Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Kho bạc nhà nước hải dương với văn minh, văn hóa nghề trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.75 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
---------------------

TRẦN PHƢƠNG ANH

KHO BẠC NHÀ NƢỚC HẢI DƢƠNG VỚI “VĂN MINH,
VĂN HÓA NGHỀ” TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

Hà Nội – Năm 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
_______________________________

TRẦN PHƢƠNG ANH

KHO BẠC NHÀ NƢỚC HẢI DƢƠNG VỚI “VĂN MINH,
VĂN HÓA NGHỀ” TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60 34 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ MINH CƢƠNG


Hà Nội – Năm 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công triǹ h nghiên cứu của riêng tô

i. Các số

liê ̣u, kế t luâ ̣n đươ ̣c đưa ra trong luâ ̣n văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã trình bày trong bản luận văn

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

TÁC GIẢ

Trần Phƣơng Anh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ của PGS.TS. Đỗ Minh Cương, người đã luôn tận tâm, trách nhiệm,
nhiệt tình hướng dẫn tôi trong quá trình thực hiện nghiên cứu của mình.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Quản Trị
Kinh Doanh, Đại Học Kinh Tế - ĐH Quốc gia Hà Nội đã tận tình chỉ dạy và
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình,
những người bạn và đồng nghiệp đã tạo điều kiện, hỗ trợ và động viên tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2015

TÁC GIẢ

Trần Phƣơng Anh


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ............................................. i
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................ ii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ẢNH ...................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................1
2. Câu hỏi nghiên cứu ...........................................................................................3
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ............................................3
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................5
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................5
6. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................6
7. Những đóng góp của luận văn..........................................................................7
8. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................7
Chƣơng 1 ....................................................................................................................8
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .......................................................................8

VỀ “VĂN MINH, VĂN HÓA NGHỀ KHO BẠC” ................................................8
1.1 – Khái niệm về “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc” ...................................8
1.2 – Các yếu tố cấu thành “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc”....................13
1.2.1 – Hệ thống các giá trị VHCS ...................................................................15
1.2.2 – Niềm tin và truyền thống ......................................................................20
1.3 - Vai trò và chức năng của văn hoá đối với HĐCS ....................................22
1.3.1. VHCS là thể chế, tổ chức tạo ra công ăn việc làm và nhu cầu phát triển
nghề nghiệp cho người lao động .......................................................................22
1.3.2. VHCS tạo môi trường, điều kiện làm việc tốt cho CBCC ......................24
1.3.3. VHCS khuyến khích, tạo động lực cho CBCC hoạt động và phát triển .25
1.3.4. VHCS là mục tiêu phát triển con người và tổ chức công sở ...................26
1.4 - Vai trò của ngƣời lãnh đạo tổ chức đối với sự hình thành và phát huy
VHCS ....................................................................................................................28
1.5 – Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc” .......................................30
1.5.1 – Phạm vi, yêu cầu của Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc” ..30
1.6 – Một số yếu tố ảnh hƣởng đến việc thực hiện “Văn minh, văn hóa nghề
Kho bạc”...............................................................................................................34
Chƣơng 2 ..................................................................................................................38
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN TIÊU THỨC “VĂN MINH VĂN HÓA NGHỀ
KHO BẠC” TẠI KBNN HẢI DƢƠNG ................................................................38
2.1 - Giới thiệu về KBNN Hải Dƣơng ................................................................38
2.1.1 - Quá trình thành lập ................................................................................38
2.1.2 - Cơ cấu, bộ máy tổ chức và chức năng, nhiệm vụ ......................................39
2.2 - Thực trạng quá trình thực hiện Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề”
tại KBNN Hải Dƣơng ..........................................................................................42
2.3 – Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................................57
Chƣơng 3 ..................................................................................................................64
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN TIÊU THỨC ....................64
“VĂN MINH, VĂN HÓA NGHỀ” TẠI KBNN HẢI DƢƠNG ...........................64
3.1 – Một số đề xuất về hoàn thiện việc xây dựng Tiêu thức “Văn minh, văn

hóa nghề Kho bạc” ..............................................................................................64
3.2 – Đề xuất về sự phát huy “Văn minh, văn hóa nghề” tại KBNN Hải
Dƣơng ...................................................................................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

NGUYÊN NGHĨA

CBCC

Cán bộ, công chức

KBNN

Kho bạc Nhà nước

HĐCS

Hoạt động công sở

NSNN

Ngân sách Nhà nước

VHCS


Văn hóa công sở

VHTC

Văn hóa tổ chức

i


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng, biểu

Nội dung

Trang

2.1

Một số chỉ tiêu hoạt động chủ yếu của

50

KBNN Hải Dương

ii


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ẢNH
Hình/Ảnh


Nội dung

Trang

1.1

Sơ đồ các cấp độ văn hóa của tổ chức

14

1.2

Biểu trưng của Hệ thống KBNN

22

iii


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [5] - là quan điểm xuyên suốt
trong nhiều văn kiện của Đảng. Văn hoá thuộc về kiến trúc thượng tầng của
xã hội, được đặt ngang hàng với chính trị - kinh tế - xã hội và tạo thành bốn
vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội, có quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Vì vậy, việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc luôn là nguyên tắc, là yêu cầu trong xây dựng các văn bản
pháp luật của Nhà nước.

