Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH KINH DOANH THEO HÌNH THỨC NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI CÔNG TY TNHH LOTTERIA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.68 KB, 85 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
****************
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH KINH DOANH
THEO HÌNH THỨC NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG
MẠI TẠI CÔNG TY TNHH LOTTERIA VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn:TS.Đàm Quang Vinh
Sinh viên : Lê Thị Mai
Lớp : KDQT 46A
Khóa : 46
Hệ : Chính qui
Hà Nội, 2008
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỤC LỤC
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước với nền kinh tế đang phát triển một cách nhanh
chóng, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra từng ngày đặc biệt
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương
mại Thế giới từ ngày 11/01/2007 thì nhu cầu về mở cửa giao lưu với các nền
kinh tế khác trên thế giới ngày càng tăng. Hoạt động thu hút đầu tư nước
ngoài đang diễn ra một cách tích cực được thể hiện ở việc Nhà nước đã thực
hiện dỡ bỏ dần những rào cản thương mại và phi thương mại, tạo môi trường
đầu tư thuận lợi cho những nhà đầu tư nước ngoài. Trong những năn gần
đây, hàng loạt những nhà đầu tư nước ngoài đã đến với Việt Nam theo


phương thức kinh doanh nhượng quyền như là Bourbon Group, Metro Cash
& Carry, Lotteria, KFC, Medicare và Parkson… Kinh doanh nhượng quyền
đã trở thành phương pháp kinh doanh chủ đạo cho những nhà đầu tư muốn
mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình một cách nhanh nhất tuy nhiên nó
cũng đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm tròn hoạt động điều hành quản lý.
Thấy được đặc điểm này cũng là lý do em chọn đề tài nghiên cứu “Giải
pháp thúc đẩy quá trình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại
tại Công ty TNHH Lotteria Việt Nam” với kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan vế hình thức kinh doanh nhượng quyền thương
mại.
Chương 2. Tình hình kinh doanh theo hình thức nhượng quyền tại công
ty TNHH Lotteria Việt Nam.
Chương 3. Giải pháp thúc đẩy kinh doanh theo hình thức nhượng
quyền thương mại tại Công ty TNHH Lotteria Việt Nam.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thể hiện toàn cảnh bức tranh về kinh doanh nhượng quyền tại Công
ty TNHH Lotteria Việt Nam nói riêng và thị trường Việt Nam nói chung.
Trong quá trình nghiên cứu chuyên đề, em đã được sự hướng dẫn tận tình
của TS. Đàn Quang Vinh và các thầy cô trên khoa. Em xin chân thành cảm
ơn và mong nhận được sự đóng góp của các thầy, các cô để cho đề tài
nghiên cứu của em được hoàn thiện hơn.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HÌNH THỨC KINH
DOANH NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm và đặc điểm của nhượng quyền thương mại và kinh doanh
nhượng quyền.

1.1. Khái niệm.
1.1.1. Khái niệm nhượng quyền thương mại.
Franchise, Franchising, Nhượng quyền thương mại hay Nhượng
quyền kinh doanh (gọi tắt là Franchise) dùng để chỉ một phương thức kinh
doanh đặc biệt, có nhiều định nghĩa về franchise trên thế giới.
Theo Từ điển Anh Việt của viện ngôn ngữ học: Franchise là cho phép ai đó
chính thức được bán hàng hóa hay dịch vụ của một công ty ở một khu vực
cụ thể nào đó.
Theo Từ điển Webter của Anh: Franchise là một đặc quyền được trao
cho một người để phân phối hay bán sản phẩm của thương hiệu.
Tại Hoa Kỳ, Uỷ ban Thương mại liên bang (FTC) định nghĩa rằng:
“Fanchise là hoạt động thoả thuận giữa các bên, mà trong đó một bên chủ
thương hiệu cho phép bên kia được quyền kinh doanh sản phẩm, dịch vụ
theo kế hoạch, hệ thống gắn liền với thương hiệu của chủ thương hiệu.
Người được cấp quyền phải trả cho bên cấp quyền một khoản phí trực tiếp
hay gián tiếp gọi là phí Franchise”.
Còn theo Hiệp hội Nhượng quyền kinh doanh Quốc tế , hiệp hội lớn
nhất nước Mỹ và thế giới đã định nghĩa nhượng quyền kinh doanh như sau:
"Nhượng quyền kinh doanh là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và
Bên nhận quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên
tục tới doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
doanh (know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu
hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc
kiểm soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào
doanh nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
Vậy có thể định nghĩa nhượng quyền thương mại như sau: Nhượng
quyền thương mại là hoạt động mà theo đó bên nhượng quyền trao cho bên

nhận quyền quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh, sản phẩm dịch vụ
dưới thương hiệu của mình và nhận lại một khoản phí hay % doanh thu trong
thời gian nhất định.
1.1.2. Khái niêm kinh doanh nhượng quyền.
Tại Việt Nam, theo điều 284 Luật Thương mại 2005 thì Franchise là
hoạt động thương mại mà bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận
quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo
những điều kiện sau:
- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo phương
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với
nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền
trong việc điều hành công việc kinh doanh.
Vậy kinh doanh theo hình thức nhượng quyền thương mại là việc tiến
hành các hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng nhượng quyền
được thoả thuận giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền về các điều
khoản: (i) Nội dung của quyền thương mại, (ii) quyền và nghĩa vụ của hai
bên, (iii) giá cả, phí nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán, (iv)
thời hạn hiệu lực, gia hạn, chấm dứt hợp đồng, (v) giải quyết tranh chấp, vi
phạm. Do một số đối tượng của nhượng quyền thương mại đồng thời là các
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ, do đó, khi xác lập hợp đồng nhượng
quyền cần phải xây dựng các điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ, khi
chuyển giao các đối tượng này cũng phải đăng ký theo quy định của pháp
luật về sở hữu trí tuệ.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh theo hình thức nhượng quyền
thương mại.

