Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

đề cương ôn tập pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.76 KB, 18 trang )

ĐÊ 1:
I)phân tu luan
Câu 1:phap luat la j?phap luat co nhung thuoc tinh j?
*Định nghĩa Pháp luật:
Pháp luật là hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước
ban hành hoặc thứa nhận và đảm bảo thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội pháp triển phù hợp với lợi ích của
giai cấp mình.

*Các thuộc tính của Pháp luật:
- Tính bắt buộc chung (tính qui phạm phổ biến): Trước hết, qui phạm được hiểu là
những qui tắc xử sự chung, được coi là khuôn mẫu, chuẩn mực, mực thước đối với
hành vi của 1 phạm vi cá nhân, tổ chức. Pháp luật được biểu hiện cụ thể là
những qui phạm pháp luật. Do vậy nó cũng là qui tắc xử sự chung cho phạm vi cá
nhân hoặc tổ chức nhất định. Pháp luật được Nhà nước ban hành hay thừa nhận
không chỉ dành riêng cho một cá nhân, tổ chức cụ thể mà áp dụng cho tất cả các
chủ thể. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa Pháp luật với các loại qui phạm khác ở
chỗ:Pháp luật là qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung.
VD: Pháp luật qui định: mọi chủ thể kinh doanh phải nộp thuế.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Yêu cầu của pháp luật là phải xác định
chặt chẽ về mặt hình thức, được biểu hiện ở:
+Lời văn: phải chính xác, cụ thể, dễ hiểu, không đa nghĩa. Nếu không đúng được
yêu cầu này, chủ thể sẽ hiểu sai, hiểu khác.
+Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và thông qua cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên mỗi một cơ quan/ loại cơ quan chỉ được ban
hành những loại văn bản nhất định có tên gọi xác định và theo một trình tự, thủ tục
nhất định.
VD: Hiếu pháp, bộ luật: Quốc hội mới có quyền ban hành
Nghị định: Chính phủ mới có quyền ban hành
+Sự xác định chặt chẽ trong cấu trúc của Pháp luật.
- Tính đảm bảo được thực hiện bằng Nhà nước: Pháp luật do Nhà nước ban hành


và thừa nhận đồng thời Nhà nước sẽ đảm bảo cho Pháp luật đó được thực hiện
trong thực tiễn đời sống. Sự đảm bảo đó được thể hiện:
+Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích giúp đỡ để chủ thể thực hiện pháp luật.
+Nhà nước đảm bảo cho Pháp luật được thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước.
1

1


Tính cưỡng chế là tính không thể tách rời khỏi Pháp luật.Mục đích cưỡng chế và
cách thức cưỡng chế là tùy thuộc bản chất Nhà nước.
Đặc điểm của pháp luật:
- PL thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
- PL là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung.
- PL do Nhà nước đặt ra và bảo vệ.
II) phan trac nghiem
Câu2:chính phủ có vị trí ? chức năng ntn?
-) vi tri cua chinh phu:
theo điều 1 – Luật tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001 thì “Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của
nước
Cộng
hoà

hội
chủ
nghĩa
Việt
Nam.

Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy
nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp
và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân
dân.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước” . Và theo điều 109 Hiến pháp 1992
“ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ”. Qua hai điều
trên ta thấy Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội, vừa là cơ quan
hành
chính
nhà
nước
cao
nhất
.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội thể hiện ở :
Thứ nhất Quốc hội thành lập ra Chính phủ, quy định cơ cấu tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn cho Chính phủ . Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của
Quốc
hội,
nhiệm

theo
nhiệm

của

Quốc
hội
.
Thứ hai Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội,
Ủy
ban
thường
vụ
Quốc
hội,
chủ
tịch
nước.
Thứ ba thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, có thể
bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm,cách chức theo quy định của pháp luật, nhiệm

theo
nhiệm

của
Quốc
hội
.
Thứ tư, Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quy định vào
trong Nghị quyết của Quốc hội à Chính phủ tổ chức, triển khai thực hiện có hiệu
quả trên cơ sở cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, phân công, đề ra các biện
pháp thích hợp, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế.
2


2


Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất thể hiện ở :
Hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động chủ yếu,bao trùm toàn bộ các lĩnh vực
thuộc chức năng của Chính phủ được Hiến pháp quy định, hoạt động quản lý nhà
nước của Chính phủ bao trùm toàn bộ các lĩnh vực trong phạm vi cả nước : kinh
tế, văn hóa,xã hội Chính phủ thực hiện vai trò lãnh đạo,chỉ đạo,hướng dẫn thực
hiện và kiểm tra hoạt động của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính
phủ và Uỷ ban nhân dân như vậy sẽ đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động quản
lý nhà nước. Bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo
đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và
nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân .
2.
Chức
năng
của
Chính
phủ
Về chức năng, dù có tên gọi khác qua bốn bản Hiến pháp nhưng Chính phủ đều
được xác định là cơ quan Nhà nước có chức năng hành pháp và Chính phủ còn có
chức năng quan trọng là quản lí đất nước theo quy định của Hiến pháp và Pháp
luật.Chức năng của Chính phủ được thể hiện thông qua việc :
Thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
Đảm bảo hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Đảm
bảo
tôn
trọng


thực
hiện
Pháp
luật.
Đảm bảo ổn định và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân .

Câu 3: tòa an nhân dân và viên kiểm sát nhân dân có chức năng nhiêm vu j?
*)chuc nang nhiem vu của toa an nhan dan:
Ở nước ta, trong bộ máy các cơ quan Nhà nước, toà án có một vị trí rất quan trọng.
Cùng với quân đội, cảnh sát, công tố... toà án hợp thành một thứ vũ khí sắc bén đấu
tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật bảo vệ thành quả của cách mạng,
chống lại sự phản kháng của các giai cấp đối kháng, góp phần xây dựng và phát
triển xã hội. Chính vì có vị trí quan trọng như vậy nên toà án là một trong số những
cơ quan nhà nước ra đời sớm nhất. Chỉ 11 ngày sau khi Hồ Chủ Tịch đọc Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ngày 13/09/1945
Người đã kí Sắc lệnh thiết lập các toà án quân sự đánh dấu sự ra đời của ngành toà
án ở nước ta.
Trong suốt 55 năm tồn tại và phát triển với bao thăng trầm của lịch sử, hệ thống toà
án ở nước ta ngày càng được củng cố và không ngừng phát triển cả về số lượng và
chất lượng, đóng vai trò là công cụ để Nhà nước thực hiện quyền lực trong quản lí
xã hộinói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Bằng các Sắc lệnh được ban hành
3

3


trong thời kì chống thực dân Pháp như Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 tổ chức các
toà án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền
xét xử của toà án các cấp...Các quy định trong Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959,

Luật tổ chức toà án nhân dân 1960, Hiến pháp1980, Luật tổ chức toà án nhân dân
1981, Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức toà án nhân dân 1992, tổ chức về hoạt động
của toà án nhân dân ngày càng có các căn cứ pháp lí và đạt được hiệu quả cao.
Mặc dù đất nước trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ giai đoạn 9 năm
kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, giai đoạn xây dựng CNXH ở miền
Bắc, kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954-1975 đến giai đoạn đất nước thống
nhất, cả nước đi lên CNXH từ 1975 trở đi và nay là giai đoạn cả nước đang tiến
hành công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng nhằm mục tiêu
xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, nhưng toà án ở nước ta vẫn luôn
thực hiện chức năng rất quan trọng là xét xử.
Trong hiến pháp đầu tiên của nước ta được thông qua vào ngày 9/11/1946, mặc dù
không có một điều luật cụ thể nào khẳng định toà án có chức năg xét xử, nhưng nội
dung của các điều luật đều toát lên một nội dung là ở nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà việc xét xử các việc hình sự, dân sự, thương sự đều thuộc thẩm quyền của toà
án. Chương VI của Hiến pháp 1946 với tên gọi "cơ quan tư pháp" có 7 điều quy
định về tổ chức bộ máy và các nguyên tắc hoạt động của ngành toà án. Điều 63
Hiến pháp 1946 quy định: "Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
gồm
có:
a, Toà án nhân dân tối cao;
b, Các toà phúc thẩm;
c, các toà đệ nhị cấp và sơ cấp."Vào thời kì đó, khái niệm cơ quan tư pháp được
hiểu theo nghĩa hẹp của từ này tức là xét sử, và vì vậy, có thể hiểu cơ quan tư pháp
chính là cơ quan xét xử. Sau này các Điều 97 Hiến pháp 1959, Điều 128 Hiến pháp
1980 và gần đây nhất là Điều 127 Hiến pháp 1992 đều khẳng định ở nước ta Toà
án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà
án khác do luật định đều là cơ quan xét xử. Nội dung các điều trên của các bản
hiến pháp đã được cụ thể hoá trong Điều 1 Luật tổ chức toà án nhân dân được
Quốc hội khoá IX thông qua ngày 6/10/1992 tại kì họp thứ nhất.
Xét xử là một chức năng chỉ thuộc về toà án, không một cơ quan nhà nước, một tổ

chức nào khác có thể thay thế toà án thực hiện chức năng xét xử. Khi thực hiện
chức năng xét xử, toà án nhân danh Nhà nước xem xét nội dung vụ án hình sự và
các loại tranh chấp khác để cuối cùng ra phán quyết ai đúng, ai sai. Chính vì nhân
danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử nên phán quyết của toà án cho dù nó
được thể hiện bằng quyết định hay bằng bản án vẫn có giá trị bắt buộc đối với tất
cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân.

