Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận: Ưu nhược điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Tại sao phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không phổ biến tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.66 KB, 17 trang )

TRƯỜNG
KHOA LUẬT

Môn: Luật Thương Mại
Tiểu luận: Ưu nhược điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với
giải quyết tranh chấp bằng tòa án. Tại sao phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài không phổ biến tại Việt Nam

Họ và tên:
Lớp:
Nhóm:

1


MỤC LỤC
A. Ưu nhược điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với giải
quyết tranh chấp bằng tòa án................................................................................................3
1. Đặt vấn đề:................................................................................................................3
2. Ưu điểm, nhược điểm..............................................................................................4
Ưu điểm:................................................................................................................4
Nhược điểm............................................................................................................6
3. Giải quyết một số vấn đề...........................................................................................6
B. Tại sao phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài không phổ biến tại Việt Nam
............................................................................................................................................10

2


 Ưu nhược điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với giải
quyết tranh chấp bằng tòa án. Tại sao phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng


tài không phổ biến tại Việt Nam.

A. Ưu nhược điểm của phương pháp giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài so với giải quyết tranh chấp bằng
tòa án
Mỗi hình thức giải quyết tranh chấp thương mại đều mang những đặc điểm riêng với
những ưu điểm và hạn chế nhất định, sự đa dạng trong cơ chế giải quyết tranh chấp là
biểu hiện đặc trưng về tính đa dạng của các quan hệ kinh tế trong điều kiện nền kinh tế
thị trường

1. Đặt vấn đề:
*Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án, trong đó, các bên tham
gia tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ do một hoặc một số người
(“trọng tài viên”, “Ủy ban trọng tài”) giải quyết, và quyết định của một hoặc một số
người đó (“phán quyết”) có tính chất bắt buộc thực hiện. Có thể hiểu “trọng tài” một cách
đơn giản là một biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính pháp lý, giống như việc kiện
tụng ở tòa án, và hoàn toàn khác biệt với nhóm các biện pháp không mang tính bắt buộc
về mặt pháp lý như đàm phán, trung gian, điều tra và hòa giải.
Ngày nay, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được xem như phương thức phổ biến nhất,
đặc biệt đối với các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế. Trọng tài không chỉ
xét xử những tranh chấp phát sinh giữa cá nhân với cá nhân, mà thậm chí cả những tranh
chấp giữa cá nhân với quốc gia hay quốc gia với quốc gia.
*Phương thức giải quyết tranh chấp bằng tòa án:
Toà án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà
nước được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định
của Toà án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi
hành bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
è Thủ tục giải quyết tranh chấp thông qua tòa án thường dài hơn so với giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài. Hơn nữa, nguyên tắc xét xử công khai tại tòa án không phù hợp với

tính chất của hoạt động kinh doanh và tâm lý của giới doanh nghiệp. (có thể làm sút giảm
uy tín của các bên trên thương trường; lộ các bí mật kinh doanh…), ngoài ra, bản án xét
xử xong chưa được thi hành ngay mà các bên có quyền kháng cáo khiếu nại nên thời gian
kéo dài.

3


2. Ưu điểm, nhược điểm
 Ưu điểm:


Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải
quyết tranh chấp
Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm nổi bật so với
Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá trị chung thẩm, tức
có hiệu lực cuối cùng. Trong khi Tòa án xử thì phải 2 – 3 lần, từ sơ thẩm đến phúc thẩm,
rồi còn thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, rồi còn khiếu nại, khiếu kiện và còn có sự tham
gia của nhiều cơ quan khác (như Viện kiểm sát…). Còn cách thức giải quyết bằng trọng
tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không chỉ
có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên không thể chống án
hay kháng cáo. Xét xử tại trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán quyết xong, Uỷ
ban Trọng tài (Hội đồng trọng tài) hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình.
Những ưu điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư thương mại. Chính
những ưu điểm đó bảo đảm rằng nếu các bên ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thì các nhà đầu tư sẽ giảm rủi ro cho bên nước ngoài khi quyết định tham gia đầu tư
thương mại tại Việt Nam; tạo thuận lợi cho các bên nước ngoài và cả bên Việt Nam thông
qua việc giải quyết tranh chấp tại Việt Nam.
Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn
thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương mại. Quyết định trọng tài là quyết định cuối

cùng và có hiệu lực pháp luật, như bản án của Toà án. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng
trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận
phán quyết của trọng tài thì có thể kiện ra Toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án.
 Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật
Trọng tài là một tiến trình giải quyết tranh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp luật về
trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in camera) nếu các bên
không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính của các
bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương mại. Điều đó có ý nghĩa
lớn trong điều kiện cạnh tranh.
Đây là ưu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ tranh chấp
của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trước Tòa án (hoặc công chúng) – điều mà các
doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
 Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục
Các bên đương sự được tự do lựa chọn trọng tài viên. Cách thức lựa chọn trọng tài và Hội
đồng trọng tài phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng. Hoạt động trọng
tài diễn ra liên tục vì Hội đồng trọng tài (Uỷ ban trọng tài) xét xử vụ kiện đã được các bên
lựa chọn, hoặc được chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét xử ở
Toà án, có khả năng thẩm phán được chỉ định giải quyết vụ việc không có trình độ
chuyên môn liên quan đến đối tượng tranh chấp, đặc biệt các ngành có đặc thù chuyên
môn cao như: dầu khí, xây dựng, tài chính, đầu tư, bảo hiểm… Khi giải quyết bằng trọng
tài, các bên hoàn toàn có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ chuyên môn (4) phù hợp
với đối tượng tranh chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong giải
quyết tranh chấp. Trọng tài viên – người chủ trì phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ
4


đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi
các bên muốn hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán, trọng tài có thể hỗ
trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.
 Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, linh

hoạt cho các bên
Tòa án, khi xét xử các bên hoàn toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Toà án về thủ tục, thời
gian, địa điểm, cách thức xét xử… được quy định trước đó. Trong khi đó, với trọng tài,
các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm phương thức giải
quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong
khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu
quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
 Thứ năm, tiết kiệm thời gian
Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế đòi hỏi các bên không thể lãng
phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn phải giải quyết nhiều
tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cho phép các bên được quyền kháng án cũng làm cho
tiến độ bị kéo dài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ví dụ như giải
quyết tranh chấp bằng VIAC thường kéo dài tối đa là 6 tháng, còn tại Tòa án có thể kéo
dài hàng năm trời.
 Thứ sáu, duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu dài giữa
các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa
các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
Xét xử bằng trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột căng thẳng của những bất đồng trên
cơ sở những câu hỏi gợi mở, trong một không gian kín đáo, nhẹ nhàng… Đó là những
yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với
nhau và đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên
kia có sự tin tưởng tốt hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai.
 Thứ bảy, trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia
Ưu điểm này thể hiện ở quyền được chọn trọng tài viên của các bên đương sự, điều mà
không tồn tại ở Tòa án.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững vàng
của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính chuyên sâu
như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí

tuệ…
 Thứ tám, tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài – một tổ chức phi
chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các mặt sau:
Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tàiX; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền
của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn yêu cầu huỷ
quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại hoặc
có nguy cơ xâm hại thì có quyền làm đơn yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời, nhằm: bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ bị tiêu huỷ hoặc có nguy
cơ bị tiêu huỷ; kê biên tài sản tranh chấp để ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển

5


dịch tài sản tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng của tài sản tranh chấp; kê biên và niêm
phong tài sản ở nơi gửi giữ; phong toả tài khoản tại ngân hàng.
Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng hơn, tự do hơn,
mang tính xã hội hơn, tạo điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm.
Trong khi đó, Toà án áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý,
làm cho các bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề
khúc mắc, không thể hiện trên các chứng cứ “pháp lý”.

 Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm, trọng tài thương mại cũng có những nhược điểm so với con
đường tòa án, điều này giải thích cho hiện tượng tại sao mặc dù có sự tồn tại của trọng tài
mà các bên vẫn có trường hợp đưa các tranh chấp thuộc thầm quyền của trọng tài ra tòa
án giải quyết. Các nhược điểm đó là:


Thứ nhất, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử, trong

trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo chứng cớ, trọng
tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu tòa
ánthi hành các phán quyết trọng tài.



Thứ hai, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức
tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy tín của doanh
nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các quyết định của
trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay vẫn chưa coi
trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức tự giác.

3. Giải quyết một số vấn đề
*Cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài – Thực
trạng và nguyên nhân
Sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh trọng tài) đã đánh
dấu một bước tiến mới trong việc hình thành và hoàn thiện pháp luật về trọng tài tại Việt
Nam, đáp ứng nhu cầu lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp của cộng đồng doanh
nghiệp. Thực tiễn áp dụng Pháp lệnh trọng tài trong hơn 6 năm qua, tuy được đánh giá có
nhiều điểm tiến bộ cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới (như: Việt Nam đã là
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới, với sự xuất hiện của các đạo luật mới như
Luật Thương mại năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005…), nhưng một số quy định của Pháp
lệnh đã bộc lộ sự bất cập do một số nguyên nhân chủ yếu như: thẩm quyền của trọng tài
còn nhiều hạn chế về phạm vi, chưa xác định cụ thể, rõ ràng, thống nhất và chắc chắn;
đội ngũ trọng tài viên ở trong nước chưa phát triển, chưa đạt trình độ và uy tín bảo đảm
sự tin cậy của các bên tranh chấp, nhất là các bên nước ngoài…. Bên cạnh đó, một trong
những bất cập có ảnh hưởng trực tiếp tới hệ thống trọng tài Việt Nam là cơ chế hỗ trợ của
Toà án đối với trọng tài chưa hiệu quả, đặt trọng tài vào vị trí bất lợi hơn nhiều so với
Toà án liên quan đến một số vấn đề sau:
 Vấn đề xem xét thoả thuận trọng tài, thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội


6


đồng Trọng tài
Theo quy định tại Điều 30, thì khi có khiếu nại của một bên về việc Hội đồng Trọng tài
không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; vụ tranh chấp không có thoả thuận trọng
tài hoặc thoả thuận trọng tài vô hiệu, Hội đồng Trọng tài phải xem xét, quyết định với sự
có mặt của các bên, trừ trường hợp các bên có yêu cầu khác.Tuy nhiên, có một số vấn đề
còn chưa rõ đó là trường hợp một bên khiếu nại về thẩm quyền của trọng tài ra Toà án
theo Điều 30. Toà án xem xét và quyết định trọng tài có thẩm quyền. Sau đó, Hội đồng
trọng tài giải quyết vụ tranh chấp và ra quyết định trọng tài. Vậy khi Hội đồng trọng tài
đã ra Quyết định trọng tài thì các bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án huỷ Quyết định
trọng tài không có thẩm quyền theo Điều 54 của Pháp lệnh hay không? Trong trường hợp
chưa có Quyết định của Hội đồng trọng tài mà một bên khiếu nại ra Toà án về vấn đề
thẩm quyền thì Hội đồng trọng tài có tiếp tục giải quyết vụ tranh chấp hay dừng việc giải
quyết vụ tranh chấp?
Như vậy, một là, có tranh chấp về “thẩm quyền” giữa trọng tài và Toà án trong giải quyết
các vụ việc tranh chấp cụ thể cho dù các bên đã có thoả thuận trọng tài và trong trường
hợp này, trọng tài chưa phải là phương thức giải quyết tranh chấp được ưu tiên áp dụng.
Hai là, căn cứ vào điều kiện để Toà án tuyên huỷ phán quyết của trọng tài là dễ dàng, có
phần tuỳ ý và ít tốn kém đối với bên “thua kiện”. Tiêu chí Toà án huỷ quyết định của
trọng tài còn chưa rõ và rất dễ bị lạm dụng.
 Về biện pháp khẩn cấp tạm thời
Thứ nhất, Pháp lệnh Trọng tài đã xây dựng được chế định hết sức quan trọng và có ý
nghĩa trong tố tụng trọng tài đó là quyền các bên tranh chấp được yêu cầu Toà án áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên quy định này vẫn có điểm chưa hợp lý. Điều 33
quy định “Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có
quyền làm đơn đến Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu

áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”.
Theo quy định trên, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên phải chờ
đến khi Hội đồng Trọng tài được thành lập. Tuy nhiên, nếu phải chờ đợi như vậy thì
trong một số trường hợp, biện pháp này sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Do bản chất của
biện pháp khẩn cấp tạm thời mang tính nhanh chóng, khẩn trương, kịp thời, nên biện
pháp này phải được áp dụng ngay khi một bên thấy rằng quyền lợi hợp pháp của mình có
nguy cơ bị xâm phạm, không nhất thiết phải chờ đợi đến khi khởi kiện hoặc Hội đồng
trọng tài được thành lập.
Thứ hai, Pháp lệnh Trọng tài chỉ giới hạn thẩm quyền của Toà án, nơi Hội đồng trọng tài
thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Điều này có thể gây khó khăn cho cả Toà án và các bên trong quá trình áp dụng quy định
này. Ví dụ khi các bên khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, theo Pháp
lệnh Trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn
yêu cầu Toà án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này
chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu
cầu áp dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác, nhất là trường hợp tài sản ở
nước ngoài, mà yêu cầu Toà án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời sẽ không khả thi và không hợp lý.
 Vấn đề triệu tập nhân chứng

7


Pháp lệnh Trọng tài không xác lập cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với trọng tài trong việc
thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Đây là quy định quan trọng trong tố tụng
trọng tài. Quá trình giải quyết tranh chấp không chỉ có các bên mà nhiều trường hợp có
liên quan đến người thứ ba hoặc bên thứ ba. Trong khi Toà án có thẩm quyền đương
nhiên trong việc triệu tập các đối tượng này thì trọng thì lại không có thẩm quyền. Vấn đề
này, Luật Trọng tài các nước có quy định rất rõ Hội đồng trọng tài hoặc một bên được sự
đồng ý của Hội đồng trọng tài có thể yêu cầu Toà án có thẩm quyền trợ giúp thu thập

chứng cứ, triệu tập nhân chứng có mặt tại trọng tài. Do không có cơ chế hỗ trợ nêu trên,
các luật sư và doanh nghiệp vẫn băn khoăn khi lựa chọn trọng tài Việt Nam để giải quyết
tranh chấp.
 Quy định về huỷ quyết định trọng tài
Quy định về huỷ quyết định trọng tài còn nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân
khiến cho cả số lượng quyết định trọng tài bị yêu cầu huỷ gia tăng đó là cơ chế huỷ quyết
định trọng tài quá đơn giản. Điều 50 của Pháp lệnh quy định “Trong thời hạn 30 ngày kể
từ ngày nhận được quyết định trọng tàiQ, nếu có bên không đồng ý với quyết định trọng
tài thì có quyền làm đơn gửi Toà án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra quyết định trọng
tài để yêu cầu huỷ quyết định trọng tài”.
Tranh chấp là vấn đề phức tạp, khi các bên không thể tự giải quyết được mới đưa ra trọng
tài để giải quyết. Do vậy, quyết định trọng tài khó có thể thoả mãn được cả hai bên.
Trong khi đó, theo Pháp lệnh chỉ cần điều kiện “không đồng ý với quyết định trọng tài”
thì có quyền làm đơn yêu cầu huỷ. Điều này vô hình trung đã khuyến khích các bên làm
đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài với nhiều mục đích khác nhau, đặc biệt là để kéo dài
thời hạn thi hành quyết định trọng tài, để kịp tẩu tán tài sản. Một khi đưa đơn yêu cầu huỷ
ra Toà án, thủ tục giải quyết đơn yêu cầu huỷ tại Toà án phải qua hai cấp sơ thẩm và phúc
thẩm, thời gian giải quyết tại Toà án cũng không xác định là bao lâu. Như vậy, nếu như
các bên mong muốn được giải quyết tranh chấp bằng trọng tài do trọng tài có ưu điểm
nhanh chóng, đơn giản thì thực tế các quy định của Pháp lệnh trọng tài lại không được
như các bên mong đợi. Vấn đề này cần sớm được khắc phục để tránh sự lạm dụng một
cách có chủ ý của các bên, nhất là bên thua kiện tại trọng tài. Nếu không sớm giải quyết,
các quyết định trọng tài sẽ có nguy cơ trở thành các bản án sơ thẩm.
*Giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài
Thứ nhất, mở rộng, xác định rõ và cụ thể phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Cụ thể, phạm
vi thẩm quyền của trọng tài có thể bao gồm: i) Tất cả các tranh chấp dân sự, kinh tế và
lao động đều có thể giải quyết bằng trọng tài, trừ một số ít các trường hợp được quy định
cụ thể ; ii) Các tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư trong việc chuẩn
bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư, khuyến khích và ưu đãi đầu tư trên lãnh thổ

Việt Nam cũng có thể được giải quyết bằng trọng tài.
Thứ hai, mở rộng tiêu chí xác định thoả thuận trọng tài. Cần phải làm rõ, đầy đủ cả hình
thức và nội dung của thoả thuận trọng tài, bao quát hết các trường hợp thoả thuận của các
bên về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bao gồm: i) Xác định rõ nội dung tối thiểu
của thoả thuận trọng tài, là sự đồng ý của các bên về việc sử dụng trọng tài như một trong
số các hình thức giải quyết tranh chấp, hoặc đồng ý chọn trọng tài để giải quyết tranh
chấp; ii) Xác định rõ và cụ thể các trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu; iii), Xác định
rõ và cụ thể các thoả thuận trọng tài không thể thực hiện được.