1.2.1. Lịch sử phát triển của Franchise.
Theo nhiều tài liệu nghiên cứu, hình thức sơ khai của lối kinh doanh
nhượng quyền đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 17-18 tại Châu Âu. Tuy
nhiên, hoạt động franchise được chính thức thừa nhận khởi nguồn và phát
triển là tại Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 19, khi mà Nhà máy Singer (sản xuất
máy khâu) ký kết hợp đồng nhượng quyền kinh doanh đầu tiên cho đối tác
của mình. Franchise thực sự phát triển mạnh, bùng phát kể từ sau năm 1945
(khi Thế Chiến II kết thúc), với sự ra đời của hàng loạt hệ thống nhà hàng,
khách sạn và các hệ thống kinh doanh, phân phối theo kiểu bán lẻ, mà sự
đồng nhất về cơ sở hạ tầng, thương hiệu, sự phục vụ là đặc trưng cơ bản để
nhận dạng những hệ thống kinh doanh theo phương thức này. Từ những năm
60, franchise trở thành phương thức kinh doanh thịnh hành, thành công
không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở những nước phát triển khác như Anh, Pháp...
Sự lớn mạnh của những tập đoàn xuyên quốc gia của Hoa Kỳ và một số
nước Châu Âu trong lĩnh vực kinh doanh thức ăn nhanh, khách sạn - nhà
hàng đã góp phần “truyền bá” và phát triển franchise trên khắp thế giới.
Ngày nay, franchise đã có mặt tại hơn 150 nước trên thế giới, riêng tại Châu
Âu có khoảng 200 ngàn cửa hàng kinh doanh theo phương thức nhượng
quyền.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhận thấy lợi ích, hiệu quả của phương thức kinh doanh này, nhiều
quốc gia đã có các chính sách khuyến khích phát triển franchise. Hoa Kỳ là
quốc gia đầu tiên luật hoá franchise và có các chính sách ưu đãi cho những
cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức franchise. Chính phủ
các nước phát triển khác như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Ý... cũng noi gương
Hoa Kỳ, ban hành các chính sách thúc đẩy, phát triển hoạt động franchise,
khuyến khích và hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc bán franchise ra nước
ngoài. Nhiều trung tâm học thuật, nghiên cứu chính sách về franchise của

các chính phủ, tư nhân lần lượt ra đời, các đại học cũng có riêng chuyên
ngành về franchise để đào tạo, đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế.
Riêng tại Đông Nam Á, kể từ thập niên 90, các quốc gia đã nhận thấy
tác động của franchise đến việc phát triển nền kinh tế quốc dân là quan trọng
và là xu thế tất yếu của toàn cầu hóa, vì vậy nhiều chính sách, giải pháp phát
triển kinh tế liên quan đến franchise đã được nghiên cứu, ứng dụng và
khuyến khích phát triển. Năm 1992, Chính phủ Malaysia đã bắt đầu triển
khai chính sách phát triển hoạt động kinh doanh nhượng quyền (Franchise
development program) với mục tiêu gia tăng số lượng doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền, thúc đẩy và phát triển
việc bán franchise ra bên ngoài quốc gia. Singapore, quốc gia láng giềng của
Malaysia, cũng có các chính sách tương tự nhằm thúc đẩy, phát triển hoạt
động nhượng quyền trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ như đào tạo, y tế, du
lịch, khách sạn-nhà hàng... Gần đây nhất, kể từ thời điểm năm 2000, Chính
phủ Thái Lan cũng đã có các chính sách khuyến khích, quảng bá, hỗ trợ việc
nhượng quyền của các doanh nghiệp Thái Lan tại thị trường nội địa và quốc
tế.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trung Quốc đang trở thành thị trường tiềm năng của các thương hiệu
nước ngoài như: Mc Donald's, KFC, Hard Rock Cafe, Chilli's... đồng thời
đây là cứ địa đầu tiên để các tập đoàn này bán franchise ra khắp Châu Á.
Thông qua đó, hoạt động franchise của Trung Quốc trở nên ngày càng phát
triển, Chính phủ Trung Quốc đã thay đổi thái độ từ e dè chuyển sang khuyến
khích, nhiều thương hiệu đang được “đánh bóng” trên thị trường quốc tế
thông qua các cuộc mua bán, sáp nhập nhằm chuẩn bị cho kế hoạch đẩy
mạnh hoạt động nhượng quyền ra bên ngoài, được xem là một trong những
động thái quan trọng để phát triển nền kinh tế vốn đang rất nóng của Trung
Quốc.

