các cơ đối kháng tham gia hoạt động và truyền cho
bộ phận này một gia tốc theo hướng ngược lại. Trong động tác tốc độ lớn,
hoạt tính của cơ diễn ra trong thời gian ngắn đến mức cơ không kịp co lại
nhiều và thực tế cơ hoạt động theo chế độ đẳng trường.
Người ta thừa nhận rằng, tần số động tác phụ thuộc vào tính linh hoạt
của quá trình thần kinh – tức là phụ thuộc vào tốc độ chuyển trạng thái hưng
phấn - ức chế của trung khu vận động.
Theo quan điểm sinh hóa sức nhanh phụ thuộc vào hàm lượng ATP
trong cơ và tốc độ phân giải ATP dưới ảnh hưởng của xung động thần kinh
cũng như vào tốc độ tái tổng hợp nó. Vì các bài tập tốc độ diễn ra trong thời
gian rất ngắn, nên quá trình tổng hợp ATP hầu như được thực hiện theo cơ
chế yếm khí. Trong các bài tập như chạy 100 - 200m, bơi 25 - 50m thì 90%
năng lượng hoạt động của cơ được tạo ra do các phản ứng yếm khí. Do vậy,
các bài tập tốc độ tạo ra nợ dưỡng rất lớn và thời gian trả nợ dưỡng có thể kéo
dài hàng chục phút.
Giữa đặc điểm thể hình và các chỉ số tốc độ tối đa của con người không
phụ thuộc lẫn nhau.
1.4.3. Ph-¬ng ph¸p rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động
* Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động đơn giản
Phản ứng vận động đơn giản là sự đáp lại tín hiệu biết trước luôn xuất
hiện đột ngột bằng động tác định trước (thí dụ, phản ứng đối với tiếng súng
lệnh trong xuất phát .

Sức nhanh phản ứng vận động có ý nghĩa thực dụng rất lớn. Trong
cuộc sống, ta thường gặp những trường hợp đòi hỏi đáp lại tín hiệu nào đó
trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Tập luyện tốc độ có tác dụng nâng cao sức nhanh phản ứng đơn giản.
Các bài tập về phản ứng vận động không có giá trị nâng cao tốc độ động tác.


Trong thực tế, không nhất thiết phải tác động chuyên môn để phát triển
sức nhanh phản ứng vận động. Bởi vì, sức nhanh phản ứng đã được phát triển
nhờ tập luyện các bài tập tốc độ. Thông thường người ta sử dụng trò chơi vận
động, các môn bóng để rèn luyện phản ứng vận động.
Phương pháp phổ biến nhất trong rèn luyện sức nhanh phản ứng vận
động đơn giản là tập lặp lại phản ứng với các tín hiệu xuất hiện đột ngột. Thí
dụ, lặp lại nhiều lần tiếng súng lệnh, chạy đổi hướng theo tín hiệu.
Bài tập sức nhanh phản ứng đơn giản gồm 2 phần: Tập phản ứng trong
điều kiện thuận lợi và tập tốc độ động tác tiếp theo. Trong thực tiễn huấn
luyện người ta còn sử dụng rộng rãi phương pháp cảm giác vận động do
Gelerstin’ đề xuất năm 1958 để hoàn thiện phản ứng vận động đơn giản. Cơ
sở khoa học của phương pháp này là quy luật về mối tương quan chặt chẽ
giữa sức nhanh phản ứng và tri giác thời gian của con người. Thông thường,
những người có khả năng cảm thụ những khoảng thời gian ngắn thì có sức
nhanh phản ứng cao. Bản chất của phương pháp là hoàn thiện sức nhanh phản
ứng vận động đơn giản thông qua việc hoàn thiện tri giác thời gian.
Tập luyện sức nhanh phản ứng vận động theo phương pháp cảm giác
vận động được tiến hành theo 3 giai đoạn. Trong giai đoạn 1, người tập thực
hiện động tác trong điều kiện phản ứng nhanh nhất đối với tín hiệu. Sau mỗi
lần thực hiện bài tập, HLV thông báo cho người tập về thành tích đạt được.
Trong giai đoạn 2, phản ứng và các động tác sau đó cũng được thực hiện với
tốc độ lớn nhất. Trong giai đoạn này, người tập thông báo cho HLV dự đoán
thành tích của mình, sau đó HLV báo lại thành tích thực tế người tập đạt

