Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.33 KB, 7 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế khách quan của sự
phát triển kinh tế thế giới. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã mở ra những cơ hội và
tạo điều kiện cho các quốc gia, dân tộc trên thế giới tận dụng những lợi thế so sánh
của mình cho tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đồng thời, quá trình toàn cầu
hóa kinh tế cũng đặt mỗi quốc gia, dân tộc trước sức ép cạnh tranh và những thách
thức gay gắt, nhất là các nước đang phát triển. Các quốc gia, dân tộc nào chiếm vị trí
có lợi trong cạnh tranh thị trường thì quốc gia, dân tộc đó sẽ chiếm được quyền chủ
động trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế.
Nước ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày
1/1/2007, nền kinh tế nước ta trở thành một bộ phận và chịu ảnh hưởng trực tiếp của
những động thái nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đang đứng trước những bước phát
triển mới đòi hỏi phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Nền kinh tế có năng lực cạnh
tranh quốc gia cao sẽ đạt được tốc độ tăng trưởng cao, tạo thêm việc làm và thu nhập,
trình độ khoa học công nghệ được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện.
Ngược lại, chậm hay không nâng cao được năng lực cạnh tranh quốc gia sẽ dẫn đến ít
thu hút được đầu tư trong nước và nước ngoài, các doanh nghiệp mất thị phần trên thị
trường trong nước và thế giới, có thể dẫn đến giải thể, phá sản, lao động mất việc
làm, gây khó khăn về kinh tế - xã hội.
Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện đang là vấn
đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng, sôi động được giới học thuật, các nhà hoạch định
chính sách, nhà quản lý doanh nghiệp và chính phủ quan tâm nghiên cứu.Vì vậy, tôi
lựa chọn đề tài "Gia nhập WTO và vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia". Mục đích nghiên cứu tập trung vào hệ thống hóa để làm rõ thực tiễn về nâng
cao năng lực canh tranh của Việt Nam trong điều kiện gia nhập vào WTO.
Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 2 phần:
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
Chương 2: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368