Ngày nay, nhiều tổ chức phi chính phủ với tôn chỉ thúc đẩy phát triển,
hỗ trợ và quảng bá hoạt động franchise đã được thành lập. Điển hình là Hội
đồng Franchise Thế giới (World Franchise Council), ra đời vào năm 1994,
có thành viên là các hiệp hội franchise của nhiều quốc gia. Ngoài ra, một tổ
chức uy tín và lâu đời nhất là Hiệp hội Franchise Quốc tế (International
Franchise Association) được thành lập năm 1960, có khoảng 30.000 thành
viên bao gồm các doanh nghiệp bán, mua franchise. Thông qua các tổ chức
này, nhiều hoạt động có ích cho doanh nghiệp, cho các nền kinh tế quốc gia
đã được thực hiện như:
Tổ chức các hội chợ franchise quốc tế.
Xây dựng niên giám franchise khu vực, và trên toàn thế giới.
Hợp tác xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành, các website để cung cấp thông
tin cho mọi cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm đến franchise...
Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác và phát triển phương thức kinh doanh franchise.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ở Việt Nam, franchise được xem manh nha xuất hiện vào giữa thập
niên 90, khi mà đồng loạt xuất hiện hệ thống các quán cà phê Trung Nguyên
trên khắp mọi miền đất nước. Trung Nguyên là một trong những doanh
nghiệp Việt Nam đầu tiên nhạy bén nắm bắt hình thức kinh doanh
franchising. Thành lập từ giữa năm 1996, đến nay thương hiệu Trung
Nguyên đã có mặt trên 63 tỉnh thành. Từ 1998-2004, Trung Nguyên đã có
khoảng trên 500 quán cà phê nhượng quyền chính thức. Theo ông Nguyễn
Trần Quang, Giám đốc Tiếp thị của Công ty Cà phê Trung Nguyên, để được
trưng biển Trung Nguyên, các quán cà phê đều phải ký hợp đồng ràng buộc
với công ty. Họ sẽ phải bài trí quán theo một phong cách thống nhất, pha chế
cà phê theo một công thức nhất quán của Trung Nguyên. Phía Trung
Nguyên không hề thu phí chuyển nhượng đối với những quán này. Ngược
lại, phía Trung Nguyên có những sự giám sát nhất định về mặt kỹ thuật pha

chế, cách thức quản lý với những quán này. Mặc dù, cách làm của Trung
Nguyên lúc đó không hoàn toàn là franchise, nhưng cũng phần nào thể hiện
được những đặc trưng cơ bản của phương thức franchise. Trong thời gian
đó, khái niệm franchise gần như xa lạ, chưa được luật hóa. Năm 1998, lần
đầu tiên thông tư 1254/BKHCN/1998 hướng dẫn Nghị định 45/CP/1998 về
chuyển giao công nghệ, tại mục 4.1.1, có nhắc đến cụm từ “hợp đồng cấp
phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là franchise...”. Tháng 02/2005,
Chính phủ ban hành Nghị định 11/2005/NĐ-CP về chuyển giao công nghệ,
trong đó có nhắc đến việc cấp phép đặc quyền kinh doanh cũng được xem là
chuyển giao công nghệ, do đó chịu sự điều chỉnh của nghị định này. Tiếp
đến, tại Điều 755 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định rằng hành vi cấp
phép đặc quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công
nghệ.Kể từ năm 2006, franchise chính thức được luật hoá và công nhận.
Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006) đã dành nguyên Mục 8
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương VI để quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đồng thời,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 quy
định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại, đến
ngày 25/5/2006 thì Bộ Thương mại ban hành Thông tư 09/2006/TT-BTM
hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Đây chính là
những căn cứ pháp lý cơ bản nhất, tương đối đầy đủ để điều chỉnh và tạo
điều kiện cho franchise phát triển tại Việt Nam.
Hiện nay, khi nhắc đến các nhà nhượng quyền (franchisor) thành
công tại Việt Nam, có lẽ người ta nghĩ ngay đến Phở 24. Mặc dù, Trung
Nguyên là thương hiệu tiên phong trong hoạt động nhượng quyền (khoảng
năm 2000), thế nhưng việc xây dựng một hệ thống nhượng quyền chuẩn
mực, mang tính hàn lâm vẫn là Phở 24. Sở dĩ nói như vậy là vì Trung
Nguyên thành công trong việc nhân rộng mô hình quán cà phê trên khắp

Việt Nam, nhưng Trung Nguyên lại không chú trọng đến việc phải duy trì,
phát triển hệ thống theo những chuẩn mực, nguyên tắc nhất định của phương
thức franchise, vì thế kể từ năm 2004 trở về sau, hệ thống quán cà phê Trung
Nguyên bị “khựng lại”, không còn dấu hiệu mạnh mẽ như trước. Phở 24 mới
bắt đầu xuất hiện từ năm 2003, việc xây dựng hệ thống, tổ chức nhượng
quyền được đảm bảo thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản của hoạt động
franchise: nhượng quyền có thời hạn, có thu phí nhượng quyền, tổ chức kinh
doanh đặc thù, có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể. Mặc khác, hoạt động
quảng bá của của Phở 24 được thực hiện khá tốt và bài bản đã khiến cho hệ
thống này phát triển một cách ngoạn mục, chưa đầy 03 năm, Phở 24 đã có
trên 20 cửa hàng phở nhượng quyền trong khắp cả nước. Đặc biệt, trong
năm 2006, Phở 24 đã tiến hành nhuợng quyền sang Phillipine và Indonesia.
Theo nhận định của một số chuyên giavề nhượng quyền, có lẽ Phở 24 sẽ còn
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phát triển và “phủ sóng” sang khu vực Đông Á tại Hongkong, Nhật bản và
Hàn Quốc.Bên cạnh các thương hiệu nói trên, có thể kể đến Kinh Đô bakery,
thời trang Ninomax, Foci, giày dép T&T... Đặc biệt T&T là một trong những
doanh nghiệp đầu tiên được Bộ Thương mại cấp phép nhượng quyền sang
Maysia và Úc. Đây cũng là những tín hiệu đáng mừng cho sự phát triển non
trẻ của lĩnh vực franchise tại Việt Nam. Thế nhưng, nếu nhìn nhận về mặt
tổng thế, Việt Nam thực sự vẫn chưa có những nhà nhượng quyền tầm cở
mang tính xuyên quốc gia như McDonald, KFC, Lotteria ... việc thực hiện
hoạt động nhượng quyền đa phần mang tính thử nghiệm hoặc chập chững
từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Đồng thời, Nhà nước vẫn chưa có
chính sách thúc đẩy phát triển hoạt động franchise, do đó số lượng các nhà
nhượng quyền Việt Nam vẫn đếm đầu ngón tay. Và có thể mạnh dạn mà nói
vui vui rằng: franchise tại Việt Nam đang đón chào bình minh.
1.2.2. Thủ tục đăng ký hoạt động kinh doanh nhượng quyền thương mại.