Chính trị, xã hội phải được giải phóng thì văn hoá mới được giải
phóng. Chính trị giải phóng mở đường cho văn hoá phát triển, xây dựng kinh
tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá. Văn hoá không
thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị; văn hoá phục vụ chính trị,
thúc đẩy và xây dựng kinh tế.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã khẳng định:
“Nâng cao tính văn hoá trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh
hoạt của nhân dân”. Điều đó thể hiện tính văn hoá phải được thể hiện trong
mọi hoạt động của đời sống xã hội, trong đó có hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước.
Để triển khai giai đoạn 2 của chương trình tổng thể cải cách hành chính
nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch
cải cách hành chính giai đoạn 2006 - 2010, trong đó xác định việc xây dựng
Quy chế Văn hoá công sở (VHCS) là một trong những nội dung của đổi mới
phương thức điều hành và hiện đại hoá công sở, trong đó đặc biệt chú trọng
mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 là 100% cán bộ, công chức (CBCC) hành
chính phải được trang bị kiến thức về VHCS.

1


Thực chất của việc xây dựng VHCS là công khai, minh bạch về thủ tục
trong giải quyết các công việc cho các tổ chức, công dân, cũng như về các
quy định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm CBCC trong hoạt động công vụ;
xây dựng lề lối, mối quan hệ làm việc thật sự khoa học, hiệu quả, thiết thực
nhằm bảo đảm kỷ cương, kỷ luật trong cơ quan nhà nước; thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, sự tương trợ, đồng
thuận và trách nhiệm của mọi CBCC; xây dựng VHCS nhằm đáp ứng yêu cầu
chung của CBCC, đó là được làm việc, được đánh giá, đãi ngộ và phát triển
trong môi trường dân chủ, công bằng theo tinh thần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

nói: “Không sợ thiếu mà chỉ sợ không công bằng”. Mặt khác, xây dựng
VHCS còn là một đòi hỏi khách quan đối với Nhà nước trong điều kiện nước
ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, trong phạm vi rộng, văn hoá phải phục vụ chính trị - xã hội,
thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế, tác động tích cực trở lại đối với kinh
tế - chính trị - xã hội như một động lực quan trọng. Còn trong phạm vi hẹp,
đối với hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN) cũng vậy, văn hoá phải phục vụ
nhiệm vụ chính trị, đáp ứng được nhu cầu cao nhất là hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao, giữ vững truyền thống đoàn kết, không ngừng hoàn thiện
và phát triển, thực hiện tốt mục tiêu lâu dài của toàn hệ thống là: “Duy trì ổn
định, hoàn thiện chức năng, hiện đại hoá công nghệ, phát triển nguồn nhân
lực”.
KBNN là một đơn vị hành chính nhà nước, đòi hỏi cũng phải xây dựng
VHCS (VHCS) như những đơn vị hành chính khác theo yêu cầu chung của
Đảng, Nhà nước và xã hội. KBNN đã ban hành 10 Điều kỷ luật quy định thực
hiện thống nhất trong toàn hệ thống, trong đó có Điều 8 quy định mọi CBCC
KBNN phải thực hiện “Văn minh, văn hoá nghề Kho bạc”. Tuy nhiên, chưa
có văn bản nào quy định Văn minh, văn hóa nghề kho bạc là như thế nào nên

2


mỗi nơi, mỗi CBCC hiểu khác nhau, việc chấp hành và kết quả cũng khác
nhau. Để khắc phục sự thiếu đồng bộ và thống nhất đó, KBNN đã nghiên cứu
và ban hành Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề kho bạc” theo Quyết định số
831/QĐ-KBNN ngày 10/10/2006 của Tổng Giám đốc KBNN để phổ biến,
quán triệt thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống.
Nhằm đánh giá những mặt tích cực và những mặt hạn chế trong quá
trình thực hiện Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề kho bạc” tại KBNN Hải
Dương, tìm hiểu nguyên nhân của những mặt còn hạn chế, yếu kém và đề

xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển tính văn minh, văn hóa
trong công sở tại KBNN Hải Dương trong thời gian tới, tôi xin lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Kho bạc Nhà nước Hải Dương với „Văn minh, văn hoá
nghề‟ trong giai đoạn hiện nay”.
2. Câu hỏi nghiên cứu
1. “Văn minh, văn hóa nghề kho bạc” là gì? Vai trò, tác dụng của nó
trong công tác quản trị tổ chức KBNN hiện nay.
2. Thực tế thực hiện Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề” ở KBNN Hải
Dương diễn ra như thế nào?
3. Cần có quan điểm, giải pháp nào để hoàn thiện và hiện thực hóa quá
trình này?
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, “Văn hóa tổ chức”
ngày càng được coi trọng, nó được coi là kim chỉ nam hành động giúp định
hướng đúng đắn và định hình phong cách, bản sắc riêng của tổ chức, giúp cho
tổ chức có thể nhanh chóng hội nhập và hội nhập thuận lợi với xu hướng
chung của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Mặc dù vậy, VHCS - một hình thái của văn hóa tổ chức – lại chưa được
quan tâm nghiên cứu nhiều ở nước ta. Học viện Hành chính Quốc gia có phát

