Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

một số biểu tượng trong văn hóa H. Mông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.21 KB, 8 trang )

Một số biểu tượng trong văn hoá dân gian Hmông
Biểu tượng là một đơn vị cơ bản của văn hoá, văn hoá là
một tập hợp hệ thống các biểu tượng. Do đó nghiên cứu văn
hoá cần coi trọng nghiên cứu biểu tượng. Giải mã được các
biểu tượng, tìm hiểu được các biểu tượng là tạo được chìa
khóa mở cánh cửa bản sắc văMột gia đình nào đó có đủ điều
kiện về kinh tế nhưng không có con, có ít hoặc sinh con một bề,
nhân dịp Tết, ông chủ đứng ra tổ chức lễ hội Gầu tào. Một gia đình
khác kinh tế tuy khá giả nhưng cứ chững lại hoặc lụi dần, con
cháu ốm yếu, vật nuôi thui chột, cũng nhân dịp Tết, chủ nhà tổ
chức lễ Gầu tào.
Như vậy, lễ hội Gầu tào không chỉ ở một gia chủ mà có thể nhiều
gia chủ, cũng không chỉ ở một bản mà nhiều bản, thậm chí, lễ thì
ở một gia đình, còn hội thì liên bản, liên xã, nhưng không ngoài
khu vực mà gia đình đã lựa chọn mỗi dịp Tết Nu tra (Tết Mông)
hằng năm.
Nhưng dù cầu phúc hay cầu mệnh, gia chủ cũng đều phải dựa vào
ông thầy cúng; thầy cúng (mo) là nhân vật thay thế người trần
(chủ nhà) giao tiếp với tổ tiên hoặc thổ công. Thông thường, chủ
nhà tổ chức lễ hội liền trong ba năm, mỗi năm tổ chức từ ba đến
năm ngày. Nếu muốn làm gộp lại một năm thì phải kéo dài ngày
hội ra mười, mười hai ngày.
Phần lễ, chủ nhà cúng tại bàn thờ tổ tiên (xỉ căn pù giở) vào chiều
ngày 30 Tết và kết thúc vào ngày mồng 3 hoặc 4 Tết. Mâm cúng
đơn giản: có ván gà, cơm, rượu, hương la, có giấy bản (tớ chu),
có bánh dày (pá tó), bánh chưng (pá khứ). Phần hội, từ các ngày
mồng ba, bốn hoặc mồng năm. Ngày mở đầu phải là ngày con
trâu, rồng hoặc chó, kiêng ngày hổ. Để tổ chức hội chu đáo, từ
ngày 25, 26 Tết (Tết Mông, tức 25-26 tháng 11 âm lịch), chủ nhà
chọn các chàng trai khỏe mạnh, chặt cây tre to cao làm cây nêu.
Cây nêu được trồng tại quả đồi thoai thoải hay bãi bằng mà chủ


nhà chọn làm trung tâm lễ hội, thân cây treo một bầu rượu, một
miếng vải đỏ để kính báo với thần linh: cây nêu báo hiệu cho cả
bản, cả xã biết vị chủ gia đình nọ sẽ tổ chức lễ hội và mời cả làng
bản cùng đến tham gia vui hội. Ngoài chủ nhà và thầy cúng còn có
một số người trong bộ phận giúp việc, đứng đầu là vị cáng xử
(trưởng ban), tiếp đến là các chí táo (ủy viên). Mỗi chí táo lo liệu
một công việc vui chơi. Cây nêu dựng xong, chủ nhà làm lễ cúng