Ở một số nước trên thế giới, quy định này cũng có thể là bắt buộc
hoặc khuyến khích tự nguyện đăng ký với mục đích để Nhà nước có thể thu
thập thông tin về hoạt động nhượng quyền để xây dựng các chính sách, cơ
chế pháp lý có nội dung khuyến khích, phát triển hoạt động nhượng quyền,
đồng thời đảm bảo lợi ích hợp pháp của người mua franchise. Tại Hoa Kỳ,
trên 12 tiểu bang có luật quy định bất kỳ doanh nghiệp nào nếu muốn tham
gia vào thị trường chứng khoán đều phải thực hiện đăng ký nhượng quyền
thương mại, điều này thể hiện chính sách bắt buộc thúc đẩy các doanh
nghiệp thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại. Ở Malaysia, từ năm
1992, với Chương trình Phát triển nhượng quyền (Franchise Development
Programme), Chính phủ nước này đã có những chính sách hỗ trợ cụ thể cho
doanh nghiệp trong việc tư vấn pháp lý, xây dựng hệ thống nhượng quyền và
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
quy định khá cởi mở trong việc đăng ký (hoặc khai báo) việc nhượng quyền
ra nước ngoài.
Tại Việt Nam, cơ sở pháp lý của thủ tục đăng ký hoạt động kinh
doanh nhượng quyền dựa trên:
1. Luật Thương mại năm 2005;
2. Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31 tháng 3 năm 2006 của Chính
phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương
mại;
3. Thông tư số 09/2006/TT-BTM ngày 25 tháng 5 năm 2006 của Bộ
Thương mại hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại.
Theo Điều 291 Luật Thương mại 2005, Điều 17 và 18 Nghị định 35,
bất kỳ doanh nghiệp trước khi tiến hành hoạt động nhượng quyền thương
mại phải thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại tại
Bộ Thương mại hoặc Sở Thương mại. Hồ sơ đăng ký hoạt động nhượng
quyền bao gồm:

1. Đơn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại ( theo mẫu );
2. Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại (theo mẫu);
3. Bản sao có công chứng Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc
Giấy chứng nhận đầu tư;
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
4. Bản sao có công chứng văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại
việt Nam hoặc tại nước ngoài trong trường hợp có chuyển giao quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được văn bằng bảo hộ;
5. Giấy tờ chứng minh sự chấp thuận về việc cho phép nhượng quyền lại
của bên nhượng quyền ban đầu trong trường hợp thương nhân đăng ký hoạt
động nhượng quyền là bên nhượng quyền thứ cấp;
(Trong trường hợp các giấy tờ trên thể hiện bằng tiếng nước ngoài thì phải
được dịch ra tiếng Việt và được công chứng bởi cơ quan công chứng trong
nước) .
và các văn bản khác để xác nhận tư cách pháp lý của bên dự kiến nhượng
quyền, quyền sở hữu trí tuệ đối tượng liên quan hoạt động nhượng
quyền...do Bộ Thương mại quy định mục II điều 1 Thông tư 09. Bộ Thương
mại hoặc Sở Thương mại là cơ quan có thẩm quyền xem xét, thẩm định hồ
sơ đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, các điều kiện để được
nhượng quyền (Điều 5 của Nghị định 35) để quyết định việc chấp thuận hay
không chấp thuận đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại của doanh
nghiệp.
Do vẫn chưa có chế tài ràng buộc cụ thể đối với trường hợp bị từ chối
đăng ký nhượng quyền, nên trong thực tế, những doanh nghiệp bị xét không
đủ điều kiện nhượng quyền nhưng vẫn có thể tiếp tục thực hiện nhượng
quyền bắt cách lách luật thông qua việc ký kết hợp đồng đại lý với đối tác,
trong đó có thỏa thuận cho phép đối tác được sử dụng thương hiệu và tổ
chức kinh doanh theo phương thức hoạt động của mình.Ngoài ra, hiện thời