được. Trong giai đoạn 3, HLV yêu cầu người tập thực hiện bài tập với các tốc
độ định trước. Trải qua 3 giai đoạn tập luyện như trên sức nhanh phản ứng
vận động đơn giản sẽ được nâng lên.
* Phương pháp rèn luyện sức nhanh phản ứng vận động phức tạp


Phản ứng đối với vật thể di động và phản ứng lựa chọn.
Phản ứng đối với vật thể di động thường thấy trong các môn bóng và
các môn đối kháng cá nhân. Trong phản ứng đối với vật di động thì kỹ năng
quan sát giữ vai trò cơ bản. Vì vậy, cần đặc biệt chú ý hoàn thiện kỹ năng này.
Để phát triển khả năng quan sát, người ta sử dụng các bài tập phản ứng đối
với vật di động. yêu cầu tập luyện được gia tăng thông qua tăng tốc độ vật
thể, tăng tính bất ngờ và rút ngắn cự li. Trò chơi vận động với bóng nhỏ có tác
dụng rất tốt trong rèn luyện sức nhanh đối với vật di động.
Phản ứng lựa chọn xảy ra khi cần chọn một trong số những động tác có
thể để đáp lại sự thay đổi hành vi của đối phương hoặc sự biến đổi của tình
huống.


CHƢƠNG 2
NHIỆM VỤ, PHƢƠNG PHÁP, TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU
2.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đưa ra hai nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu một số vấn đề cơ bản có liên quan tới việc phát
triển sức nhanh của học sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 –
Bắc Ninh.
Nhiệm vụ 2: Lựa chọn, ứng dụng và đánh giá hiệu quả của một số trò
chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT
Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.

2.2. Các phƣơng pháp nghiên cứu chính
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
2.2.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp này là phương pháp thu thập thông tin bằng cách đọc và
phân tích tài liệu tham khảo. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi đi
tìm hiểu, tập hợp các tài liệu như các Văn kiện, Nghị quyết, Chỉ thị,... của
Đảng và Nhà nước, các sách viết chuyên khảo, tuyển tập và các tư liệu giảng
dạy của TDTT và GDTC, các hồ sơ giảng dạy, huấn luyện, các tài liệu lưu
trữ, các phim ảnh,... tìm hiểu nghiên cứu các sách viết về trò chơi vận động,
về sức nhanh, các sách giải phẫu sinh lí,... Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau:
sách báo, đài, internet,... Chúng tôi thu thập những tài liệu có liên quan nhằm
mở rộng thêm kiến thức lý luận, tâm sinh lý, phương pháp giáo dục, đặc biệt


là tìm hiểu sâu về trò chơi vận động phát triển sức nhanh cho học sinh THPT.
Phương pháp này được sử dụng trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài.
2.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả lời giữa nhà nghiên cứu
với các cá nhân, tổ chức khác nhau về các vấn đề cần quan tâm.
Đã sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp và
trao đổi tọa đàm:
- Phỏng vấn trực tiếp là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi - trả
lời miệng giữa nhà nghiên cứu và người được hỏi.
- Phỏng vấn gián tiếp là phương pháp thu thập thông tin bằng phiếu
hỏi, phiếu điều tra... theo một hệ thống câu hỏi được chuẩn bị sẵn sàng.
- Trao đổi, tọa đàm là phương pháp thu thập thông tin nhiều chiều giữa
nhà nghiên cứu với một số cá nhân về vấn đề quan tâm.
2.2.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Phương pháp quan sát sư phạm là phương pháp nhận thức đối tượng

