Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tìm hiểu về cán cân thanh toán của việt nam và các nguyên nhân cũng như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.9 KB, 40 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế mở, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú
và đa dạng. Hệ quả của các mối quan hệ này làviệc các nước phải chi trả cho
nhau, nghĩa là các quốc gia luôn phát sinh các khoản thu chi với các quốc
gia khác. Để theo dõi và phân tích các khoản thu chi này, từng quốc gia đã
lập bảng cân đối gọi là Cán cân thanh toán quốc tế.
Trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động.Việc Việt Nam gia
nhập WTO đánh dấu một bước phát triển mới của kinh tế nước nhà. Bước
sang giai đoạn phát triển mới, Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều thách
thức và cơ hội phát triển mới. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt
Nam đã có những bước phát triển nhất định và đạt được nhiều thành tựu.
Môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ đáng kể nhưng bên
cạnh đó còn có rất nhiều vấn đề phải giải quyết để môi trường kinh doanh đó
trở nên thuận lợi hơn nữa và thu hút hơn nữa với các doanh nghiệp và các
nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài. Theo các báo cáo của IMF, Cán
cân thanh toán quốc tế của Việt Nam luôn bị thâm hụt. Dưới đây, chúng ta
sẽ tìm hiểu về cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân cũng
như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam.

Page 1


CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. LÝ LUẬN
1.1 Định nghĩa
Cán cân thanh toán, hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những
giao dịch kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một
thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá
nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó.
Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản
tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một


quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía
người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản
nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước
cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.

1.2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của BP
1.2.1 Các thành phần của cán cân thanh toán
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra
năm 1993, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau
:
• Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng
hóa, dịch vụ và một số chuyển khoản.
• Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và
tài sản tài chính.
• Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước

Page 2


• Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương.
Do tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai
số nhỏ, nên gần như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự
trữ ngoại hối tạo nên.
• Mục sai số
Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần
ghi chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này
được ghi trong cán cân thanh toán như là mục sai số.
1.2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán
• Cán cân vãng lai (current balance)
• Cán cân vốn (capital balance)

• Cán cân bù đắp chính thức (official finacing balance)
• Cán cân cơ bản (basic balance)
• Cán cân tổng thể (overall balance)
1.2.2.1. Cán cân vãng lai
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán
của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa
người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn
tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước
được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ).
Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho
người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng
dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do
IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
Page 3


1.2.2.1.1. Cán cân thương mại hàng hóa
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân
thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất
khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định
(quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa
chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng
dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có
thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái
cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư
thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư
thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất
khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là

thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập
khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương
mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán
quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại :
+ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng
nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn
chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm
thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập
khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng
hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá
thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa
Page 4


đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì
người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập
khẩu mặt hàng này cũng tăng.
+ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc
gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do
vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn
hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu
là yếu tố tự định.
+ Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh
hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa
trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên
thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất
khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng
nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn

đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm
xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu
ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và
một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân
tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ
được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của
Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ
Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái
thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ
được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén
sản xuất tại Việt Nam.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP :
Page 5


Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan
trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân
đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị
"rò rỉ" qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng

1.2.2.1.2. Cán cân thương mại phi hàng hóa
- Cán cân dịch vụ :
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm,
bưu chính, viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác
giữa người cư trú với người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng
hoá xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên
co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ. Các
nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố
Page 6



ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụcũng giống như các nhân tố ảnh
hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập :
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các
khoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư
trú hay ngược lại.các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở
nước ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi
từ đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay
giữa người cư trú và không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều :
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản
chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người
không cư trú chuyển cho người không cư trú và ngược lại. Các khoản
chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa
người cư trú với người không cư trú các khoản thu làm phát sinh cung ngoại
tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu
ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển
giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm giữa người cư trú và người
không cư trú.
Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai
một chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán
cân vô hình (invisible) Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn :
Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình
Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú
làm phát sinh cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập
trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên
Page 7



nợ. Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều
được gộp chung vào trong tính toán này.Đối với phần lớn các quốc gia thì
cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai.
Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài
lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và
xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong
nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp
thành cán cân thanh toán.Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu
nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài
khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn.
Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm
nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo
cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần
trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản
vãng lai không lành mạnh.
1.2.2.2. Cán cân vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân
thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản
(gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái
phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia
khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước
lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì
quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước,
dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
Page 8



Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản
vốn ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính.
Tài khoản vốn và lãi suất:

Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất
trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư.
Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan
hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật
thiết với lãi suất.
Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế
dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài
khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ
xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi.
Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái:
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá
hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra

Page 9


tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong
nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện.
1.2.2.3. Cán cân cơ bản
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu
nhập, mà đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản
giữa người cư trú với người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán
cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt

là lên tỉ giá hối đoái của nền kinh tế.
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản.
Tính chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ
giá hối đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch
định chính sách kinh tế quan tâm.
Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn
Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại
1.2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai
sót bằng không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán
cân vốn. Trong thực tế do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá
trình thu nhập số liệu và lập BP do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và
sai sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân
vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có :
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót
1.2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance)
Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục :
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR)
Page 10


- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L)
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền
của quốc gia lập cán cân thanh toán (≠)
OFB = ΔR + L + ≠
Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và
giảm thì ghi có (+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải
thích như sau :
Chúng ta hình dung, quốc gia việt nam được chia thành hai bộ phận
gồm : NHTW và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế NKT). Tiêu chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can

thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì
không có chức năng can thiệp. Theo quy tắc BP được lập trên cơ sở của nền
kinh tế, do đó, các hoạt động can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối
(mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa
người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra,
làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh
tế, do đó ta phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho
dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó
ta phả ghi nợ (-)
1.2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót
OB + OFB = 0
→OB = - OFB
→CA+K+OM= - OFB
→OM =-(CA+K+OFB)
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót
chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai
Page 11


và cán cân vốn. Bởi vì cán cân bù đắp chính thức , cán cân vãng lai và cán
cân vốn luôn được xác định (luôn thể hiện là một số cụ thể trên BP ), do đó
đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập BP trong thực
tế

1.3. Thặng dư và thâm hụt BP
- Khái niệm:
BP được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi
có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này
có nghĩa là, về tổng thể thì BP luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư,
thâm hụt BP là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các

cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của BP được xác định theo hai
phương pháp:
 Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ
phận.
 Phương pháp tích lũy
1.3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại
 TB=X-M
Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá
trị nhập khẩu về hàng hóa
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ
Page 12


- Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền
kinh tế, bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng
lai .Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân
vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời
các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số
liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn,
tức là có một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước
phát triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng.
1.3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai
Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn

tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ R
- Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú
lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng
của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư
trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ
- Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ
người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này
có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát
hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu
ngoại tệ
Page 13


- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý
tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được
giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với
trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng
nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không
là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài
sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế
quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản
nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con
nợ).
CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0

Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do
đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức:
R= 0
- Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra
+ TH1: Kl < 0 và Ks > 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng
lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực
thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp
suất và giảm giá nội tệ
+ TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn
và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường
kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện
chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
CA = 0 trong ngắn hạn
Page 14


Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl
=0
Ks + R = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: R > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra
được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế
tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các
luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp
bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ
giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn
tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW
không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ TH2: R < 0 và Ks > 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào
làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr
xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn

ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm
bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp
tục giảm giá
1.3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản
BB = CA + Kl
Khi CA < 0, nhưng nếu ( CA + Kl ) > 0, thì quốc qia không hề chịu rủi
ro thanh khoản. chính vì vậy, nhiều nhà kinh tế cho răng, cán cân cơ bản
phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với
cán cân vãng lai.điều này xảy ra là vì, vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân
phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc
gia và phần thế giớ bên ngoài. Ngoài ra, sự bù trừ cho nhau giữa thặng dư
của cán cân vãng lai và thâm hụt của cán cân vốn dài hạn có thể được duy
Page 15


trì lâu dai. Trên cơ sở những đặc điểm này của cán cân cơ bản mà chúng ta
có thể định hướng chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân.
Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín
hiệu xấu của nền kinh tế. tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy,
nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều
xấu.

Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai và

đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ
bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những
thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập
mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong
tương lai.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà

luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì
cán cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư
của cán cân cơ bản như sau:
- Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc
gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có
vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt.
- Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải
xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh
toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này
có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai.
1.3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của NHTW trong
việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế
OB = ( X – M + Se + Ic + Tr + Kl + Ks )
Page 16


OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa quan trọng bởi vì
- nếu thặng dư (+ ) nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử
dụng để tăng ( mua vào) dự trữ ngoại hối
- nếu thâm hụt (- ) nó cho biết số tiền mà quốc gia phải hoàn trả bằng
cách giảm ( bán ra ) dự trữ ngoại hối là như thế nào.
Mọi thâm hụt trong cán cân tổng thể phải được tài trợ bằng cách:
 giảm dự trữ ngoại hối
 vay ( hay hợp đồng hoán đổi) IFM và các NHTW khác.


tăng TSN taị các NHTW nước ngoài.