Bộ Tài chính vẫn chưa có văn bản cụ thể quy định mức phí đăng ký hoạt
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động nhượng quyền thương mại, do đó có thể dẫn đến lúng túng đối với cơ
quan tiếp nhận đăng ký.
Về vấn đề xây dựng, cung cấp Bản Giới thiệu về Nhượng quyền
thương mại.
Về nguyên tắc, việc yêu cầu doanh nghiệp dự kiến nhượng quyền xây
dựng Bản Giới thiệu về nhượng quyền thương mại là hoàn toàn phù hợp với
quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin của Bên nhượng quyền.
Bản Giới thiệu về nhượng quyền thương mại của doanh nghiệp thực chất đó
là tài liệu quan trọng, còn gọi là UFOC (Uniform Franchise Offering
Circular), mà Bên nhượng quyền phải cung cấp cho Bên dự kiến nhận quyền
nghiên cứu trước khi ký kết hợp đồng nhượng quyền. Do đó, Bản giới thiệu
nhượng quyền thương mại phải thể hiện đầy đủ, trung thực, chính xác mọi
thông tin về Bên nhượng quyền, hệ thống nhượng quyền và các vấn đề cơ
bản liên quan đến việc ký kết hợp đồng nhượng quyền. Ở một số quốc gia
như Hoa Kỳ, việc xây dựng và cung cấp tài liệu UFOC là bắt buộc theo luật
định, tài liệu này luôn đảm bảo 02 chức năng cơ bản: cung cấp chính xác
thông tin liên quan đến nội dung nhượng quyền thương mại, quảng bá cho
Bên nhượng quyền. Tại Việt Nam, Bộ Thương mại cũng ban hành mẫu Bản
Giới thiệu nhượng quyền thương mại kèm Thông tư 09, có nội dung khá chi
tiết gồm 02 phần và 13 mục. Tuy nhiên, Bản Giới thiệu mẫu được soạn thảo
hơi cứng nhắc, các thông tin yêu cầu cung cấp có vẻ như chủ yếu để phục vụ
cho hoạt động thống kê, quản lý nhà nước, mà không tính đến yếu tố thể
hiện sự quảng bá của Bên dự kiến nhuợng quyền. Ngoài ra, một số nội dung
thông tin phân chia theo đề mục không hợp lý, khó hiểu hoặc một số yêu cầu
có thể không cần thiết, cụ thể như sau:
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A

13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Trùng lắp tiêu đề tại Mục I Phần A và mục I Phần B. Theo nội dung được
nêu, Mục I Phần A nhắm giới thiệu tổng quát về vị trí pháp lý, chức năng
kinh doanh cùa Bên nhượng quyền, Mục I Phần B cung cấp thông tin cơ bản
về bộ máy, tổ chức kinh doanh nhượng quyền của Bên nhượng quyền. Vì
vậy, nên chăng sửa đổi tiêu đề Mục I Phần A thành “Giới thiệu tư cách pháp
lý của Bên nhượng quyền”, tiêu đề Mục I Phần B thành “Thông tin về tổ chức
- hoạt động của Bên nhượng quyền”.
- Điểm 2 Mục V Phần B nói về khả năng cho phép Bên nhận quyền có được
chỉnh sửa những quy định của hệ thống kinh doanh nhượng quyền. Thực chất
đây chính là quyền của Bên nhận quyền do Bên nhượng quyền quy định, thế
nhưng lại được sắp xếp vào nhóm nghĩa vụ của Bên nhận quyền.
- Điểm 3, 4, 5, 6, 7, 8 Mục IX Phần B yêu cầu phải công khai chi tiết số
lượng và tình trạng ký kết, thực hiện, gia hạn, chấm dứt hợp đồng nhượng
quyền của Bên nhượng quyền. Có vẻ như những yêu cầu này can thiệp quá
sâu vào bí mật kinh doanh của Bên nhượng quyền, và có thể gây ra rủi ro
cho Bên nhượng quyền nếu Bên dự kiến nhận quyền không ký kết hợp đồng
nhượng quyền. Ở đây, chỉ cần Bên nhượng quyền cung cấp thông tin về số
lượng cơ sở kinh doanh trong hệ thống nhượng quyền đang hoạt động hoặc
đã chấm dứt trong thời gian 03 năm gần nhất, đối với trường hợp nào đã ký
kết hợp đồng mà vẫn chưa triển khai thực hiện thì phải trình bày lý do cụ thể
là đủ.
- Mục X Phần B yêu cầu Bên nhượng quyền phải cung cấp nội dung báo cáo
tài chính đã được kiểm toán trong 01 năm gần nhất. Việc cung cấp nội dung
báo cáo tài chính là hợp lý, tuy nhiên yêu cầu phải có kiểm toán có thực sự
phù hợp với tình hình thực tế tại Việt Nam không? Tại Hoa Kỳ, chỉ có một
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