8


Thứ ba, Hội đồng trọng tài là cơ quan duy nhất quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng
tài.
Thứ tư, nếu các bên có tranh chấp về hiệu lực thoả thuận trọng tài (kể cả tranh chấp giữa
các bên hoặc giữa một hoặc các bên với Trung tâm trọng tài) thì Toà án là nơi có quyền
quyết định hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần xác định rõ thẩm quyền của
Toà án và hiệu lực của quyết định của Toà án trong trường hợp này.
Thứ năm, xác định chặt chẽ, rõ ràng, hợp lý tiêu chí xác định Toà án có thẩm quyền đối
với trọng tài theo hướng linh hoạt; đồng thời cần xác định rõ trong trường hợp nếu nhiều
Toà án có thẩm quyền thì Trung tâm trọng tài có quyền lựa chọn một trong các Toà án đó
và quy định rõ trách nhiệm hợp tác, phối hợp công việc của Toà án và không được quyền
từ chối.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể, chi tiết “trách nhiệm của Toà án” trong việc thu thập chứng
cứ, lưu giữ chứng cứ về hình thức và nội dung yêu cầu của trọng tài, cụ thể là trong thời
hạn cụ thể mà Toà án phải xem xét và chỉ định một thẩm phán có trách nhiệm thu thập
chứng cứ; Toà án thông báo bằng văn bản về việc chỉ định thẩm phán. Đặc biệt phải xác
định rõ trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm sự có mặt của người làm chứng, xác
định rõ trình tự thủ tục nhanh chóng, thuận tiện trong việc yêu cầu Toà án áp dụng các
biện pháp khẩn cấp, tạm thời.

Thứ bảy, xác định rõ các trường hợp Toà án có thể huỷ quyết định của trọng tài theo
hướng hạn chế hơn việc huỷ quyết định trọng tài.
Thứ tám, cho phép Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và trực
tiếp yêu cầu cơ quan thi hành án hỗ trợ thực hiện biện pháp này.
Thứ chín, tăng cường sự hỗ trợ của Cơ quan thi hành án đối với thực thi quyết định của
trọng tài thông qua việc quy định rõ tiêu chí xác định cơ quan thi hành có liên quan. Thi
hành đầy đủ, kịp thời và hiệu quả phán quyết trọng tài là một trong số các giải pháp cơ
bản nâng cao độ tin cậy và tính hấp dẫn của trọng tài đối với các bên tranh chấp. Phán
quyết trọng tài là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày công bố. Các bên tranh chấp phải
thừa nhận, tôn trọng và nghiêm túc thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy vậy, trong trường hợp
các bên không tự nguyện thi hành thì sự can thiệp và hỗ trợ kịp thời, có hiệu quả của Cơ
quan thi hành án là không thể thiếu, để bảo đảm hiệu lực của phán quyết trọng tài.
Với các giải pháp nâng cao cơ chế hỗ trợ của Toà án trong việc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nhằm mục tiêu xây dựng một hệ thống trọng tài có chất lượng, đáng tin
tưởng sẽ “kéo” hoạt động giải quyết tranh chấp quay trở lại Việt Nam, góp phần thúc đẩy
ngành trọng tài và xa hơn nữa, điều này có thể hấp dẫn những bên tranh chấp ngoài Việt
Nam đến giải quyết tranh chấp tại Việt Nam. Việc khuyến khích giải quyết tranh chấp
qua đường trọng tài cũng sẽ giảm tải gánh nặng về công việc cho hệ thống Toà án và góp
phần nâng cao chất lượng và sự tin cậy đối với hệ thống Toà án. Tất cả điều này sẽ góp
phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động dân
sự, thương mại, nhất là trong hoàn cảnh toàn cầu hoá như hiện nay.
Thiết nghĩ, cần phải nâng Pháp lệnh Trọng tài thành Luật Trọng tài và ban hành Luật về
Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Có như vậy, mới tạo ra được những yếu tố bền
vững đối với việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ. Mục tiêu quan
trọng nhất của Luật Trọng tài là tạo một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án thuận
lợi cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Cụ thể
hơn, mục tiêu của Luật Trọng tài nhằm khuyến khích việc giải quyết tranh chấp thông

9



qua hệ thống trọng tài, qua đó giảm tải công việc cho hệ thống Toà án. Luật Trọng tài ban
hành nhằm giảm tải khoảng 30% số lượng tranh chấp kinh tế cho Toà án, chuyển sang
giải quyết thông qua hệ thống trọng tài vào năm 2015. Trong thời gian tới khi Luật Trong
tài có hiệu lực, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ hứa hẹn một bước
phát triển, trong những năm tới, đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong tranh
chấp kinh tế.

B. Tại sao phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài không phổ biến tại Việt Nam
Về mặt lý luận, giải quyết tranh chấp về hợp đồng thương mại bằng trọng tài đã và đang
được giới luật gia Việt Nam, các doanh nghiệp cũng như nhà nước thừa nhận. Biểu hiện
là sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc
giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài và hiện nay được Quốc hội đồng ý xây
dựng dự thảo nâng lên thành Luật trọng tài thương mại.
Về mặt thực tiễn, các tổ chức trọng tài thương mại đã được thành lập và ngày càng phát
triển. Đó là Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) được thành lập năm 1993 trên cơ sở sát nhập Hội đồng
Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải; ngoài ra còn có sáu (06) tổ chức
trọng tài thương mại khác như Trung tâm Trọng tài Thương mại Hà Nội; Trung tâm
Trọng tài Viễn Đông; Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế Á Châu (TP.Hà Nội),
Trung tâm Trọng tài Thương mại TPHCM; Trung tâm Trọng tài Quốc tế Thái Bình
Dương (TP.HCM); Trung tâm Trọng tài Thương mại Cần Thơ (TP.Cần Thơ).
Trên thực tiễn những tổ chức trọng tài này chủ yếu giải quyết các tranh chấp về hợp đồng
thương mại quốc tế, còn với những tranh chấp về hợp đồng thương mại trong nước thì rất
hạn chế, nguyên nhân do đâu xảy ra tình trạng nêu trên, tại sao doanh nghiệp Việt Nam
chưa thật sự “mặn mà” với việc đem tranh chấp của mình ra giải quyết tại trọng tài, theo
thống kê có đến hơn 95 % tranh chấp hợp đồng thương mại trong nước được đưa ra Tòa
án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.