NỘI DUNG
Chương 1: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta
1.Thể chế Nhà nước và vai trò điều hành của Chính phủ
1.1. Thể chế Nhà nước
Từ năm 2005 đến nay, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO, với sự nỗ lực và cố
gắng trên mọi phương diện, hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà
nước Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Việc ban hành Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (2005) đánh dấu bước cải
cách mạnh mẽ về đầu tư, tạo điều kiện và môi trường bình đẳng cho các nhà đầu tư
nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế. Nhiều hạn chế đối với các nhà đầu tư
nước ngoài được dỡ bỏ, các thủ tục đối với đầu tư nước ngoài được cải thiện, cùng
với các cam kết trong WTO, lĩnh vực đầu tư được cải cách mạnh:
- Khái niệm đầu tư được mở rộng, bao gồm mọi loại hình đầu tư.
- Nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập công ty cổ phần và phát hành
chứng khoán.
- Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
trong các lĩnh vực không bị hạn chế.
- Sử dụng trọng tài quốc tế, tòa án nước ngoài hoặc luật nước ngoài trong
trường hợp có tranh chấp và pháp luật Việt Nam không quy định về các tranh chấp
đó.
- Bãi bỏ chế độ hai giá và các thông lệ khác mang tính phân biệt giữa nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
- Cải thiện các quy định về quản trị doanh nghiệp.
- Bãi bỏ hạn chế về vốn góp và các yêu cầu về thuê, tuyển các vị trí quản lý
cấp cao là người Việt Nam trong công ty liên doanh.
- Xác lập quyền đầu tư và quyền sở hữu vốn đầu tư và các tài sản khác liên
quan của các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các công ty nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Cam kết các quy định chung liên quan đến đầu tư phù hợp với các yêu cầu
của các hiệp ước quốc tế. Tăng khả năng tiếp cận thị trường của các nhà đầu tư nước
ngoài, nhất là đối với lĩnh vực dịch vụ.
Bên cạnh việc ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, rất nhiều các cải
cách pháp lý và các quy định liên quan đã được sửa đổi nhằm cải thiện môi trường
kinh doanh của Việt Nam:
- Luật Sở hữu trí tuệ nhằm bảo hộ quyền của chủ thể đối với nhãn hiệu hàng
hóa, quyền tác giả, bằng sáng chế độc quyền…
- Các biện pháp nhằm nâng cao năng lực của tòa án.
- Các quy định mới nhằm tăng quyền của doanh nghiệp trong mối quan hệ với
chính quyền trung ương và địa phương.
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện hơn, minh bạch
hơn các hoạt động lập pháp.
- Quy định về ngân hàng, tự do hóa ngân hàng, dịch vụ pháp lý, dịch vụ tư vấn.
- Luật Cạnh tranh nhằm điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
tình trạng độc quyền. Luật Phá sản tạo căn cứ cho việc phá sản và tái cơ cấu doanh
nghiệp.
- Luật Thương mại mới và Bộ luật Dân sự mới bổ sung những điều kiện đầy
đủ hơn về hợp đồng.
Môi trường đầu tư của Việt Nam được cải thiện rõ rệt thông qua cải thiện
hàng loạt những lĩnh vực liên quan trước sức ép trực tiếp và gián tiếp của việc gia
nhập WTO.
Một trong những kết quả quan trọng của hệ thống pháp luật hiện nay là khung
pháp luật đã bao quát hầu hết các vấn đề cơ bản cho sự hình thành cơ chế quản lý
kinh tế mới cho nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chế độ sở hữu, địa vị pháp lý
của các doanh nghiệp, thương nhân, quyền tự do kinh doanh, quyền tự do hợp đồng,
các cơ chế khuyến khích và đảm bảo đầu tư, khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn
lực của xã hội, hình thành môi trường cạnh tranh… Các quan hệ dân sự và kinh tế
đang dần được điều chỉnh bằng các nguyên tắc của luật pháp và tập quán thương mại
quốc tế thay cho các biện pháp hành chính đơn thuần.

3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Pháp luật về kinh tế ngày càng phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước của
các cơ quan quản lý Nhà nước và hoạt động kinhh doanh của các doanh nghiệp,
khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động kinh doanh, khẳng định
nguyên tắc công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Tuy nhiên, pháp luật kinh tế đang còn có những hạn chế, bất cập như sau:
Hệ thống pháp luật nước ta còn thiếu nhiều quy định quan trọng, chưa ban
hành luật về cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền, chậm cải tiến so với các
nước trong khu vực.
Hệ thống pháp luật thiếu nhất quán, Luật, Pháp lệnh có thể thông thoáng
nhưng những văn bản hướng dẫn cụ thể như Nghị định của Chính phủ, nhất là Thông
tư của các Bộ thường có nội dung gò bó hơn, không ít trường hợp hạn chế nội dung
của Luật hay Pháp lệnh.
Môi trường kinh doanh chưa bình đẳng, còn quá nhiều doanh nghiệp Nhà
nước độc quyền trên các lĩnh vực khác nhau, áp đặt mức giá cao với chất lượng dịch
vụ thấp và không ổn định đối với khách hàng. Luật pháp có thể được vận dụng khác
nhau do một luật được thiết kế để phục vụ quá nhiều mục tiêu khác nhau, có nhiều
dòng thuế, nhiều quy định ưu tiên, miễn giảm, nhiều mức giá có thể áp dụng để tính
thuế… làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên phức tạp, không thống nhất.
Tính minh bạch, công khai của nền kinh tế bao gồm cả doanh nghiệp và cơ
quan Nhà nước còn quá thấp. Đặc biệt sự thay đổi đột ngột trong Thông tư hướng
dẫn của các Bộ (như Quyết định về thuế nhập khẩu đối với phụ tùng xe máy, phụ
tùng xe ô tô) không được dự báo trước, không được thảo luận trước với các doanh
nghiệp đã ảnh hưởng xấu nghiêm trọng đối với môi trường đầu tư. Những quyết định
như vậy tạo ra ấn tượng với nhà đầu tư là chính sách, quy định của nước ta “tiền, hậu
bất nhất”, khó dự đoán được, thiếu tính ổn định, gây tâm lý lo lắng cho các nhà đầu
tư trong nước và ngoài nước.
Việc thực thi pháp luật không nghiêm được coi là trở ngại quan trọng. Việc
thực hiện pháp luật còn thiếu nhất quán, chưa thống nhất trong cả nước. Chính quyền