nghiên cứu trong quá trình giáo dục, giáo dưỡng mà không ảnh hưởng tới quá
trình đó.
Trong thời gian thực hiện đề tài này việc quan sát sư phạm được sử
dụng trong quá trình dự giờ, quan sát quá trình học thể dục và các hoạt động
khác mà các em tham gia.
Qua phương pháp này có thể đánh giá và phân tích được quá trình
giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, giúp có cái nhìn khách quan và
có thể đưa ra những trò chơi vận động nhằm phát triển sức nhanh cho học
sinh nữ khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.
2.2.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Trong quá trình nghiên cứu đã tiến hành tổ chức kiểm tra sư phạm
nhằm đánh giá sức nhanh của các đối tượng nghiên cứu trước thực nghiệm và
sau thực nghiệm. Đặc biệt, phương pháp này còn nhằm kiểm nghiệm tính hiệu


quả của các trò chơi vận động, nhằm phát triển sức nhanh cho học sinh nữ
khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.
2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Với phương pháp này đã tiến hành kiểm nghiệm tính khoa học, tính
thực tiễn và tính hiệu quả của TCVĐ về cả mặt lí thuyết cũng như thực hành.
Tiến hành thực nghiệm so sánh 2 nhóm đối tượng là các em nữ khối 10
trường THPT Thuận Thành số 1. Ở đây chúng tôi phân ra làm hai nhóm:
Nhóm đối chứng 20 em.
Nhóm thực nghiệm 20 em.
Chương trình được thực nghiệm trong 6 tuần. Nhóm đối chứng tập theo
hình thức và chương trình cũ của trường THPT Thuận Thành số 1. Nhóm
thực nghiệm được áp dụng hệ thống các trò chơi vận động nhằm phát triển
sức nhanh đã được chọn.
2.2.6. Phương pháp toán học thống kê
Phương pháp này được sử dụng để phân tích, xử lý số liệu thu thập

được trong quá trình nghiên cứu đề tài, xác định tính hiệu quả của các trò chơi
vận động nhằm phát triển sức nhanh cho học sinh nữ khối 10 trường THPT
Thuận Thành số 1. Sau khi thu thập số liệu, đã sử dụng phương pháp thống kê
toán học để xử lý và áp dụng công thức sau:
n

Công thức tính hệ số trung bình cộng:

x 

x
i 1

i

n

n

Công thức tính phương sai:

2 

Công thức tính độ lệch chuẩn:

 ( x  x)

2

i


i 1

n 1

  2

(n <30)


So sánh 2 số trung bình quan sát (t) : t 

Trong đó:

xA  xB
(nA = nB<30)
nA  nB

n A .n B

x

: Số trung bình

xi

: Giá trị quan sát thứ i

n


: Số lượng đối tượng quan sát

i

: Số lần quan sát

t

: Độ tin cậy



: Độ lệch chuẩn

2. 3. Tổ chức nghiên cứu
2.3.1. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12 / 2011 đến tháng 5/2012
và chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Từ tháng 11/2011 đến tháng 12/2011
+ Lựa chọn đề tài.
+ Nghiên cứu tài liệu.
+ Xây dựng đề cương nghiên cứu và bảo vệ đề cương.
- Giai đoạn 2: Từ tháng 01/2012 đến tháng 03/2012
+ Đọc và tham khảo tài liệu.
+ Thu thập và xử lý số liệu.
+ Giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu.
- Giai đoạn 3: tháng 04/2012 đến tháng 05/2012
+ Hoàn thiện đề tài nghiên cứu.
+ Bảo vệ khoá luận.
2.3.2. Địa điểm nghiên cứu

Trường ĐHSP Hà Nội 2 - Xuân Hòa - Phúc Yên - Vĩnh Phúc.
Trường THPT Thuận Thành số 1 – Bắc Ninh.


2.3.3. Đối tượng nghiên cứu
- Thực trạng việc sử dụng các trò chơi vận động trong quá trình giảng
dạy m«n GDTC ở trường THPT Thuận Thành số 1.
- Lựa chọn vµ ứng dụng c¸c trß chơi vận động với
vai trß chủ thể để ph¸t

triển

sức nhanh cho học sinh nữ

khối 10 trường THPT Thuận Thành số 1.


×