3


hành giáo trình “Kỹ thuật tổ chức công sở” (2002) dùng để giảng dạy trong
nhà trường với tư cách là một môn học. Còn lại chủ yếu là các bài viết, đề tài,
chuyên đề rải rác trên các tạp chí chuyên ngành, như “Văn hóa tổ chức và một
số giải pháp phát triển văn hóa công sở” của tác giả Trần Thị Thanh Thủy trên
tạp chí Tổ chức Nhà nước (2006), Đề tài khoa học “Văn hóa công sở” của
Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ (tháng 12/2006)…
VHCS, nói một cách khái quát là các hành vi và quy ước mà con người

dựa vào đó để điều khiển các mối quan hệ của mình với người khác, bao gồm
cả những quy định chính thức, được ghi nhận thành văn bản và những quy
định bất thành văn của một cơ quan, đơn vị hành chính. Do vậy, đây là một
vấn đề mà các nhà khoa học, các nhà văn hóa và các nhà quản lý đặc biệt
quan tâm. Đã có một số công trình khoa học được đăng tải trên các giáo trình,
sách chuyên khảo, luận văn, tạp chí… dưới các góc độ khác nhau có liên quan
đến vấn đề “VHCS”, cụ thể:
- Võ Nguyên Giáp, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hoá Việt
Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1998;
- Trần Quốc Hải, “Đổi mới tư duy trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức Nhà nước”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước tháng 9/ 2000;
- Nguyễn Trọng Điều, Đinh Văn Mậu, “Giao tiếp ứng xử hành chính”,
NXB Công an nhân dân, năm 2002;
- Trần Quốc Hải, “Cải cách các chương trình đào tạo công vụ hiện
nay”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, năm 2004;
- Du Long, “Văn hóa công chức”, Báo tuổi trẻ Chủ Nhật, năm 2004;
- Trịnh Thanh Hà, “Những vấn đề cần được giải quyết trong việc xây
dựng văn hoá ứng xử công vụ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 9 năm 2007;
- Trịnh Thanh Hà, “Văn hoá ứng xử công vụ - Khái quát từ thực tiễn
lịch sử”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 9 năm 2007;

4


Tuy nhiên, cho tới thời điểm này, chưa có công trình nào nghiên cứu
trực tiếp đến vấn đề VHCS trong các cơ quan hành chính ở nước ta hiện nay,
đặc biệt về quá trình hiện thực hóa các tiêu thức văn minh, văn hóa nghề của
hệ thống KBNN, cụ thể là tại một đơn vị KBNN cấp tỉnh thì chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập tới. Chính vì vậy, luận văn đã tham khảo và kế
thừa có chọn lọc một số lý luận chung từ các công trình nghiên cứu về VHCS

trước đây có nội dung gần với đề tài nhưng đảm bảo không có sự trùng lắp
với các công trình nghiên cứu khác.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao tính văn minh, văn hóa trong công sở tại KBNN Hải
Dương trên cơ sở lý luận về VHCS và Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề
kho bạc”.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích đã đề ra ở trên, luận văn cần thực hiện:
+ Nghiên cứu, tổng hợp cơ sở lý luận của luận văn để tạo ra nền tảng,
phương pháp nghiên cứu và đánh giá thực trạng VHCS tại KBNN Hải
Dương;
+ Thực hiện khảo sát và đánh giá thực trạng đối tượng nghiên cứu;
+ Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện Tiêu thức “Văn minh,
văn hóa nghề kho bạc” tại KBNN Hải Dương.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tình hình thực hiện Tiêu thức “Văn minh, văn hóa
nghề” tại KBNN Hải Dương (thực chất là xem xét thực trạng VHCS - mà
nghĩa hẹp là các tiêu thức, tiêu chí cụ thể được ban hành - tại đơn vị)
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại trụ sở KBNN Hải Dương