số tiểu bang mới đòi hỏi báo cáo tài chính của bên nhượng quyền phải có
kiểm toán xác nhận mà thôi. Hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đa phần
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phần lớn chưa quen với việc kiểm toán, do đó
thiết nghĩ chỉ nên yêu cầu cung cấp bản sao Báo cáo tài chính, quyết toán
thuế đã được cơ quan thuế kiểm tra, xác nhận là được.
- Mục XI Phần B có tiêu đề “Phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc
tổ chức cần phải tham gia” hoàn toàn không phù hợp với nội dung thông tin
thể hiện sự cam kết của Bên nhượng quyền về tính chính xác, trung thực của
Bản Giới thiệu nhượng quyền thương mại. Do đó, tiêu đề này đề xuất nên
sửa lại là “Sự cam kết, chế tài và cơ quan tài phán được lựa chọn để đảm bảo
thực hiện”.
Bản Giới thiệu về Nhượng quyền thương mại là một tài liệu không thể
thiếu đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền. Nó quyết
định rất lớn đến khả năng ký kết hợp đồng nhượng quyền giữa bên nhượng
quyền và bên nhận quyền và sự lớn mạnh của thương hiệu.
1.2.3. Đặc điểm.
Franchise trên thế giới xuất hiện đầu tiên tại Mỹ, vào giữa thế kỷ 19.
Đến nay Franchise đã trở thành một phương thức kinh doanh hiện đại, rất
phổ biến. Tại Mỹ, gần một nửa doanh số bán lẻ được thực hiện thông qua
các hệ thống Franchise. Mặt dù chưa có định nghĩa thống nhất trên thế giới,
nhưng khái quát chung, Franchise là phương thức kinh doanh mà theo đó,
Bên nhượng quyền (Franchisor, doanh nghiệp sản xuất hoặc mua bán hoặc
dịch vụ) cho phép Bên nhận quyền (Franchisee, doanh nghiệp kinh doanh
độc lập) sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, khẩu hiệu kinh doanh và bí quyết kinh
doanh hoặc quy trình vận hành hệ thống kinh doanh.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngược lại, Bên nhận quyền phải trả phí ban đầu, gồm: phí nhượng
quyền (Franchise fee), phí lãnh thổ (territorial fee) trong trường hợp ký hợp

đồng qua Bên nhượng quyền của khu vực) và phí bản quyền (royalty fee)
khi kinh doanh hoặc cũng có một số hệ thống nhượng quyền thu phí cố định
trả một lần trong thời gian nhượng quyền. Bên nhượng quyền sẽ đem lại cho
bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu. Nhưng trong một số trường hợp, Bên
nhận quyền vẫn phải chịu sự kiểm soát trong quá trình kinh doanh dưới nhãn
hiệu đã đăng ký.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng các điểm chung trong tất cả những định
nghĩa về kinh doanh nhượng quyền thương mại như đã trình bày ở trên đều
có chung những đặc điểm cơ bản sau:
Quan hệ nhượng quyền thương mại trong kinh doanh nhượng quyền
về bản chất là quan hệ hợp đồng. Các bên tham gia trong quan hệ này kể cả
bên nhượng quyền và bên nhận quyền đều bị chi phối bằng hợp đồng
nhượng quyền. Bên nhượng quyền có nghĩa vụ cấp quyền sử dụng nhãn hiệu
hàng hóa, khẩu hiệu kinh doanh và bí quyết kinh doanh hoặc quy trình vận
hành hệ thống kinh doanh cho bên nhận quyền. Đồng thời có trách nhiệm
giám sát hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền cũng như cung cấp
những thông tin cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh của bên nhận
quyền. Bên cạnh đó, bên nhận quyền phải có trách nhiệm trả phí nhượng
quyền cho bên nhượng quyền để được quyền kinh doanh trên nhãn hiệu
hàng hoá đã đăng ký và chịu sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Các trách
nhiệm và nghĩa vụ của cả hai bên đều có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau.
Một Bên độc lập (Bên nhận) được phép phân phối sản phẩm, hoặc
dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hóa, các đối tượng khác của các quyền sở hữu
trí tuệ, và mô hình kinh doanh đồng bộ do một Bên khác (Bên giao) phát
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
triển và sở hữu. Với bất cứ một nhãn hiệu hàng hoá được kinh doanh theo
hình thức nhượng quyền, mặc dù có những mối quan hệ chặt chẽ với nhau

giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền nhưng vẫn tồn tại một sự độc lập
về quyết định phân phối sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Mặt khác, để được
phép làm việc này, Bên nhận phải trả những phí và chấp nhận một số hạn
chế do Bên giao quy định theo hợp đồng nhượng quyền giữa hai bên.
Ngoài ra, một đặc điểm nổi bật nữa là có sự phân biệt khá rõ rệt về
chức năng của mỗi bên trong hệ thống nhượng quyền. Bên nhượng quyền
đảm nhiệm vai trò chính trong việc phát triển hệ thống, tạo dựng uy tín của
thương hiệu, chuẩn hoá các quy trình, khẳng định tính ưu việt của hệ thống,
hỗ trợ về huấn luyện, các điều kiện cần thiết khác để bên nhận quyền triển
khai tốt nhất hoạt động kinh doanh. Bên nhận quyền chịu trách nhiệm triển
khai hoạt động kinh doanh: đầu tư về vốn, nguồn lực, trực tiếp vận hành
hoạt động kinh doanh dưới sự hỗ trợ liên tục của bên giao quyền.
Tóm lại, nhìn từ các quan điểm khác nhau về nhượng quyền thương
mại trên thế giới, chúng ta có thể khẳng định “kinh doanh nhượng quyền
thương mại, xét về bản chất, là một cách thức mở rộng kinh doanh”.
1.3. Vai trò của nhượng quyền thương mại.
1.3.1. Vai trò của nhượng quyền thương mại trong các nền kinh tế phát
triển.
Franchise có xuất xứ từ châu Âu cách đây hàng trăm năm và sau đó
lan rộng và bùng nổ tại Mỹ. Từ Franchise có nguồn gốc từ tiếng Pháp là
“Franc” có nghĩa “Freedom” – tự do. Sự lớn mạnh của mô hình franchise
thực sự chỉ bắt đầu sau thế chiến thứ II khi hàng loạt thương hiệu trong các
ngành dịch vụ, bán lẻ, chuỗi khách sạn, nhà hàng thức ăn càng phát triển và
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phổ biến khắp thế giới và đặc biệt là thập niên 90. Trong đó phải kể đến :
Mcdonald’s, 7-elevent,…
Hàng năm, công nghệ franchise mang lại cho nền kinh tế nước Mỹ
Hơn 600 tỷ USD doanh số gấp 10 lần tổng số GDP Việt Nam (theo số liệu