ngay dưới chân cây mời pù giở, lồng chứ và các vị thần linh về dự
hội, phù trợ cho gia chủ được phúc hoặc thoát mệnh.
Từ mồng ba đến mồng năm (tháng 12 âm lịch) chọn ngày tốt, giờ
tốt, chủ nhà tiến hành khai hội. Dưới chân cây nêu, gia chủ chỉ nói
vài lời có tính chất tuyên bố, ngay sau đấy cuộc hát hội bắt đầu,
các trai tài gái đẹp đua nhau cất tiếng, nội dung lời hát lúc này chủ
yếu là những bài chúc tụng, ngợi ca, hoặc giao duyên tình cảm,
tuyệt đối không hát những bài buồn thương, những lời ta thán. Số
diễn viên này được cáng xử chuẩn bị trước, gia đình chủ hộ phải
trả công cho họ. Sau màn hát "khai mạc" ấy, hàng trăm người tỏa
khắp quả đồi, dưới đồng ruộng cạn, dọc đường đi... với các lễ
phục sắc mầu rực rỡ, vòng cổ, vòng tay lấp lánh, tiếng gọi, tiếng
nói râm ran, hàng chục loại nhạc cụ với đủ hình thức, kiểu cách
mang vác trên tay, trên vai, cài trên vành khăn, cài trên vạt áo,
trông rất phong phú, vui mắt.
Từ giờ phút này cho đến hết vài ba ngày sau tùy theo kế hoạch
của gia chủ, các trò vui chơi diễn ra thật sôi nổi dưới sự điều hành
của vị cáng xỉ và các chí táo tạo nên không khí ngày hội vui khỏe
hấp dẫn. Sau ba ngày hoặc năm ngày, chủ nhà làm lễ kết thúc,
ông thầy cúng thay mặt gia chủ tạ ơn tổ tiên, trời đất, thần linh, xin
quý nhân phù trợ. Thầy mo đốt giấy bản, cây nêu hạ xuống, rượu

trong bầu được gia chủ tưới khắp đồi. Mảnh vải đỏ được đưa về
nhà treo trên cột chính trong nhà hay cửa ra vào nơi trú ngụ của
xta mềnh (thần cửa). Nếu là cầu phúc, gia chủ chọn đôi trai gái
đông con, con khỏe, khiêng cây nêu về gác lên sàn nhà, nếu là
cầu mệnh, cây nêu gác phía sau nhà với hàm ý ngăn cản quỷ ác.
Như đã nói ở trên, sau phần khai hội, vị cáng xỉ điều hành các chí
táo thực hiện trò chơi thể thao và các nội dung sinh hoạt văn hóa.
Các sinh hoạt văn hóa chủ yếu của người Mông là hát giao duyên,
súng lùng (thổi khèn lá), gầu lầu chàng (kéo nhị), xú giàng (khèn
môi), sú kềnh (thổi kèn bè), chảng lày (sáo tiêu), sinh tiền (múa
gậy), sú kình (múa khèn).... Các trò chơi vui khỏe có: lảy pao (ném
quả pao), tầu tí (đánh cầu), dê tào (leo núi), lau kỉnh (đẩy gậy),
trảy mình (đua ngựa), tua nính (bắn nỏ), gầu tẩu tràng (nói ống
dày), tầu tù lu (đánh cù), trí dạy (chơi dấu), di păng (vặn gậy), ri sì
(vật cột), mùng lớ (đi săn), v.v.
Các loại hình sinh hoạt văn hóa và thể thao dân tộc của người
Mông thật phong phú, đặc sắc, nó thể hiện đúng chất Mông của


một vùng đất phía tây chưa bị pha tạp. Có điều do những điều
kiện khác nhau nên nhiều nét đẹp văn hóa ấy bị mai một, thậm chí
bị quên lãng mà không biết rằng, đấy chính là sức sống tinh thần
mãnh liệt của một dân tộc giữa vùng núi cao giá lạnh.
I. Biểu tượng cây lanh
1. Cây lanh (chaoz mangx) thuộc họ gai mèo, có tên gọi khác
là cây “áma”. Đây là loại cây lấy sợi làm vải mặc của người
Hmông. Biểu tượng tấm vải lanh đã được Bùi Xuân Tiệp giải mã,
đồng thời cũng được Lê Trung Vũ phân tích. Nhưng các tác giả
chủ yếu giải mã biểu tượng lanh trong lễ hội Gầu Tào và dân ca
Hmông. Trong chuyên đề này chúng tôi tìm hiểu biểu tượng cây