địa phương ở một số nơi còn can thiệp vào nội bộ của doanh nghiệp không phù hợp
với pháp luật, không phù hợp với cơ chế thị trường. Hiện tượng hình sự hóa các quan
hệ dân sự, cơ quan bảo vệ pháp luật hành động quá quy định của pháp luật, có lợi cho
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
một bên tranh chấp còn tiếp tục ở một số nơi. Cơ quan xét xử, hòa giải, trọng tài còn
có những quyết định thiếu khách quan, tỷ lệ quyết định oan sai còn lớn.
Nạn quan liêu, tham nhũng tuy đã được đấu tranh từ một số năm, song vẫn
còn khá phổ biến và nghiêm trọng, nhất là những khâu liên quan đến lợi ích của
doanh nghiệp. Chi phí kinh doanh về tiền bạc và thời gian ở Việt Nam còn cao hơn
một số nước khác trong khu vực.
1.2. Vai trò của Chính phủ
Trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã từng bước đổi mới chức
năng quản lý Nhà nước về kinh tế theo hướng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nội
dung đổi mới chủ yếu của quản lý Nhà nước về kinh tế là: tách bạch chức năng quản
lý Nhà nước về kinh tế của các cơ quan Nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh
nghiệp Nhà nước của Nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp; chuyển
từ quản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế
quốc dân; chuyển từ can thiệp nền kinh tế trực tiếp sang can thiệp gián tiếp thông qua
hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô.
Nhà nước không trực tiếp tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
như trước đây mà tham gia vào hoạt động này thông qua chính sách đầu tư của mình
vào một số lĩnh vực đặc biệt quan trọng của nền kinh tế. Đặc biệt, Nhà nước tập
trung vào những lĩnh vực tư nhân chưa muốn tham gia hoặc những ngành có thời
gian hoàn vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp như kết cấu hạ tầng, giáo dục, đào tạo, y
tế, xóa đói giảm nghèo và việc chăm lo thực hiện chính sách xã hội, chính sách đối
với người có công, người bị thiệt thòi.
Nhà nước đã thực hiện nhiều cải cách lớn trong lĩnh vực kinh tế và xã hội.
Kết quả của những cải cách này có góp phần rất quan trọng của chi ngân sách Nhà
nước. Trước gia nhập WTO, năm 2006 chi tiêu Chính phủ là 308.058 tỷ đồng. Sau

gia nhập WTO, chi tiêu Chính phủ năm 2007 tăng mạnh, đạt 399.402 tỷ đồng nhưng
năm 2008 giảm xuống còn 398.980 tỷ đồng. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước đã có
nhiều chuyển biến. Chi thường xuyên năm 2006 chiếm 52,54% tổng chi, năm 2007
tăng lên chiếm 53,06% tổng chi và năm 2008 chiếm 59,46% tổng chi. Chi thường
xuyên được cơ cấu lại theo hướng tăng chi thực hiện các nhiệm vụ trọng yếu như chi
cho giáo dục đào tạo, y tế, khoa học công nghệ và môi trường.
Tuy vậy, về vai trò của Chính phủ vẫn còn những hạn chế sau:
5

×