5


+ Phạm vi thời gian: từ khi Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề kho
bạc” được ban hành (2006) cho đến nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đã được nghiên cứu ở mức độ tiểu luận năm 2010, do yêu cầu
nâng cấp, hoàn thiện ở mức độ luận văn cho nên đã được bổ sung số liệu, dữ

liệu nhưng đảm bảo không có sự trùng lắp đề tài.
Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực
hiện luận văn:
- Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật và sử dụng phương
pháp của nhiều môn khoa học khác nhau như văn hóa học, quản trị học…
- Phương pháp phân tích định tính, tổng hợp, kết hợp với nghiên cứu
mô tả;
- Phương pháp quan sát: quan sát trực tiếp những biểu hiện văn hóa
diễn ra tại KBNN Hải Dương;
- Phương pháp chuyên gia: hỏi ý kiến và thảo luận với Ban Lãnh đạo,
Chủ tịch và Ban chấp hành Công đoàn, Ban chấp hành Đoàn Thanh niên
KBNN Hải Dương về thực trạng và phương hướng phát triển “Văn minh, văn
hóa nghề kho bạc” tại đơn vị trong thời gian tới;
- Phương pháp thu thập dữ liệu:
Nguồn dữ liệu sơ cấp: là nguồn dữ liệu thu thập được thông qua điều
tra, khảo sát trực tiếp bằng bảng hỏi đối với 120 CBCC đang công tác tại
KBNN Hải Dương và 120 khách hàng đến giao dịch tại KBNN Hải Dương.
Nguồn dữ liệu thứ cấp: được trích từ Báo cáo tích lũy các chỉ tiêu hoạt
động từ năm 1990-2014 của KBNN Hải Dương và một số dữ liệu khai thác từ các
phòng chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị (phòng Tổ chức cán bộ, phòng Tổng
hợp…)

6


- Phương pháp điều tra, khảo sát trực tiếp: Luận văn đã thực hiện khảo
sát định lượng bằng bảng hỏi, đối tượng khảo sát là 120 CBCC công tác tại
KBNN Hải Dương (phát ra 120 phiếu khảo sát, thu về 116 phiếu, số phiếu
hợp lệ, trả lời đầy đủ thông tin là 109 phiếu) và 120 khách hàng đến giao dịch
tại KBNN Hải Dương (phát ra 120 phiếu khảo sát, thu về 114 phiếu, số phiếu

hợp lệ, trả lời đầy đủ thông tin là 112 phiếu). Kết quả khảo sát đã được xử lý
bằng chương trình Excel, trên cơ sở đó luận văn đã phân tích, tổng hợp các ý
kiến nhận được trong quá trình giải quyết những vấn đề đặt ra của luận văn.
7. Những đóng góp của luận văn
Đề tài luận văn có ý nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu thực trạng
VHCS của Kho bạc Nhà nước Hải Dương, qua đó có thể nhận diện được văn
hóa riêng của đơn vị. Đây có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho Ban Lãnh
đạo Kho bạc Nhà nước Hải Dương trong quá trình kế thừa, hoàn thiện và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống của hệ thống Kho bạc, nâng cao tính
văn hóa, văn minh trong hoạt động của đơn vị.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn bao gồm 4 phần, cụ thể như sau:
1. Phần mở đầu
2. Nội dung: bao gồm

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về “Văn minh, văn hóa nghề kho
bạc”
Chương 2: Thực trạng thực hiện Tiêu thức “Văn minh, văn hóa nghề”
tại KBNN Hải Dương
Chương 3: Đề xuất giải pháp đẩy mạnh thực hiện tiêu thức “Văn
minh, văn hóa nghề” tại KBNN Hải Dương
3. Kết luận
4. Danh mục tài liệu tham khảo

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ “VĂN MINH, VĂN HÓA NGHỀ KHO BẠC”

1.1 – Khái niệm về “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc”
Kho bạc Nhà nước là một đơn vị hành chính nhà nước cho nên văn hóa
trong KBNN cũng là VHCS, mang đầy đủ những yếu tố cơ bản của VHCS
hành chính nhà nước. Theo yêu cầu chung của Đảng, Nhà nước và xã hội,
KBNN - cũng giống như các đơn vị hành chính nhà nước khác, cần phải xây
dựng VHCS.
Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu: Công sở là gì? VHCS là gì?
Công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Nhà nước, có
tư cách pháp nhân, được pháp luật Nhà nước điều chỉnh để tiến hành quản lý
các công việc có tính chuyên ngành và phục vụ lợi ích công [14]. Công sở là
nơi mà các công chức, viên chức làm việc, thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với Nhà nước và nhân dân, là nơi để mọi người cùng lao động, suy nghĩ để
hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao. Nói đến công sở là nói đến văn
minh công sở, nếp sống, ý thức và bản lĩnh sống của mỗi người trong công sở
ấy. Do đó, công sở luôn có những quy chế, quy định riêng để mọi người cùng
tuân thủ, thực hiện, tạo nên sự thống nhất trong công việc, trong ý chí và hành
động. Bên cạnh đó, yêu cầu được đặt ra đối với mỗi công sở rất khắt khe, một
công sở đạt tiêu chuẩn phải là nơi có môi trường tốt về ngoại cảnh, nội thất và
các phương tiện làm việc. Đặc biệt, đó phải là nơi mà môi trường văn hóa
được đề cao, trong đó, mỗi thành viên sống và làm việc trên tinh thần tự giác
chấp hành quy định của cơ quan, sống có văn hóa, có kỷ cương và tôn trọng
pháp luật, tôn trọng lẫn nhau để sao cho mỗi cá nhân phát huy hết được năng

8


lực sáng tạo, tính độc lập, tự chủ trong công việc, để hoàn thành nhiệm vụ
được giao với chất lượng cao nhất.
Công sở được phân biệt với các tổ chức xã hội khác xét trên nội dung
công việc và hình thức tổ chức.