Do pháp luật trọng tài còn bất cập ? hay các tổ chức trọng tài thương mại hoạt động chưa
hiệu quả ? hoặc hợp đồng thương mại và tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại có
nhiều đặc điểm khó đến mức không thể giải quyết tại trọng tài thương mại ? Để trả lời
vấn đề trên, theo chúng tôi cần phải có sự nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, cụ
thể những nguyên nhân nêu trên và việc tìm hiểu kinh nghiệm từ các nước khác là rất
quan trọng làm cơ sở so sánh với luật pháp trong nước để hoàn chỉnh phương thức giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài.
Sở dĩ có tình trạng nêu trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau, có quan điểm cho rằng
xuất phát từ pháp luật Trọng tài còn bất cập đối với nguyên nhân này thì chúng tôi không
đồng ý bởi vì tuy Pháp lệnh Trọng tài Thương mại và thực tiễn áp dụng các quy định của
Pháp lệnh vào quá trình tố tụng trọng tài có nhiều quy định chưa phù hợp, một số quy
10


định còn chồng chéo, thiếu rõ ràng gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của Trọng tài
như quy định về phạm vi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài còn nhiều bất cập; quy định
về thỏa thuận trọng tài chưa chặt chẽ, rõ ràng;chưa có sự quy định về vấn đề triệu tập
nhân chứng; quy định về thời hiệu và địa điểm xét xử còn chưa hợp lý; … Nhưng nhìn
chung, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã đủ mạnh, đủ khắc phục được những điểm bất
cập của các văn bản pháp luật trọng tài trước đây, đồng thời đưa ra nhiều chế định mới
phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật trọng tài quốc tế. Sở dĩ không phát huy
được sức mạnh của pháp lệnh Trọng tài không phải là do luật bất cập mà do sự nhận
thức hiểu biết áp dụng pháp luật trọng tài còn khác nhau của các cơ quan tiến hành tố
tụng và các Trọng tài viên chưa thể hiện được mình trong quá trình giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài.
Những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp còn xa lạ, chưa mặn mà với phương thức
giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài, theo chúng tôi cần tiếp cận
phân tích đó là những nguyên nhân phát sinh từ phía các doanh nghiệp, từ phía các Trung
tâm Trọng tài và cả từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án trong quá trình
nhận thức,áp dụng pháp luật trọng tài.

1)-Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp :
1.1-Doanh nghiệp trong nước và nước ngoài có sự nhận thức khác nhau khi lựa chọn
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Trong hợp đồng thương mại hiện nay về điều khoản giải quyết tranh chấp, các doanh
nghiệp trong nước thì thường hay chọn cơ quan giải quyết tranh chấp là cơ quan Tòa án
nhân dân có thẩm quyền vì các doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng trọng tài khi giải
quyết tranh chấp hợp đồng, họ cho rằng quyết định của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn
quyết định của trọng tài; họ chưa tin lắm về hiệu lực thi hành các quyết định trọng tài và
do họ chưa nhận biết được tính ưu việt hơn của phương thức giải quyết tranh chấp trọng
tài so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
Ngược lại các doanh nghiệp nước ngoài khi ký kết hợp đồng mua bán hay cung cấp dịch
vụ với các doanh nghiệp trong nước thì thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài nhiều hơn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án vì họ đã nhận thức
đầy đủ các ưu thế của Trọng tài : giải quyết tranh chấp nhanh về hiệu lực chung thẩm của
quyết định trọng tài; được quyền lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn giải quyết vụ
tranh chấp; phương thức giải quyết tranh chấp không công khai nên bí mật tranh chấp
được giữ kín thông tin tranh chấp rất hạn chế bị đưa lên các phương tiện thông tin đại
chúng. . . nhưng họ lại lựa chọn trọng tài nước ngoài nhiều hơn là trọng tài Việt Nam,chỉ
một số ít mới lựa chọn sử dụng Tòa án khi giải quyết tranh chấp.
1.2-Sự tác động khách quan khác làm mất đi cơ hội giải quyết tranh chấp các hợp
đồng thương mại bằng trọng tài.
a-Không có sự bình đẳng khi các doanh nghiệp đàm phán ký kết hợp đồng thương
mại

11


Sự lợi thế của một bên trong hợp đồng là điều kiện để bên lợi thế lấn lướt bên kia khi
buộc đối tác ký kết các hợp đồng thương mại theo mẫu hợp đồng của mình soạn thảo sẳn
và điều khoản giải quyết tranh chấp thì tùy theo hai bên của hợp đồng sẽ có sự lựa chọn

khác nhau : Nếu hai bên đều là doanh nghiệp Việt Nam thì bên lợi thế chọn Tòa án trên
địa bàn mình đóng trụ sở làm cơ quan giải quyết tranh chấp hoặc khi một bên là nước
ngoài một bên là Việt Nam thì bên Việt Nam luôn bị bên nước ngoài ép giải quyết tranh
chấp hợp đồng thương mại bằng một tổ chức trọng tài nước ngoài, luật áp dụng giải quyết
tranh chấp là luật nước ngoài bởi lẻ nếu không theo sự sắp đặt ý chí của bên lợi thế trong
hợp đồng thì bên yếu thế trong hợp đồng sẽ không bán được hàng hóa cần bán hoặc mua
được hàng hóa cần mua với giá rẻ.Từ sự không bình đẳng trong đàm phán ký kết hợp
đồng nêu trên đã làm cho trọng tài Việt Nam mất đi cơ hội được lựa chọn để giải quyết
tranh chấp.
b-Sự nhận thức không đầy đủ về cách thức giao kết điều khoản trọng tài dẫn đến điều
khoản trọng tài bị vô hiệu
Do không nắm được quy định của pháp luật, điều khoản giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài là thẩm quyền lựa chọn có điều kiện là phải lựa chọn đúng tên tổ chức trọng tài giải
quyết tranh chấp còn thẩm quyền của Tòa án là thẩm quyền đương nhiên và doanh nghiệp
cũng không biết rằng kết quả giải quyết của trọng tài là chung thẩm, không thể yêu cầu
Tòa án giải quyết tiếp tục khi trọng tài đã giải quyết xong nên khi các doanh nghiệp giao
kết điều khoản trọng tài như sau :
(*)Khi có tranh chấp hợp đồng xảy ra hai bên thống nhất chuyển vụ việc cho Trọng tài
Việt Nam giải quyết hay
(**) nếu không đồng ý với phán quyết của trọng tài thì bên thua có thể nhờ Tòa án giải
quyế tiếp tục”hoặc
(***)Khi có tranh chấp hai bên thống nhất lựa chọn trọng tài Việt Nam giải quyết lần
đầu và trọng tài Singapore giải quyết cuối cùng”
Ba điều khoản trên đều là những điều khoản trọng tài vô hiệu làm mất thẩm quyền giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài.
2)-Nguyên nhân từ phía các tổ chức trọng tài thương mại .
Song song với nguyên nhân hạn chế từ phía các doanh nghiệp nguyên nhân hạn chế từ
phía các tổ chức trọng tài thương mại cũng rất quan trọng làm cho các doanh nghiệp ngày
càng nhạt nhẻo hơn với phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nó được thể
hiện khá rõ nét về sự yếu kém của các tổ chức trọng tài trong điều hành hoạt động giải