lanh phản ánh trong các loại hình văn hoá Hmông. Nhưng điều
quan trọng hơn là nhằm phân tích các chức năng của biểu tượng
cây lanh (và các sản phẩm của lanh) trong đời sống văn hoá
Hmông.
2. Nhu cầu quan trọng để duy trì sự sống của con người là
nhu cầu về Ăn và Mặc. Cây lanh nhằm đáp ứng nhu cầu mặc của
người Hmông. Và từ cuộc sống đời thường, cây lanh trở thành
cây thiêng trong tín ngưỡng Hmông. Sợi dây lanh trở thành vật
dẫn đường nối thế giới đang sống (thực tại) với thế giới của tổ
tiên, thần linh (siêu nhiên). Bất kỳ ngôi nhà của ông thầy cúng “Txir
nênhz” (sa man) nào cũng đều phải được trang trí bằng sợi lanh
vắt qua các cây tre. Nhà thầy cúng Hmông đơ (trắng) bắc 3 cây
tre. Nhà thầy cúng Hmông Si ở xã Suối Giàng Văn Chấn Yên Bái
bắc 4 cây tre nhỏ có cả lá, cả gốc. Ngọn tre có lá đặt bên trái bàn
thờ, gốc quay về bên phải. Bốn cây tre được buộc ở 4 vị trí khác
nhau: một cây bắc ngang phía trên bàn thờ thầy cúng (tha nếnh)
một cây bắc ngang phía trên cửa chính, hai cây bắc trên nóc nhà
(dưới xa lóc), các cây được nối với nhau bằng 3 sợi lanh. Các sợi
lanh này là những dây dẫn đường cho các hồn ma phụ tá thầy
cúng từ thế giới siêu nhiên về ngự ở bàn thờ. Đồng thời khi xuất
hồn đi tìm hồn ma, hồn của thầy cúng cũng đi theo các sợi lanh
sang thế giới bên kia.


Sợi sây lanh cũng là sợi dây dẫn đường giao linh hồn của vật
dâng cúng cho người chết. Trong lễ tang (ma tươi) người Hmông
khi mổ lợn, mổ trâu dâng cúng người chết, gia đình tang chủ phải
buộc sợi lanh vào cổ trâu, lợn, nối với cổ tay người chết.
Như vậy, vật hiến tế qua cây cầu là sợi dây lanh sẽ sang thế giới
bên kia, dâng cho người chết. Thầy sa man muốn nhìn thấy thế

giới bên kia, xuất hồn đi vào thế giới siêu nhiên phải có tấm vải
lanh đen phủ trên mặt. Tấm vải lanh cũng là phương tiện giúp thầy
sa man sang thế giới của ma (thế giới siêu nhiên), chức năng dẫn
đường nối hai thế giới thực tại và siêu nhiên được phản ánh trong
nhiều nghi lễ cầu cúng chữa bệnh, giải hạn “sàu su, thi su” cầu
mùa ... của người Hmông.
3. Lanh còn là vật bảo vệ người Hmông. Hàng năm, trước khi
vào mùa phát nương, làm rẫy, người Hmông ở huyện Kỳ Sơn tỉnh
Nghệ An tổ chức lễ cúng bảo vệ hồn những người trong gia đình.
Toàn bộ thành viên gia đình phải ở trong nhà khi làm lễ cúng.
Thầy cúng lấy sợi dây lanh bôi máu chó buộc xung quanh vách
nhà với ý niệm hồn của mọi người được bảo vệ, không gặp tai nạn
khi làm nương rẫy. Người Hmông ở xã San Sả Hồ Sa Pa tổ chức
lễ giải hạn “Tù sú” lễ “Tù sú” tổ chức theo từng dòng họ. Trong
nghi lễ của họ Sùng, người trưởng họ dùng một tấm vải lanh trắng
nhúng nước thiêng cúng gà, cầu mong thần linh nhập vào tấm vải
lanh và che chở cho các thành viên dòng họ. Kết thúc buổi lễ,
trưởng họ dùng kéo cắt vải lanh làm nhiều mảnh phát cho từng hộ
gia đình. Các gia đình chôn mảnh vải lanh ở trước cửa nhằm tạo
ra bức tường vô hình ngăn chặn ma ác vào nhà. Riêng trưởng họ
lại treo tấm vải lanh ở trước cửa chính trừ tà ma cho cả dòng họ.
Lanh không chỉ bảo vệ người trong thế giới hiện tại mà còn là thứ
vũ khí diệu kỳ giúp linh hồn người chết vượt muôn ngàn thử thách
tìm về với thế giới của tổ tiên. Trong “bài ca chỉ đường” (Tang ca –
Kruôz cê) linh hồn người chết nhờ có lanh họ mới lên đến thế giới
tổ tiên. Trên đường đi, linh hồn sẽ qua núi sâu róm, nhưng nhờ có
giống cây lanh, linh hồn đã vượt qua:
“Người đi gặp tổ tiên