Xét về nội dung công việc:
- Hoạt động hướng ra bên ngoài của công sở là một loại hoạt động
nhằm thoả mãn các lợi ích chung của nhân dân, được Nhà nước bảo vệ và có
cơ chế kiểm tra của Nhà nước
- Hoạt động hướng nội bộ là nhằm đảm bảo nhu cầu làm việc của cán
bộ công chức, người lao động, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cán bộ công
chức, tạo mọi điều kiện cho họ hoàn thành trách nhiệm của mình.
Xét về hình thức tổ chức:
- Công sở là một thiết chế tổ chức, là tập hợp có tổ chức, được Nhà
nước bảo đảm về nguồn lực (vật chất và con người) để thực hiện nhiệm vụ và
đạt được mục tiêu của tổ chức. Nhà nước quy định hình thức tổ chức của công
sở, và hoạt động của công sở bị lệ thuộc vào phương thức điều hành của bộ
máy nhà nước. Công sở là trụ sở làm việc của tổ chức, cơ quan nhà nước, do
Nhà nước lập ra và công sở được phép dùng quyền lực công để giải quyết
công vụ.
- Công sở là một thiết chế xã hội - văn hoá chỉ có ở xã hội loài người.
Công sở trong xã hội loài người tồn tại như một hiện tượng văn hoá đồng thời
là một chủ thể văn hoá gắn liền với các yếu tố tổ chức quyền lực và tâm lý,
tình cảm của con người. Nhưng như vậy không thể đồng nhất công sở với tư
cách là chủ thể văn hoá với VHCS - một thực thể văn hoá của xã hội.
Quan niệm VHCS ở mỗi thời đại lịch sử, mỗi chế độ chính trị, mỗi
quốc gia khác nhau thì đều có quan niệm khác nhau. Trên thế giới hiện nay,
người ta nhắc nhiều đến văn hoá tổ chức. Văn hoá tổ chức được thể hiện dưới

9


các hệ thống giá trị, niềm tin, sự mong đợi của các thành viên trong tổ chức,
trong đó mọi hoạt động tuân theo những chuẩn mực mang tính truyền thống
và những thói quen có khả năng mang bản sắc riêng mà mọi thành viên trong

tổ chức tuân theo một cách tự nguyện. Văn hóa tổ chức giúp chúng ta nhìn
thấy được sự khác nhau giữa các tổ chức khác nhau.
Xét trên ý nghĩa công sở là một tập hợp có tổ chức dựa trên quan hệ thứ
bậc: cấp trên - cấp dưới, thành viên - thành viên, thành viên - nhân dân, (đây
chính là mối quan hệ ràng buộc của 3 nhóm yếu tố: quyền lực - phục tùng;
nhu cầu - phục vụ; hiệu lực - hiệu quả), có thể nói VHCS xuất phát từ chính
vai trò của công sở trong đời sống xã hội và trong hoạt động của bản thân bộ
máy hành chính. Như vậy, có thể hiểu VHCS là một dạng đặc thù trong hoạt
động công sở (HĐCS) mà các thành viên trong công sở cùng tiếp nhận để ứng
xử với nhau trong nội bộ công sở, trong đời sống gia đình ngoài công sở với
tư cách là những người bạn, người đồng nghiệp, và phục vụ cộng đồng với sự
tác động của hệ thống quan hệ thứ bậc mang tính quyền lực và tính xã hội.
Các thành viên trong công sở gắn bó với nhau bằng sự chi phối của cơ cấu tổ
chức, công việc, lợi ích, tình cảm mang tính nhân bản sâu xa (phục tùng, tôn
trọng, tự nguyện làm việc, trách nhiệm, vô tư không vụ lợi cộng đồng…).
VHCS như một môi trường văn hoá đặc thù với những giá trị chuẩn mực văn
hoá chi phối mọi hoạt động, các quan hệ trong nội bộ công sở cũng như đối
với công dân với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước hay một cơ quan sự
nghiệp, dịch vụ công. Thực chất, VHCS là biểu hiện của văn hóa tổ chức tại
nơi làm việc và ngoài nơi làm việc, tình cảm, sự gắn bó giữa những người
đồng nghiệp được gia tăng lên nhiều sau những chuyến cùng nhau đi tham
quan du lịch, thăm hỏi, chúc mừng, động viên nhau mỗi khi có chuyện vui,
chuyện buồn, khi đau ốm, lúc hoạn nạn,…