Khái niệm về thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp với
các nước áp dụng chế độ tỷ giá cố định mà không thích hợp với các nước áp
dụng chế độ tỷ giá thả nổi. nói như vậy là vì, nếu tỷ giá được hoàn toàn tự do
biến động thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động nề trạng thái cân
bằng ( tức có kết số bằng 0), bởi vì NHTW không can thiệp mua vào hay
bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi. Trong chế
độ tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung thì tỷ giá của nó sẽ
tăng và ngược lại nếu cầu nhỏ hơn cung thì tỷ giá sẽ giảm, do đó thong qua
cơ chế biến động của tỷ giá mà cán cân tổng thể luôn được điều chỉnh về
trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, khái niệm về “cán cân tổng thể” là rấ quan
trọng đối với chế độ tỷ giá cố định, bởi vì nó cho biết áp lực dãn đến phải
phá giá hay nâng giá đồng tiền là như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định
một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn
hơn cầu, do đố để tránh phá giá NHTW phải tiến hành bán dự trữ

Page 17


CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM
1. Thực tế BP của Việt Nam
1.1. Cán cân thương mại (TB)
Nhận xét chung:
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước trong 8 tháng đầu
năm đạt 79,13 tỷ USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó,
xuất khẩu là 37,06 tỷ USD, giảm 14,6% và nhập khẩu là 42,08 tỷ USD, giảm
28,7%.
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại 8T/2009

Xuất khẩu:

* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 4,52 tỷ USD, giảm
5,9% so với tháng 7/2009.Trong đó, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) là 2,10 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước; nâng tổng kim

Page 18


ngạch xuất khẩu của khu vực này 8 tháng lên 14,61 tỷ USD và chiếm 39%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
* Một số mặt hàng xuất khẩu chính.
- Hàng dệt may: Trong 8 tháng năm 2009, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác
lớn nhất của hàng dệt may Việt Nam với trị giá đạt 3,25 tỷ USD và chiếm
tới 55,2% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Đứng thứ
hai là thị trường EU với kim ngạch đạt 1,1 tỷ USD, tiếp theo là xuất khẩu
sang thị trường Nhật Bản: 605 triệu USD, Đài Loan: 141 triệu USD, Hàn
Quốc: 123 triệu USD, Canađa: 121 triệu USD,…
- Giày dép các loại: Tính đến hết tháng 8, xuất khẩu nhóm hàng giày
dép của nước ta đạt 2,72 tỷ USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong đó, thị trường EU là 1,33 tỷ USD, giảm 21% và chiếm 49% tổng kim
ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Hoa
Kỳ trị giá xuất khẩu đạt 697 triệu USD, Mêxicô: 91 triệu USD, Nhật Bản: 83
triệu USD, Trung Quốc: 62 triệu USD,…
- Hàng thuỷ sản: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác
lớn trong 8 tháng qua như sau: thị trường EU với kim ngạch gần 704 triệu
USD, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2008; Nhật Bản: 464 triệu USD, giảm
13,7%; Hoa Kỳ: 448 triệu USD, tăng 4,0%; Hàn Quốc: 189 triệu USD,
giảm 10,9%;…
- Dầu thô: Tính đến hết tháng 8, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt
Nam là 9,75 triệu tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù lượng

xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2008, nhưng do giá bình quân giảm
mạnh tới 51,9% (tương đương với giảm 456 USD/tấn), nên kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng này 8 tháng chỉ đạt 4,13 tỷ USD, giảm 48,2%.
Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của nước ta chủ yếu là
Ôxtrâylia: 2,5 triệu tấn, Singapore: 1,74 triệu tấn, Malaysia: 1,36 triệu tấn,
Page 19


Nhật Bản: 685 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 672 nghìn tấn, Hàn Quốc: 656 nghìn tấn ,