4

4


Đối tượng xét xử của toà án trong hơn nửa thế kỉ qua ngày càng được mở rộng.
Điều này được giải thích bởi khi xã hội ngày càng phát triển thì càng có nhiều quan
hệ xã hội cần phải điều chỉnh bằng pháp luật.Để thực hiện chức năng điều chỉnh
các quan hệ xã hội mới phát sinh, Nhà nước phải thường xuyên ban hành pháp luật
và cùng với sự ra đời của các văn bản pháp luật mới, nhiều ngành luật mới cũng ra
đời. Sự đa dạng các ngành luật trong hệ thống pháp luật cũng chính là tiền đề làm
phát sinh sự đa dạng của các hành vi và quyết định pháp lí. Và đến lượt nó,sự đa
dạng của các hành vi và quyết định pháp lí làm phát sinh sự đa dạng của các tranh
chấp giữa các chủ thể và các loại quan hệ pháp luật là cá nhân, pháp nhân, Nhà
nước - đối tượng xét xử của toà án. Theo hiến pháp 1946; toà án chỉ xét xử các vụ
hình sự, dân sự và thương sự. Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992 đã vừa mở
rộng đối tượng xét xử của toà án vừa quy định cụ thể là các toà án xét sử những vụ
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình , lao động và những vụ án khác theo quy
định của pháp luật (K2. Đ1).
Trong những năm gần đây, việc thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng
đã mang lại nhiều thành tựu to lớn. Cơ chế kinh tế mới đã dần dần hình thành. Vấn
đề bảo đảm dân chủ và bình đẳng trong hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh
doanh đòi hỏi một cơ chế mới giải quyết các tranh chấp về kinh tế. Tổ chức và hoạt

động của trọng tài kinh tế không còn phù hợp, việc giải quyết các tranh chấp kinh
tế cần thiết phải giao cho toà án. Vì thế Luật tổ chức toà án nhân dân năm 1992 đã
được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà
án nhân dân năm 1992 được Quốc hội thông qua ngày 28/12/1993 với nội dung các
toà kinh tế thuộc toà án nhân dân tối cao và các toà án nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương được thực hiện với chức năng giải quyết các tranh chấp
kinh tế khi có yêu cầu từ phía các bên tranh chấp. Tiếp theo, ngày 28/10/1995
Quốc hội lại thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức toà án
nhân dân năm 1992 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 1993. Theo luật mới này,
trong Toà án nhân dân tối cao và các toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương thành lập thêm các toà chuyên trách là Toà hành chính và Toà lao động
để xét xử cá vụ án về hành chính và các vụ án về lao động. Như vậy, cho tới thời
điểm này, ở nước ta, với vai trò là cơ quan xét xử, toà án không chỉ đơn thuần xét
sử về hình sự và dân sự như trước đây mà thẩm quyền của toà án đã mở rộng hơn
và nó thực hiện chức năng xét xử cả các tranh chấp về kinh tế, hành chính và lao
động.
Giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính, kinh tế thực chất là quá
trình áp dụng pháp luật của toà án. Đây cũng là một khâu trung tâm của hoạt động
tư pháp và với vai trò nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét sử, toà án ra
bản án hoặc quyết định có tính chất kết luận về vụ án với những nội dung quan
trọng như có hay không có sự kiên pháp lí (có tội phạm hoặc tranh chấp hay
không), ai hoặc bên nào là người có lỗi, trách nhiệm pháp lí của từng người hoặc
5

5


từng bên như thế nào. Tham gia vào giải quyết các vụ án nói trên có một số cơ
quan như cơ quan điều tra, viện kiểm sát, giám định, luật sư (trong tố tụng hình sự)
và viện kiểm sát, giám định, luật sư, công chứng (trong tố tụng hành chính, kinh tế,