10


Xét trên ý nghĩa công sở là một trụ sở công, nơi có đầy đủ mọi điều
kiện, phương tiện để thực thi công vụ, thì các sản phẩm vật chất như công
trình kiến trúc, thiết kế nhà cửa, phòng làm việc, bố trí trang trí nội thất, ánh

sáng, màu sắc phù hợp, từ hình thức của các cách lễ tân giao tiếp với các loại
khách khác nhau bằng các cuộc chiêu đãi khác nhau… hay cách trang phục,
ăn mặc của CBCC, tất cả đều thể hiện màu sắc văn hoá đặc thù của mỗi quốc
gia, mỗi địa phương và mỗi cơ quan, công sở.
Khái niệm VHCS thường bị đánh đồng với khái niệm học vấn và khái
niệm văn minh trong công sở. Tuy nhiên, VHCS không thể đồng nhất với
trình độ học vấn của cán bộ công chức. Việc nâng cao trình độ học vấn cho
CBCC chính là điều kiện để mở mang trí tuệ và tâm hồn con người, vươn lên
trình độ văn hoá cao hơn. Nhưng một thực trạng đáng buồn hiện nay là một số
CBCC có trình độ học vấn cao nhưng trình độ văn hoá lại quá thấp, biểu hiện
như: không giữ được giá trị nhân cách của con người, cả về giá trị tinh thần
và giá trị vật chất, có lối sống tham ô, lãng phí, đục nước béo cò; trong quan
hệ nhân sự còn thiếu cái chân - thiện - mỹ; trong quan hệ công vụ đã để mất
niềm tin của đồng nghiệp, cấp trên, cấp dưới và nhân dân; trong sự phát triển
đã mất đi giá trị truyền thống dân tộc là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “lá
lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam.
Mặt khác, cũng không thể đồng nhất văn minh công sở với VHCS. Ở
các nước phát triển trên thế giới hiện nay, người ta hay nói đến văn minh
trong công sở, đó là sự thể hiện của trình độ phát triển của các cơ quan nhà
nước ứng với sự phát triển của từng nhà nước đạt tới một thời kỳ lịch sử nhất
định. Về mặt nghĩa gốc của từ “văn minh” trong tiếng Hán có nghĩa là làm
cho vẻ đẹp được hiện ra và chiếu sáng (văn – vẻ đẹp, minh – sáng) [2]. Khái
niệm “văn minh” hiện nay được dùng với nghĩa chính là chỉ trình độ phát
triển của con người và xã hội trên các mặt cơ bản của nó như khoa học, kỹ

11


thuật và tổ chức, quản lý,... hay ngắn gọn hơn, “văn minh” đo lường trình độ
phát triển của phương thức sản xuất và có tính quốc tế. “Văn minh” khác “văn

hóa”, văn minh cho biết trình độ phát triển của văn hóa, nhưng văn hóa lại là
nhân tố, là khía cạnh của sự phát triển xã hội, nó có tính quy định đối với các
nền văn minh [18]. Văn hóa được kết tinh qua bề dày của quá khứ, nó tiêu
biểu cho giá trị truyền thống, còn văn minh lại biểu thị cho hiện tại và tương
lai của các dân tộc, các quốc gia.
Nói tới VHCS là nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của
cán bộ nhân viên trong công sở nhằm hoàn thiện chế độ công vụ, công chức.
Mỗi công sở là một thế giới thu nhỏ với các cơ cấu, chuẩn mực quy tắc hoạt
động, giá trị, điểm mạnh và điểm yếu riêng. Mỗi cơ quan, công sở có một nền
văn hoá tồn tại, có thể tồn tại một cách vô ý thức. Khi đặt chân vào bất kỳ cơ
quan, công sở nào, chúng ta thường nhận thấy một sắc thái đặc trưng riêng
của nó qua một loạt các biểu hiện hành vi, ngôn ngữ, cách trang trí và bố trí
nơi làm việc, cung cách làm việc và sự ứng xử giữa người với người trong
hoạt động công vụ. Chính vì vậy, mọi công sở có thể biểu hiện ra bên ngoài
một hình ảnh tốt đẹp, gây ấn tượng hay một hình ảnh xấu nào đó, có thể chỉ
do cách đi đứng, nói năng của một vài công chức điển hình, hoặc do bố trí nơi
tiếp khách chưa hợp lý,… Hình ảnh tốt hay xấu của công sở đều có thể nhìn
nhận thấy qua nhân viên, đặc biệt là những CBCC đang giữ vị trí then chốt
trong công sở, họ là những người phản ánh chất lượng, hiệu quả hoạt động
của công sở.
Như vậy, bản chất của VHCS chứa đựng những giá trị, niềm tin, truyền
thống và những thói quen khả năng (mang bản sắc riêng). Những vấn đề này
quy định hành vi của mỗi thành viên trong công sở, nó ngày càng phong phú
và được thay đổi theo từng bối cảnh cụ thể và nó mang lại cho mỗi công sở

12


một bản sắc riêng [14]. Muốn cho VHCS được sâu rễ, bền gốc và phát triển
bền vững thì cần phải có kế hoạch xây dựng và phát huy văn hóa tổ chức.