Người sẽ gặp rất nhiều con sâu
Sâu to như chày giã gạo
Sâu bù xù lông như đầu dê
Người Hán có vải lụa làm giày cho người đi
Dẫm phải con sâu mà đi
Người Hmông không có vải lụa
Người Hmông lấy sợi lanh đan thành đôi giày
Người dẫm lên đầu sâu
Vượt núi sâu róm mà về với tổ tiên”
Trên đường đi, linh hồn còn phải vượt qua núi đá rồng, đá hổ. Và
cũng nhờ có túm sợi lanh, hồn người đã vượt qua:
“Mình sẽ đến nơi đá con rồng, đá con rồng há mồm rộng như hang động
Ma ông bà tổ tiên lấy xâu sợi lanh nhét luôn vào mồm đá con rồng
Mình cũng nhét sợi lanh vào miệng rồng
Khi thấy đá con rồng ngậm mồm rồi mình cười cùng ma ông bà đi.
Mình sẽ đến nơi đá con hổ, đá con hổ há miệng rộng như hang đá
Ma ông bà tổ tiên lấy xâu sợi lanh nhét luôn vào miệng đá con hổ
Mình cũng lấy xâu sợi lanh nhét luôn vào miệng đá con hổ.
Khi thấy đá con hổ đã ngậm miệng rồi mình mới cùng ma ông bà
mình đi”.
Như vậy lanh trở thành hành trang không thể thiếu của người
Hmông khi sang thế giới bên kia. Hành trình về với tổ tiên, đầy
gian nguy, nhiều thử thách, lắm kẻ thù rình rập, nhưng nhờ có
LANH, người Hmông vẫn vượt qua.
4. Lanh là tín hiệu văn hoá tộc người. Người Hmông luôn tự hào
về truyền thống sử dụng vải lanh. Trang phục lanh trở thành tiêu
chí phân biệt người Hmông với các dân tộc khác. Người con dâu


Hmông trước khi về nhà chồng được mẹ đẻ tặng bộ trang phục

thêu bằng vải lanh. Và khi về nhà chồng, con dâu có nghĩa vụ tặng
bố mẹ chồng trang phục vải lanh. Đây là bộ trang phục bố mẹ
chồng sẽ mặc sang thế giới bên kia. Theo quan niệm người
Hmông, người chết không mặc trang phục lanh, tổ tiên sẽ không
nhận. Vì vậy, ngày nay, người Hmông khi còn sống có mặc vải
công nghiệp bằng sợi bông, sợi tổng hợp nhưng khi khuất núi về
với tổ tiên phải mặc trang phục lanh.
“Tổ tiên có hỏi mình ở trên trần gian về được cái gì đem theo.
Thì mình thưa:
Con ở trần gian về, cái gì chẳng được
Được một chiếc khăn lanh, một chiếc áo lanh
Được một chiếc quần lanh, một thắt lưng lanh
Một đôi giày lanh, một đôi xà cạp lanh”.
Trong bài tang ca Hmông lềnh Sa Pa người Hmông thường nhấn
mạnh:
“Nữ người Hán biết kéo sợi, kéo ra sợi nhung sợi lụa
Nữ người Hán biết dệt thành vải lụa, vải nhung.
... Nữ người Hmông chỉ kéo ra được sợi lanh, sợi đay
Nữ người Hmông dệt thành vải lanh, vải đay”.
Hoặc:

“Nữ người Sã lấy chồng, nữ mặc áo nhung

Nữ người Hmông lấy chồng, nữ mặc váy lanh”
Trang phục lanh đối với người Hmông là trang phục đẹp nhất. Vải
lanh của người Hmông sánh ngang với gấm vóc, lụa điều của
người Hán:
“Nàng lớn lên ra ngoài
Mặc ba bộ áo lanh sánh cùng ba bộ lụa Hán”.
5. Biểu tượng cây lanh xuất hiện trong thơ ca dân gian với tần

số cao nhất trong số các biểu tượng về cây lanh. Trong các bài
thơ ca giao duyên, thơ ca than thân (tiếng hát làm dâu, tiếng hát mồ côi)


do Doãn Thanh sưu tầm có hơn 30 khổ thơ đề cập đến lanh (cây, sợi,
guồng).
Người phụ nữ Hmông luôn gắn liền với nghề trồng lanh dệt vải, bó
sợi lanh như là vật bất ly thân của người phụ nữ. Trên đường đi
làm, trên đường đi gặp người yêu, hoặc nghe người yêu hát...
người phụ nữ luôn xe lanh, nối sợi lanh. Vì vậy, biểu tượng nổi bật
của lanh là biểu tượng về người phụ nữ Hmông: cây lanh là hình
ảnh của người phụ nữ, cuộn lanh phản ánh tính cách người phụ
nữ, hạt lanh là số phận người phụ nữ... Người phụ nữ lấy chồng
tốt thì: ...
“Em như cây lanh xanh
Mọc ở nơi đất phẳng”
- Hoặc lấy phải người chồng không xứng đôi:
“Em lấy người chồng không xứng đôi
Như hạt lanh nương tra vào bãi ruộng”
Biểu tượng lanh xuất hiện trong thơ ca dân gian Hmông (nhất là
thơ ca dao duyên) với nhiều ý nghĩa, cung bậc khác nhau của tình
yêu, tình vợ chồng như sự thủy chung, niềm hạnh phúc, sự chia
lìa, nỗi bất hạnh, giận hờn, trách móc, an ủi..v.v.. Niềm hạnh phúc
của vợ chồng là cùng trồng lanh dệt vải, thêu hoa văn:
- “Mình ơi! Ví dù ta lấy được mình
Mình làm vụ lanh đôi ta mặc lành”
- Nỗi thất vọng, than thân như “guồng xa xe chỉ lanh”:
“Guồng xa xe chỉ lanh
Xe được sợi chỉ xoắn
Dù mình biết biến, ta biết hóa

Thì cũng như mặt trời ghẹo mặt trăng trên đỉnh non cao”
- Niềm khao khát được hạnh phúc, chống trả sự chia lìa:
“Giá thân em là sợi lanh, sợi tơ
Anh cuốn vào người để sợi cùng anh ở


Giá mình em là sợi lanh, sợi chỉ
Anh cuốn vào người để sợi cùng anh đi”
Thậm chí khi tình yêu bị ngáng trở, nam nữ Hmông sẽ vùng lên
như cây lanh nhỏ bé nhưng lật đổ được cây thông, bảo vệ tình
yêu:
“Cây lanh đổ hất vào cây thông
Cây thông đổ nhòa trên mặt đất
Đôi ta kết bạn tình hạnh phúc đường này
Ta chỉ có đường nói mà không có đường lìa”
Như vậy, lanh là biểu tượng đặc sắc của văn hoá Hmông. Từ đời
sống thường ngày, lanh đã vào thơ ca trở thành biểu tượng của
người phụ nữ, của tình yêu, niềm khát khao hạnh phúc. Biểu
tượng cây lanh càng sâu sắc hơn khi cây lanh, vải lanh, sợi lanh
được đặt ở vị trí trang trọng linh thiêng. Lanh thành cây thiêng, vật
dẫn đường sang thế giới siêu nhiên, lanh là vũ khí thiêng trừ tà…



×