quyết tranh chấp và sự chênh lệch về kiến thức chuyên môn và kỷ năng tố tụng trọng tài
của một số trọng tài viên.
2.1-Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài.
So sánh với nhiều nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, … hệ thống tổ chức các
cơ quan trọng tài trên toàn quốc của nước ta còn quá thưa thớt, cho đến thời điểm hiện
12


nay trên cả nước chỉ mới tổ chức được 8 trung tâm trọng tài với tổng số trọng tài viên
chưa đến 150 trọng tài viên. Đây là một hạn chế rất lớn làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của phương thức trọng tài. Với xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, các tranh
chấp thương mại được dự đoán sẽ gia tăng về số lượng, phức tạp về mức độ, nội dung
tranh chấp và phạm vi tranh chấp không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà còn mở
rộng trên phạm vi quốc tế. Chính những nhược điểm này làm cho các doanh nghiệp còn e
dè và chưa mạnh dạn lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp cho mình.
Hoạt động của các trung tâm trọng tài tự chủ về tài chính, lấy thu bù chi, nguồn thu của
các trung tâm trọng tài chủ yếu thu từ phí trọng tài. Trong khi đó, các trung tâm trọng tài
không thụ lý được nhiều vụ tranh chấp cho nên nguồn thu không nhiều hoặc không có
làm hạn chế khả năng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, công tác tuyên truyền của các
trung tâm trọng tài. Bên cạnh đó, một số trung tâm trọng tài không có trụ sở ổn định, các
trọng tài viên không được tập huấn, đào tạo thêm kỹ năng nghiệp vụ tố tụng trọng tài, …
Kết quả nghiên cứu và khảo sát về sự cần thiết của việc sử dụng phương thức trọng tài
trong giải quyết tranh chấp thương mại ở Việt Nam do Bộ Tư pháp tiến hành gần đây cho
thấy, có đến 75% ý kiến cho rằng cần thiết phải thành lập các trung tâm trọng tài. Tuy
nhiên, kết quả khảo sát cũng cho thấy có 21% trung tâm trọng tài chưa có trụ sở, 56% đã
có trụ sở nhưng chưa đáp ứng yêu cầu, chỉ có 23% đã có và đáp ứng yêu cầu.Về hệ thống
lưu trữ hồ sơ vụ tranh chấp theo thống kê chỉ có 8% trung tâm trọng tài có tổ chức hệ
thống lưu trữ và đáp ứng được yêu cầu, 69% trung tâm đã có hệ thống lưu trữ nhưng chưa
đáp ứng được yêu cầu và 23% hoàn toàn chưa có hệ thống lưu trữ hồ sơ vụ án.
2.2-Cách giải quyết bất cập của một số Trung tâm Trọng tài.

Kỷ năng tiếp nhận hồ sơ vụ kiện trọng tài của Ban Thư ký của các Trung tâm Trọng tài
cũng có vấn đề khi tiếp nhận hồ sơ : cách xác định thẩm quyền của người ký đơn khởi
kiện trọng tài; nội dung giấy ủy quyền của người có thẩm quyền cho người tham gia tố
tụng trọng tài; tính hợp lệ các chứng thư liên quan đến vụ kiện khi các bên cung cấp trong
hồ sơ vụ kiện trọng tài chưa hợp lệ theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài và quy tắc tố
tụng trọng tài còn khá nhiều bất cập gây lúng túng cho các Hội đồng Trọng tài khi nhận
hồ sơ của Ban Thư ký Trung tâm Trọng tài chuyển giao.
Sự bất cập còn thể hiện ở việc tiếp nhận vụ kiện xử lý một thời gian sau đó làm văn bản
chuyển sang cho Tòa giải quyết vì không có thẩm quyền, việc đã xảy ra tại một Trung
tâm Trọng tài khi thụ lý một vụ kiện Trọng tài một bên là một doanh nghiệp xây dựng,
một bên là chủ nhà thuê doanh nghiệp đó xây dựng công trình nhà ở, ngay từ đầu Trung
tâm Trọng tài đó đã biết chủ thể hai bên không thỏa mãn thẩm quyền trọng tài nhưng
Trung tâm Trọng tài đó vẫn nhận để thu phí trọng tài và hòa giải, nhiều lần mời qua lại
sau đó làm văn bản chuyển vụ kiện đó cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết, sau đó vụ
kiện được chuyển sang Tòa án giải quyết tiếp tục, cách tiếp nhận giải quyết như thế của
Trung tâm Trọng tài đã làm cho các doanh nghiệp ngày càng thờ ơ đối với phương thức
giải quyết tranh chấp hợp đồng bằng trọng tài.
2.3-Sự chênh lệch về kiến thức chuyên môn và kỷ năng tố tụng trọng tài của một số
13