KBNN là một đơn vị hành chính nhà nước cho nên văn hóa trong
KBNN cũng là VHCS, mang đầy đủ những yếu tố cơ bản của VHCS hành
chính nhà nước. Để cụ thể hóa VHCS và triển khai thực hiện thống nhất trong
toàn hệ thống, KBNN đã nghiên cứu và ban hành Tiêu thức “Văn minh, văn
hóa nghề Kho bạc”, trong đó nhấn mạnh yếu tố “văn minh” – chỉ sự phát triển
hòa nhập với trình độ của thế giới (vì nước ta là một đất nước chậm phát triển,
còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ văn minh còn thua kém rất nhiều so với các
nước phát triển trên thế giới), còn “văn hóa” là muốn nói đến sự giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc – yếu tố nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra,
với mục tiêu là kết hợp hòa quyện truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc
với sự phát triển về trình độ khoa học, kỹ thuật và tổ chức, quản lý, ... Đây là
hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình ổn định và phát triển của
toàn hệ thống KBNN hướng đến phát triển một hệ thống công sở hiện đại, văn
minh nhưng vẫn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
1.2 – Các yếu tố cấu thành “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc”
“Văn minh, văn hóa nghề” là một hướng đi, một cách thức xây dựng
văn hóa ngành nghề, văn hóa tổ chức. “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc” là
văn hóa tổ chức của Hệ thống Kho bạc nhà nước, cũng bao gồm đầy đủ các
yếu tố cấu thành của văn hóa tổ chức. Chính vì vậy, để phân tích các yếu tố
cấu thành nên “Văn minh, văn hóa nghề Kho bạc”, cần phải hiểu rõ các yếu tố
cấu thành nên VHCS, văn hóa tổ chức.
Trong các công trình nghiên cứu về văn hóa tổ chức, có rất nhiều cách
để phân loại các yếu tố cấu thành văn hóa tổ chức. Song trong đó, cách phân

13


chia của Edgar H. Schein nhận được nhiều sự tán đồng từ phía các nhà nghiên

cứu. Edgar H. Schein tin rằng có ba cấp độ trong một nền văn hóa tổ chức:
Cấp độ 1

Những biểu hiện hữu hình

Cấp độ 2

Hệ thống giá trị đƣợc tuyên bố

Cấp độ 3

Những quan niệm chung, giá
trị nền tảng của tổ chức

Hình 1.1 – Sơ đồ các cấp độ văn hóa của tổ chức
- Cấp độ 1: Những biểu hiện hữu hình
Đây là những đặc điểm có thể dễ dàng được nhìn thấy, nghe thấy và
cảm nhận của tổ chức, được gọi chung là các đồ tạo tác (logo biểu tượng, cơ
sở vật chất, nội thất văn phòng, trang phục nhân viên, ứng xử giao tiếp…)
- Cấp độ 2: Hệ thống giá trị được tuyên bố
Hệ thống giá trị được tuyên bố là nền tảng, kim chỉ nam cho hoạt động
của một tổ chức được công bố rộng rãi. Những giá trị này cũng có tính hữu
hình vì người ta có thể dễ nhận biết và diễn đạt chúng một cách rõ ràng, chính
xác. Chúng thực hiện chức năng hướng dẫn, định hướng và là tài liệu đầu tiên

14


diễn tả về một tổ chức (các chiến lược, mục tiêu, triết lý, giá trị cốt lõi, các bộ
quy tắc ứng xử thành văn, các cam kết, quy định, quy chế...)

- Cấp độ 3: Những quan niệm chung, giá trị nền tảng của tổ chức
(những niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và tình cảm có tính vô thức, mặc nhiên
và ngầm định)
Các ngầm định nền tảng thường là những suy nghĩ và trạng thái xúc
cảm đã ăn sâu vào tiềm thức mỗi cá nhân và tạo thành nét chung trong tập thể
tổ chức. Những ngầm định này thường là những quy ước bất thành văn,
đương nhiên tồn tại và tạo nên mạch ngầm kết dính các thành viên trong tổ
chức; tạo nên nền tảng giá trị, lối suy nghĩ, cách hành động của họ.
Hệ thống giá trị được tuyên bố và các ngầm định nền tảng của một tổ
chức là những thước đo đúng và sai, xác định những gì nên làm và không nên
làm trong cách hành xử chung và riêng của cán bộ, nhân viên.
Nhìn chung, có thể xác định các yếu tố cấu thành nên VHCS bao gồm:
1.2.1 – Hệ thống các giá trị VHCS
Hệ thống các giá trị VHCS là kết quả của phương thức ứng xử trong
công sở, được con người lựa chọn (nhằm đáp ứng nhu cầu của tổ chức và các
thành viên của nó) trong quan hệ giữa các thành viên của tổ chức và giữa tổ
chức công sở với xã hội, nhân dân. Các giá trị có thể coi là các tiêu chuẩn
hành vi hoạt động hàng ngày trong công sở, các hành vi này có thể được bộc
lộ chính thức hoặc không chính thức như mọi thành viên trong công sở đều
phải biết xử sự với nhau như thế nào.
Hệ giá trị VHCS bị chi phối bởi 3 yếu tố chính, đó là giá trị vật chất,
giá trị chuẩn mực, hành vi và quan hệ xã hội và giá trị nhân cách, đạo đức của
các thành viên trong công sở.
1.2.1.1 – Giá trị vật chất:

15


Là sự vật thể hoá các giá trị tinh thần, là văn hoá vật chất cấu thành nên
VHCS nói chung. Đó là các biểu tượng vật chất như kích thước phòng làm

việc, chỗ ngồi làm việc, màu sắc trang trí nội thất nơi làm việc, phòng trung
tâm quyền lực đặt ở nơi dễ tiếp xúc hay đặt trong góc kín, trang phục nghiêm
túc hay thoải mái, hệ thống phương tiện máy móc, thiết bị,…
Việc phát triển công nghệ hiện đại phục vụ cho HĐCS hiện nay khiến
cho nhiều tập quán mới trong hoạt động công sở được xác lập, sự khẩn trương
dần thay thế cho tác phong làm việc cũ với trang thiết bị cũ kỹ, lạc hậu… Tuy
nhiên, công nghệ hành chính hiện đại không thể tự biến thành VHCS mà nó
được vật thể hoá bằng các giá trị tinh thần (sự hiểu biết, cách nhìn nhận,…) và
nó đã góp phần tạo nên cho công sở một nếp sống văn hoá thẩm mỹ hay văn
hoá tiên tiến trong quản lý, điều hành công sở. Công nghệ hành chính hiện đại
phải được áp dụng liên tục trong công sở mới có khả năng tạo ra những giá trị
bền vững trong công sở.
1.2.1.2 – Giá trị chuẩn mực, hành vi và quan hệ xã hội:
Là giá trị biểu hiện các mối quan hệ bên trong của tổ chức công sở:
quan hệ giữa cấp trên – cấp dưới, quan hệ giữa thành viên – thành viên và
quan hệ giữa tổ chức công sở với xã hội công dân.
- Quan hệ giữa cấp trên – cấp dưới: trong mỗi chế độ xã hội khác
nhau, các giá trị văn hoá thể hiện mối quan hệ này lại khác nhau.
+ Ở chế độ phong kiến: giá trị VHCS bị ảnh hưởng nặng nề của văn
hoá nho giáo, đó là “đồng lòng”, “trung quân”
+ Ở chế độ tư sản: quan hệ này là quan hệ giữa ông chủ và người làm
thuê, giá trị văn hoá bị chi phối bởi giá trị thặng dư và lợi nhuận tối đa
+ Ở chế độ tư bản: giá trị VHCS là “mệnh lệnh” và “phục tùng”

16


+ Ở nước ta hiện nay: quan hệ này được xây dựng trên sự dân chủ, bình
đẳng, tôn trọng lẫn nhau, những giá trị VHCS được biểu hiện trong việc lựa
chọn cấp trên bằng việc tín nhiệm và bầu cử.

- Quan hệ giữa thành viên – thành viên trong công sở: bao gồm ứng xử
của các thành viên trong cùng công sở với nhau, các giá trị văn hoá thể hiện
mối quan hệ này ở mỗi chế độ xã hội hay mỗi giai đoạn lịch sử có sự khác
nhau:
+ Trong cơ chế quan liêu bao cấp cũ: là quan hệ “cào bằng” nhu cầu,
không ai được hơn ai, không tôn trọng quyền tự do và đời sống riêng tư của
mỗi người, trọng nam khinh nữ, là “bình đẳng trong đói nghèo”…
+ Trong xã hội hiện đại: những giá trị đích thực được trân trọng và lưu
giữ là truyền thống thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, là tinh thần xây
dựng tập thể đoàn kết, vững mạnh, tôn trọng nhân cách của nhau, là “làm theo
năng lực, hưởng theo lao động”, vai trò của người phụ nữ trong công vụ được
đánh giá cao…
- Quan hệ giữa tổ chức công sở với xã hội công dân: quan hệ này được
biến đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội nhất định:
+ Công sở ở chính quyền phong kiến: đề cao vai trò của chính quyền,
các tầng lớp quan lại là bề trên của nhân dân, hống hách, đè nén áp bức bóc
lột nhân dân, tuy nhiên, giá trị văn hoá trong quan hệ của công sở và nhân dân
vẫn được lưu giữ đến ngày nay là các giá trị về đạo lý “lấy dân làm gốc”, là
“yêu nước, thương nòi”,
+ Ngày nay, các giá trị về tính phục vụ cộng đồng, phục vụ lợi ích của
nhân dân được thể hiện qua sự ứng xử tốt đẹp với nhân dân.
Ngoài ra, giá trị hành vi quan hệ xã hội trong VHCS còn biểu hiện ở
quy mô tổ chức trong công sở, ở số lượng các mối quan hệ trong các hình thái
tổ chức và vai trò của các thành viên trong các hình thái đó.

17


×