- Gạo: Tháng 8, lượng gạo xuất khẩu là 417 nghìn tấn, nâng lượng
xuất khẩu mặt hàng này trong 8 tháng lên 4,63 triệu tấn, tăng 41,0% so với
cùng kỳ năm trước. Tính đến hết tháng 8, kim ngạch xuất khẩu gạo của cả
nước đạt 2,11 tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm 2008.
Biểu đồ: Giá bình quân và lượng xuât khẩu gạo 8 tháng năm 2009

Tính đến hết tháng 8/2009, lượng gạo của Việt Nam xuất sang hầu hết
các châu lục đều tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2008 (trừ Châu Mỹ).
Trong đó, lượng gạo xuất khẩu sang Châu Á đạt 2,66 triệu tấn, tăng 22,4%
và chiếm 57% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước; sang châu Phi: 1,13
triệu tấn, tăng 124%; sang châu Mỹ: 387 nghìn tấn, giảm 12%; sang Châu
Đại Dương: 267 nghìn tấn, tăng mạnh 317%; sang châu Âu: 182 nghìn tấn,
tăng 83,2% so với cùng kỳ năm 2008.
- Cao su: Tháng 8/2009, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước là
410 nghìn tấn, kim ngạch là 603 triệu USD, giảm 42,4% so với cùng kỳ năm
2008.

Page 20



Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của
Việt Nam trong 8 tháng qua với 285 nghìn tấn, chiếm 69,4% tổng lượng cao
su xuất khẩu của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 18,1 nghìn tấn, Malaixia:
16,9 nghìn tấn, Đài Loan: 13,5 nghìn tấn, Đức: 11 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 8,7
nghìn tấn,…
- Cà phê: Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong
8 tháng qua là Bỉ: 118,7 nghìn tấn, Đức: 92,4 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 86,3 nghìn
tấn, Italia: 78,7 nghìn tấn, …
- Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 8/2009, xuất khẩu mặt hàng này đạt 208
triệu USD, giảm nhẹ 0,3% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất
khẩu nhóm hàng này của Việt Nam 8 tháng/2009 lên 1,55 tỷ USD, giảm
15,3% so với cùng kỳ năm 2008.
Hết tháng 8, Hoa Kỳ tiếp tục trở thành thị trường nhập khẩu nhóm
hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 664 triệu USD, tiếp theo là thị trường
EU: 344 triệu USD, Nhật Bản: 231 triệu USD, Trung Quốc: 96 triệu USD,…
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: Dẫn đầu về nhập khẩu
nhóm hàng này của Việt Nam trong 8 tháng qua vẫn là thị trường Hoa Kỳ
với 278 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 230 triệu USD, Thái Lan: 181
triệu USD, Trung Quốc: 150 triệu USD, Singapore: 108 triệu USD, Hà Lan:
107 triệu USD,…
Nhập khẩu.
* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 5,85 tỷ USD,
giảm 7,5% so với tháng trước. Trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp
FDI là 2,19 tỷ USD, giảm 7,0% (tương đương giảm 166 triệu USD).
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ có 8 trong số 43 nhóm hàng nhập khẩu
có mức tăng trưởng dương trong tháng 8. Trong đó, nhập khẩu các mặt hàng
Page 21



chủ lực đều giảm mạnh (trừ sắt thép các loại tăng 10,4%). Cụ thể: xăng dầu
giảm 18,8%, máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng giảm 8,2%; chất dẻo
giảm 11,3%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 7,2%,…
* Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu.
- Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: tổng kim ngạch nhập khẩu 8
tháng năm 2009 là 7,33 tỷ USD, giảm 17,4% so với cùng kỳ 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt
Nam trong 8 tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,4 tỷ USD,
giảm 6,7%; Nhật Bản: 1,47 tỷ USD, giảm 19,3%; Hàn Quốc: 521 triệu USD;
giảm 21,7%; Hoa Kỳ: 462 triệu USD, tăng 12,6%;... so với cùng kỳ năm
2008.
- Sắt thép các loại: Hết 8 tháng/2009, lượng sắt thép nhập khẩu của cả
nước là 6,16 triệu tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước với trị giá đạt
được là 3,21 tỷ USD.
Biểu đồ: Lượng, đơn giá bình quân nhập khẩu phôi thép và sắt
thép các loại từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009

- Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng, trị giá nhập khẩu
nhóm hàng này là 205 triệu USD, giảm 16,2% so với tháng trước, nâng tổng