trọng tài viên.
Sự chênh lệch này làm bộc lộ tính không chuyên nghiệp của các trọng tài viên. Bên cạnh
những trọng tài viên có chuyên môn nghiệp vụ pháp lý thì còn có những trọng tài viên chỉ
giỏi về chuyên môn nhưng thiếu kiến thức pháp luật về trọng tài và kỹ năng thao tác
trong tố tụng trọng tài.Theo khảo sát mới đây cho thấy có đến 72,6% ý kiến cho rằng các
trọng tài viên hiện nay thiếu kỹ năng giải quyết tranh chấp, 65% cho rằng thiếu số lượng
trọng tài viên, 51,1% cho rằng trọng tài viên thiếu kinh nghiệm nghề nghiệp, 44,7% cho
rằng thiếu trình độ chuyên môn và đặc biệt có đến 44,3% cho rằng các trọng tài viên hiện
nay thiếu kiến thức pháp luật.Chúng ta đều biết, giải quyết tranh chấp là một hoạt động trí

tuệ tương đối phức tạp.Do vậy, sự chênh lệch về khả năng giải quyết tranh chấp và cách
giải quyết bất cập của một số trọng tài viên dễ dẫn đến tình trạng các trọng tài viên ra
những phán quyết không đảm bảo những yêu cầu pháp lý, không chính xác hoặc không
thể thực hiện được.
2.4-Khả năng viết phán quyết của các trọng tài viên còn yếu và thiếu chặt chẽ
Khi khảo sát một số quyết định trọng tài cho thấy một số trọng tài viên viết quyết định
trọng tài còn thiếu chặt chẽ; từ lập luận nhận định về thẩm quyền, về thỏa thuận trọng tài,
về hành vi vi phạm của các bên,lý luận chấp nhận hoặc bác các yêu cầu của các bên chưa
đảm bảo tính lý luận và pháp lý, dẫn đến ra các phán quyết tuyên xử không chính xác;
không rỏ ràng, không chặt chẻ, không chuyên nghiệp và không đủ sức thuyết phục các
bên.Cho đến khi quyết định trọng tài có hiệu lực thi hành thì cơ quan thi hành án cũng
không thể thi hành được trong thực tế.
3)-Nguyên nhân từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan nhà nước khác
3.1-Cơ quan Tòa án nhân dân :
Đây là nguyên nhân làm cản trở phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phát
triển, thay vì một số Tòa án nhận thức trọng tài là một phương thức hỗ trợ đắc lực cho
Tòa án giảm tải giải quyết các tranh chấp bằng thương mại, ngược lại có Tòa án lại giành
cả việc xét xử của trọng tài mà vụ tranh chấp giữa công ty Trường Sanh với Công ty Nhã
Quán là một điễn hình gần đây nhất của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý xét xử
xét xử tranh chấp khi hợp đồng tranh chấp đó thuộc thẩm quyền của Trung tâm Trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC).
3.2-Cơ quan Thi hành án :
Pháp lệnh trọng tài thương mại và pháp lệnh thi hành án dân sự đã quy định rõ quyết định
trọng tài sẽ do cơ quan thi hành án thi hành nếu bên bị thi hành không tự nguyện thực
hiện nhưng trên thực tế do bản án phải thi hành của Tòa án quá nhiều và quy định cơ
quan thi hành án phải thi hành các quyết định trọng tài chưa thẩm thấu vào cơ quan thi
hành án nên khi bên được thi hành làm đơn yêu cầu thi hành quyết định trọng tài thì cơ
quan thi hành án còn lúng túng và còn so đo phải thi hành án các bản án của Tòa án trước
các quyết định của trọng tài.


14


Như vậy, cách hiểu và nhìn nhận các quy định pháp luật của các cơ quan tư pháp trong
hoạt động trọng tài cũng là một khía cạnh quan trọng làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của phương thức trọng tài. Giá như, các cơ quan tiến hành tố tụng có cách hiểu
đúng đắn các quy định của luật thì chắc chắn rằng các cơ quan này sẽ có sự hỗ trợ tích
cực đối với hoạt động của trọng tài và vì thế mà sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
của phương thức trọng tài.
Từ những nội dung phân tích trên, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị nhằm có
thể đưa phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đi vào thực tiễn tranh
chấp của các doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập hiện nay và để thực hiện tốt các
cam kết khi nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Thứ nhất : Đối với các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp nước ngoài đều sử dụng phương thức
trọng tài cho nên doanh nghiệp Việt Nam không thể nằm ngoài quy luật chung đó. Khi
hội nhập kinh tế quốc tế thì các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài ngày càng
nhiều và phức tạp, doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiếp cận với phương thức trọng tài
như là điều khoản cần có trong luật chơi trong nước và quốc tế.
Thiết nghĩ, việc các doanh nghiệp Việt Nam cần nhận thức lại về phương thức giải quyết
tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài và cần nhận thức một cách đầy đủ những
ưu thế khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, thời gian giải quyết
tranh chấp nhanh, ít tốn kém chi phí, hiệu lực quyết định trọng tài là chung thẩm rút ngắn
được các trình tự giải quyết hai cấp, giữ được bí mật kinh doanh, được lựa chọn người có
chuyên môn tương ứng với vụ tranh chấp để giải quyết tranh chấp, các thủ tục lấy lời khai
của các bên trong giải quyết tranh chấp trọng tài hết sức văn minh bằng văn bản, quyết
định trọng tài được cơ quan thi hành án thi hành theo Luật thi hành án dân sự. . . . Song
song đó trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều vụ
tranh chấp thương mại, đầu tư, nội dung tranh chấp ngày càng phức tạp mà các nước trên
thế giới đều chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hiệu quả và hợp lý

nhất.
Thứ hai : Đối với các trung tâm trọng tài.
Các trung tâm trọng tài cần chủ động, tích cực hơn trong việc mở rộng danh sách trọng
tài viên, đặc biệt chú trọng tới các chuyên gia có uy tín và trình độ chuyên môn cao; bồi
dưỡng nâng cao trình độ của các trọng tài viên hiện có nhằm nâng cao chất lượng giải
quyết tranh chấp của các trung tâm trọng tài.
Các trung tâm trọng tài cần tăng cường hợp tác với các tổ chức trọng tài trong và ngoài
nước nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận được những sự hỗ trợ cần thiết; thường
xuyên tổ chức việc tuyên truyền, giới thiệu về tổ chức và hoạt động của mình cho các
doanh nghiệp… Nếu làm được như vậy, chắc chắn hoạt động trọng tài trong thời gian tới
sẽ có những chuyển biến tích cực, những kết quả đáng kể hơn trong thời gian tới.
Các trung tâm trọng tài nên có các chương trình xúc tiến, thậm chí tự tiếp thị, và chủ
15