năm 2004), 8 triệu việc làm, cứ 7 người làm việc thì có 1 người làm cho
Franchise, cũng như tại Mỹ, cứ mỗi 8 phút có một cửa hàng Franchise ra
đời, hay nói cách khác đi, mỗi ngày có 180 của hàng Franchise khai trương.
Với tốc độ và đà phát triển chóng mặt của mô hình kinh doanh Franchise tại
Mỹ và nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển trên thế giới, các doanh
nghiệp riêng lẻ có thương hiệu độc lập khó có thể cạnh tranh và tồn tại nổi.
Hiệp hội Nhượng quyền kinh doanh Quốc tế , hiệp hội lớn nhất nước Mỹ
và thế giới đã định nghĩa nhượng quyền kinh doanh như sau: "Nhượng
quyền kinh doanh là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên giao và Bên nhận
quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới
doanh nghiệp của Bên nhận trên các khía cạnh như: bí quyết kinh doanh
(know-how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng
hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm
soát; và Bên nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh
nghiệp bằng các nguồn lực của mình".
Theo định nghĩa này, vai trò của Bên nhận quyền kinh doanh trong
việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so
với trách nhiệm của bên giao quyền. Quan điểm này cũng xuất phát từ sự
chênh lệch về quyền lực và chênh lệch về thông tin giữa các bên trong quan
hệ hợp đồng nhượng quyền. Những yêu cầu mạnh mẽ hơn về phía bên
nhượng quyền nhằm đảm bảo lợi ích cho bên nhận quyền. Tuy nhiên, định
nghĩa cũng chỉ ra tính độc lập tương đối giữa bên nhượng quyền và bên nhận
quyền.
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Định nghĩa của Uỷ ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ lại nhấn mạnh
tới việc Bên giao quyền kinh doanh hỗ trợ và kiểm soát Bên nhận trong hoạt
động. FTC định nghĩa một hợp đồng nhượng quyền kinh doanh là hợp đồng
theo đó Bên giao:

+ Hỗ trợ đáng kể cho Bên nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc
kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của Bên nhận.
+ Li-xăng nhãn hiệu cho Bên nhận để phân phối sản phẩm hoặc dịch
vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của Bên giao và yêu cầu Bên nhận thanh toán
cho Bên giao một khoản phí tối thiểu.
Cộng đồng chung Châu Âu EC (nay là liên minh Châu Âu EU) lại định
nghĩa nhượng quyền kinh doanh theo hướng nhấn mạnh tới quyền của Bên
nhận, khi sử dụng một tập hợp quyền sở hữu trí tuệ. Mặc dù, ghi nhận vai trò
của thương hiệu và hệ thống, bí quyết kinh doanh của Bên giao quyền, định
nghĩa này không đề cập tới những đặc điểm khác của việc nhượng quyền
kinh doanh. EC định nghĩa quyền kinh doanh là một "tập hợp những quyền
sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hóa, tên
thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác
giả, bí quyết, hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản phẩm, hoặc cung
cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng". Nhượng quyền kinh doanh có
nghĩa là việc chuyển nhượng quyền kinh doanh được định nghĩa ở trên.
Luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc nhượng quyền kinh doanh về mặt hỗ
trợ kỹ thuật (technical assistance) và nhấn mạnh tới việc chuyển giao "kiến
thức kỹ thuật" (technical knowledge) để bán sản phẩm, hoặc dịch vụ đồng
bộ và có chất lượng. Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ
6/1991 quy định: "Nhượng quyền kinh doanh tồn tại khi với một li-xăng cấp
quyền sử dụng một thương hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công
nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo, hoặc bán sản
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành
(operative methods), các hoạt động thương mại, hoặc hành chính đã được
chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng (quality), danh tiếng
(prestige), hình ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới

thương hiệu đó."
Định nghĩa này phản ánh một phần quan điểm của Mêhicô là một
nước đang phát triển có nhu cầu rất lớn trong việc nhập khẩu công nghệ và
bí quyết kinh doanh từ nước ngoài.
Ở Nga, thỏa thuận nhượng quyền kinh doanh được định nghĩa là "Sự
nhượng quyền thương mại" (commercial concession).
Chương 54, Bộ luật dân sự Nga định nghĩa bản chất pháp lý của "sự nhượng
quyền thương mại" như sau:
"Theo Hợp đồng nhượng quyền thương mại, một bên (bên có quyền)
phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một khoản thù lao, theo một thời
hạn, hay không thời hạn, quyền được sử dụng trong các hoạt động kinh
doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của bên có quyền
bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật
kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng
khác như nhãn hiệu hàng hoá , nhãn hiệu dịch vụ,.."
Tương tự như định nghĩa của EU, định nghĩa của Nga nhấn mạnh tới
việc Bên giao chuyển giao một số quyền sở hữu trí tuệ độc quyền cho Bên
nhận để đổi lấy những khoản phí nhất định, mà không đề câp đến vai trò,
nghĩa vụ của bên nhận.
Để có thể hiểu rõ hơn những ích lợi đến từ nhượng quyền thương mại
đến nền kinh tế ta xem qua một vài ví dụ:
Trường hợp của McDonald , thương hiệu thức ăn nhanh lớn nhất thế
giới gắn liền với khái niệm nhượng quyền. Đây là hệ thống nhượng quyền
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đã hiện diện ở 119 nước trên thế giới, có lượng khách hàng tiêu thụ mỗi
ngày lên đến 47 triệu lượt (Nguồn: Asia-Inc).
Năm thành lập: 1955
Thời điểm bắt đầu áp dụng nhượng quyền: 1955