Page 22


kim ngạch nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 1,27 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng
kỳ năm 2008.
Hết 8 tháng/2009, thức ăn gia súc & nguyên liệu được nhập khẩu từ
Achentina là: 394 triệu USD, tăng 233%; Ấn Độ : 307 triệu USD, giảm
51,6%; Hoa Kỳ: 110 triệu USD, giảm 5,4%; Trung Quốc: 109 triệu USD,
tăng 35,2%;… so với 8 tháng 2008.
- Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày: trong tháng nhập

khẩu là 573 triệu USD, giảm 11,6% so với tháng 7/2009 (tương đương giảm
75 triệu USD về số tuyệt đối). Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 327 triệu
USD, giảm 13,6%, nguyên phụ liệu dệt may: 131 triệu USD, giảm 15,2%,
xơ sợi dệt giảm 2,5% và lượng bông nhập khẩu giảm 4,2%.
Hết tháng 8/2009, nhóm hàng này đạt kim ngạch là 4,64 tỷ USD, giảm
13,8% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nguyên liệu,
phụ liệu ngành dệt may, da giày cho Việt Nam trong 8 tháng qua là: Trung
Quốc: 1,3 tỷ USD, Đài Loan: 946 triệu USD, Hàn Quốc: 905 triệu USD,
Nhật Bản: 302 triệu USD, Hồng Kông: 270 triệu USD,…
- Xăng dầu:
Biểu đồ: Giá bình quân nhập khẩu xăng dầu háng 1 đến tháng
8/2009

Page 23


Hết tháng 8/2009, cả nước nhập khẩu 8,75 triệu tấn xăng dầu các loại,
giảm 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng
này giảm mạnh so với cùng kỳ 2008 nên kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt hơn 4
tỷ USD, giảm tới 55,7%.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua chủ yếu
có xuất xứ từ Singapore với hơn 3,4 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 1,69
triệu tấn, Trung Quốc: 1,59 triệu tấn, Hàn Quốc: 836 nghìn tấn, Nga: 416
nghìn tấn, Thái Lan: 350 nghìn tấn...
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng
8/2009 là 338 triệu USD, nâng tổng trị giá nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 2,29
tỷ USD, giảm 4,7% so với cùng kỳ 2008.
Tính đến hết tháng 8 năm 2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về
cung cấp nhóm hàng này cho nước ta với 842 triệu USD, tăng 2,0% so với 8
tháng/2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 494 triệu USD, giảm 5,7%; Đài Loan:

183 triệu USD, giảm 3,4%; Malaysia: 178 triệu USD, giảm 0,7%; ...
- Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng 8/2009 nước ta nhập khẩu 201
nghìn tấn, giảm 11,3% so với tháng 7/2009 và đạt trị giá là 269 triệu USD.
Hết tháng 8/2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước là
1,44 triệu tấn, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 1,73 tỷ
USD.
Hết 8 tháng năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt
Nam chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 268 nghìn tấn, tăng 46,7% so với
cùng kỳ 2008; Đài Loan: 213 nghìn tấn, giảm 2,4%; Thái Lan: 192 nghìn
tấn, tăng 6,7%, A rập Xê út: 163 nghìn tấn, tăng 79,3%; Singapore: gần 102
nghìn tấn, tăng 3,8%; …
Page 24


- Phân bón:. Hết 8 tháng/2009, cả nước nhập khẩu 2,85 triệu tấn phân
bón các loại, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua là 897
nghìn tấn, phân SA là 741 nghìn tấn, phân DAP gần 705 nghìn tấn, phân
Kali là 250 nghìn tấn, phân NPK là 194,5 nghìn tấn.
Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có
xuất xứ từ Trung Quốc với 1,13 triệu tấn. Tiếp theo là Nga: 291 nghìn tấn,
Ucraina: 202 nghìn tấn, Hàn Quốc: 198 nghìn tấn; Philippin: 193 nghìn tấn,
Hoa Kỳ: 129 nghìn tấn, Đài Loan: 83,8 nghìn tấn,…
- Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: Sau khi đạt
mức tăng đột biến trong tháng 7, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc bắt đầu giảm
với lượng nhập khẩu trong tháng 8 là 7,27 nghìn chiếc, trị giá 107 triệu
USD. Trong đó, số lượng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống nhập khẩu là 4,3
nghìn chiếc, giảm 15% so với tháng 7 với trị giá là 45 triệu USD.
Hết tháng 8, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu là 39,6 nghìn chiếc
giảm 10,8% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, lượng xe dưới 9 chỗ ngồi

là 19,9 nghìn chiếc, chiếm trên 50% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của
cả nước.
Biểu đồ : Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009

Page 25


×