động học hỏi cách làm của trọng tài các nước, thay vì chờ đợi một cách thụ động.Chú
trọng đến việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề cho đội ngũ trọng tài
viên nhằm nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo phán quyết của mình đúng pháp
luật.Phối hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác như cơ quan Tòa án, cơ quan
thi hành nhằm đảm bảo phán quyết của mình được thi hành đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba : Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan thi hành án
Bên cạnh việc hoàn thiện một số quy định pháp luật về trọng tài, nâng Pháp lệnh trọng tài
thành Luật Trọng tài thương mại thiết nghĩ cần có những quy định cụ thể về quá trình hỗ
trợ của các cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài.Để có thể làm được việc đó
theo chúng tôi cần thiết phải xây dựng một văn bản quy định việc hướng dẫn áp dụng các
quy định của pháp luật trọng tài và Bộ luật tố tụng dân sự (có thể là một thông tư liên
tịch) trong đó cần quy định cụ thể việc hỗ trợ của cơ quan Tòa án và cơ quan thi hành án
đối với hoạt động của trọng tài.Chỉ có thế, mới làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
thi hành án có cách hiểu đúng và toàn diện về các quy định của pháp luật trọng tài trong
việc hỗ trợ hoạt động cho trọng tài.Từ đó, làm cho hoạt động hỗ trợ của các cơ quan tiến

hành tố tụng đối với quá trình tố tụng trọng tài mang tính tích cực và đạt hiệu quả cao
hơn.
Việc nhà nước cho phép tổ chức thí điểm hoạt động “Thừa phát lại” tại Thành phố Hồ
Chí Minh là tín hiệu tốt góp phần đẩy mạnh hoạt động thi hành án và tạo điều kiện cho
các bên thực hiện công việc thu thập chứng cứ để tự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
mình khi bị xâm phạm trước các cơ quan tài phán tranh chấp sẽ góp phần không nhỏ cho
hoạt động trọng tài phát triển trong việc giải quyết tranh chấp và thi hành quyết định
trọng tài.
Thứ tư : Cần học hỏi kinh nghiệm của một số nước quy định pháp luật về trọng tài
Về mặt pháp luật trọng tài: Hầu như pháp luật các nước đều quy định rất rộng thẩm
quyền của trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp; cho phép hội đồng trọng tài được
quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; quy định hợp lý, cụ thể địa điểm tiến
hành giải quyết tranh chấp; thành lập hiệp hội trọng tài nhằm giám sát hoạt động của
trọng tài…Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đang từng bước
thử thách vào sân chơi quốc tế. Nên chăng, chúng ta cần tiếp thu và học kinh nghiệm về
pháp luật trọng tài của các nước phát triển nhằm hoàn thiện hơn nữa khung pháp lý của
chúng ta và từ đó tạo hành lang pháp lý thật sự vững chắc cho hoạt động của trọng tài nói
riêng và các lĩnh vực khác.
Về cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt động của trọng tài: trọng tài các nước trên thế
giới hoạt động rất hiệu quả chính là nhờ cơ chế hỗ trợ tích cực của tòa án trong quá trình
tham gia tố tụng trọng tài.Ở Mỹ, tòa án hầu như tham gia toàn bộ vào quá trình tố tụng
trọng tài từ việc xem xét thỏa thuận trọng tài cho đến lúc Hội đồng trọng tài ra phán
quyết…hay ở Trung Quốc, tòa án cũng tham gia rất tích cực, có hiệu quả vào hoạt động
của trọng tài…Chính vì thế, mà làm cho hoạt động của trọng tài ở các nước diễn ra nhanh
chóng, tích cực, giải quyết nhanh gọn và đáp ứng quyền lợi của các bên.Từ thực tiễn của
16


các nước, thiết nghĩ Việt Nam chúng ta cũng cần có các quy định cụ thể về sự hỗ trợ của
tòa án đối với hoạt động của trọng tài.Tòa án cần có sự hỗ trợ tích cực hơn nữa trong quá

trình giải quyết tranh chấp của trọng tài, tránh tình trạng chồng chéo thẩm quyền giữa
trọng tài và tòa án, tránh cho quá trình giải quyết tranh chấp bị gián đoạn, thiếu linh hoạt
và không đạt hiệu quả.
Về sử dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài : Việc áp dụng án lệ trong
giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại nói riêng và tranh chấp thương mại nói chung
được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia. Trong hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam,
việc áp dụng án lệ đã được từng bước thực hiện một cách không chính thức trong việc
ban hành các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tối cao
đối với Tòa án các cấp dưới hình thức báo cáo tổng kết hoạt động hàng năm; các công
văn khoa học xét xử, việc ban hành rộng rãi các quyết định Giám đốc thẩm đối với các
bản án hình sự, dân sự, thương mại,lao động và hành chính. Chúng tôi cho rằng đó là
những tín hiệu tốt ban đầu để các nhà lập pháp Việt Nam có thể công nhận án lệ là một
nguồn chính thức của hệ thống pháp luật Việt Nam được áp dụng trong hoạt động giải
quyết tranh chấp.
Việc tìm hiểu, chọn lọc, tiếp thu kinh nghiệm của các nước bổ sung cho pháp luật trọng
tài Việt Nam là hết sức cần thiết trong thời điểm hiện nay khi nước ta đang hội nhập sâu
vào nền kinh tế khu vực và thế giới.Một vấn đề được đặt ra là ta sẽ tiếp thu nội dung gì ?
cái gì thuận lợi, phù hợp cho phát triển; không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
nước ta theo chúng tôi cần tiếp thu và tiếp thu một cách nhanh chóng để làm giảm bớt sự
tụt hậu, sự chênh lệch về kỹ thuật giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng
tài giữa trọng tài viên trong nước và nước ngoài, song song đó cũng sẽ góp phần ngày
càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam.

17



×