Kroc Dr.
Oak Brook, IL 60523
Phone:(630)623-6196
Fax:(630)623-5658
www.mcdonalds.com
Đây là một công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán (Public company)
McDonald’s có 885 lao động.
Trong đó: 15 lao động thuộc bộ phận Nhượng quyền.
Bảng 1.1. Tăng trưởng hệ thống nhượng quyền thương mại của
McDonald.
Năm Cửa hàng tại
Mỹ
Cửa hàng tại
Canada
Cửa hàng
ngoài Mỹ và
Canada
Cửa hàng do
công ty sở hữu
2004 11.610 867 9.715 8.028
2003 11.533 843 9.740 8.065
2002 11.276 832 9.850 8.262
2001 11.051 812 9.455 6.918
2000 10.839 787 9.176 6.539
(Nguồn: www.mcdonalds.com)
Tính đến 2004, công ty đã có 49 năm phát triển hệ thống với hàng loạt
những nhà hàng trên khắp thế giới, hàng năm mang lại doanh thu rất lớn.
Với tổng cộng 22.192 cửa hàng trên toàn cầu, bình quân mỗi tháng hệ thống
này có trên 33 cửa hàng mới khai trương. Nếu nhiệm vụ dự khai trương cửa
hàng mới dành cho một người, trong suốt 49 năm liên tục, 365 ngày mỗi

Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
năm người này được phải có mặt trong ngày khai trương thì vẫn không dự
hết các buổi khai trương này.
Mức đầu tư cho một cửa hàng McDonald khoảng từ 200.000 đến 1
triệu đô la Mỹ. Để mở được tổng số cửa hàng trên, chủ nhân thương hiệu
phải đầu tư 443, 840 – 22. 192 triệu đô la Mỹ (hơn 1/2 GDP của Việt Nam
năm 2004).
Mỗi cửa hàng của McDonald có tối thiểu là 20 lao động, bộ phận nhân
sự của công ty sẽ phải phỏng vấn tuyển dụng, huấn luyện, đào tạo về nghiệp
vụ, v.v.. trung bình 660 người mỗi tháng.
Nếu tính một cách khiêm tốn nhất, một người từ lúc có ý định đầu tư,
đến khi khai trương được một cửa hàng kinh doanh thức ăn nhanh sẽ mất
khoản thời gian 6 tháng, để có thể mở được hệ thống cửa hàng có số lượng
như của McDonald, người này sẽ phải mất 11.096 năm để làm điều này.
Trường hợp của Gloria Jean's Gourmet Coffees Franchising Corp, một hệ
thống nhượng quyền trong lĩnh vực cà phê và trà.
Năm thành lập: 1979.
Thời điểm áp dụng nhượng quyền: 1986.
2144 Michelson Dr.
Irvine, CA 92612
Phone: (949)260-1600
Fax: (949)260-1610
www.gloriajeans.com
Là công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Có 40 lao động
Trong đó: có 4 lao động thuộc bộ phận nhượng quyền
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
22

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Bảng 1.2. Tăng trưởng hệ thống nhượng quyền thương mại của
Gloria Jean's Gourmet Coffees Franchising Corp.
Năm Cửa hàng tại
Mỹ
Cửa hàng tại
Canada
Cửa hàng ngoài
Mỹ và Canada
Cửa hàng do
công ty sở hữu
2003 142 0 232 10
2002 173 0 140 18
2001 195 0 62 23
2000 213 0 36 20
1999 213 0 32 34
(Nguồn: www.gloriajeans.com)
Tính toán tương tự cho hệ thống Gloria Jean's Gourmet Coffees
Franchising Corp:
Gloria Jean's Gourmet Coffees Franchising Corp đã có 18 năm phát
triển hệ thống, 374 cửa hàng trên toàn cầu, bình quân mỗi 3 tháng hệ thống
này khai trương 5 cửa hàng.
Tổng giá trị đầu tư đầu tư 7,48 triệu đô la Mỹ.
Bộ phận nhân lực sẽ phải quản lý 7480 lao động ở quy mô toàn cầu
Hai ví dụ nhỏ trên đây càng củng cố mạnh mẽ cho ích lợi của nhượng
quyền đối với nền kinh tế. John Naisbitt, nhà tương lai học hàng đầu thế giới
phát biểu rằng: “Nhượng quyền thương mại là khái niệm tiếp thị thành công
nhất trong tất cả các khái niệm đã từng phát minh”. Ngày nay, doanh số từ
khu vực nhượng quyền thương mại đã chiếm đến 40% tổng mức bán lẻ của
Mỹ. Ở đâu đó trên đất Mỹ, cứ mỗi 12 phút là có một nhượng quyền ra đời.

Một câu hỏi lớn được đặt ra ở đây là: Quan hệ giữa các bên trong nhượng
quyền liệu có cần thiết phải điều chỉnh bởi luật riêng hay không?
Khái niệm nhượng quyền kinh doanh khá đa dạng và nhiều chiều do
sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các
quốc gia. Dựa trên sự khác nhau trong việc quản lý điều chỉnh các hoạt động
Lê Thị Mai Lớp: Kinh doanh quốc tế 46A
23

×