lao động, dân sự) nhưng không một cơ quan nào trong số các cơ quan nói trên
được quyền ra phán quyết cuối cùng. Cơ quan điều tra có quyền đề nghị viện kiểm
sát truy tố bị can ra toà, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra; viện kiểm
sát có quyền truy tố bị can ra toà bằng bản cáo trạng, luận tội bị cáo, nhưng cả hai
cơ quan này đều không có quyền khẳng định ai là người có tội, tội gì và phải chịu
trách nhiệm hình sự như thế nào. Xuất phát từ nguyên tắc suy đoán vô tội, trong tố
tụng hình sự, chỉ toà án mới có quyền phán quyết một người là có tội và cũng chỉ
toà án mới được quyền áp dụng hình phạt với người phạm tội.
Trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động, hành chính, cho dù vụ án hay tranh chấp
được khởi kiện bởi các bên đương sự hoặc khởi tố bởi viện kiển sát thì phán quyết
cuối cùng vẫn thuộc về cơ quan xét xử là toà án, các chứng cứ do các bên đưa ra, ý
kiến đề xuất giải quyết vụ án của viện kiểm sát có giá trị để toà án cân nhắc, đánh
giá, xem xét trước khi bản án hoặc quyết định về vụ án hoặc tranh chấp đó.
Để thực hiện chức năng xét xử là xem xét các tranh chấp và ra các phán quyến
bằng bản án hoặc quyết định, trong tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính, tố tụng dân
sự, lao động , toà án còn thực hiện nhiệm vụ điều tra , thu thập chứng cứ. Điều 3
Pháp lệnh các thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định: "Đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình. Toà án có nhiệm vụ xem xét mọi
tình tiết của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ bảo đảm cho việc
giải quyết vụ án được chính xác". Tương tự Điều 4 thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế quy định: "Khi cần thiết, toà án có thể xác minh, thu thập chứng cứ để bảo
đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác".Quy định toà án có nhiệm vụ xác
minh, thu thập chứng cứ phục vụ cho hoật động xét xử là một điều kiện bảo đảm
cho hoạt động xét xử đạt chất lượng cao. Trong thực tiễn, các chứng cứ, tài liệu do
các đương sự hoặc cácbên tranh chấp cung cấp không phải bao giờ cũng đầy đủ và
phản ánh thực tế khách quan và để khắc phục điều này, toà án yêu cầu cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp các tài liệu, chứng cứ và trong những
trườmg hợp cần phải xác minh tính chính xác của các tài liệu, chứng cứ, toà án ra
quyết định trưng cầu giám định.
Theo quy định của các pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế,

hành chính, lao động, trước khi xét xử, các đương sự, các bên có quyền hoà giải
với nhau. Điều 2 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định; 'Người
khởi kiện có quyền rút đơn khởi kiện, thay đổi nội dung đơn kiện, các đương sự có
quyền hoà giải với nhau." và Điều 36 quy định: "Trước khi mở phiên toà, toà án
tiến hành hoà giải để các đương sự có thể hoà giải với nhau về việc giải quyết vụ
án...khi các đương sự thoả thuận được với nhau về viêch giải quyết vụ ánthì toà ná
6

6


lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định cộng nhận sự thoả thuận của các
đượng sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật". Trong các văn bản quy định về
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hành chính, lao động cùng có các quy định về
thủ tục hoà giải tương tự. Như vậy, có thể nói quá trình giải quyết các vụ án kinh
tế, dân sự, hành chính, lao động, hoà giải được coi là bắt buộc. Tham gia vào quá
trình hoà giải của các đương sự hoặc các bên, toà án hướng dẫn, giải thích cho họ
để họ có những thoả thuận hoàn toàn theo ý chí của mình nhưng không trái với các
quy định của pháp luật. Trong thực tế, sự thoả thuận của các bên, các đương sự
trong quá trình hòa giải rất có thể bị vi phạm hoặc không được thực hiện, vì vậy, để
thoả thuận ấy trở thành hiện thực và hai bên phải có nghĩa vụ tuân theo thì thoả
thuận đó phải được "pháp luật hoá" bởi một quyết định công nhận của toà án.
Quyết định này cũng như các quyết định khác hoặc bản án của toà án có hiệu lực
pháp luật và các bên tham gia hoà giải có nghĩa vụ thực hiện. Vì vậy, có thể nói
rằng, trong quá trình hoà giải giữa các đương sự, ngoài nhiệm vụ làm người hướng
dẫn, định hướng, giải thích pháp luật cho các bên toà án còn thực hiện nhiệm vụ
của một cơ quan nhân danh Nhà nước pháp luật hoá hay nói cách khác là ghi nhận
sự thoả thuận của các bên trong quá trình hoà giải.
Phiên toà xét xử bất kể là vụ án gì, hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính, lao độngthì
nó vẫn là một trong những hình thức tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật cho

quần chúng nhân dân. Qúa trình thẩm vấn, tranh luận tại phiên toà thực chất là một
cuộc điều tra công khai nhất, toàn diện nhất và dân chủ nhất. Chính tại phiên toà
xét xử, dưới sự điều khiển của thẩm phán chủ toạ phiên toà, cac bên, các dương sự,
bị cáo và những người tham gia khác có cơ hội bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình
về vụ án, và vì vậy, sự phán quyết của hội đồng xét xử bằng bản án hay quyết định
với nội dung nào đều được coi là kêts quả của quá trình thẩm vấn và tranh tụng mà
các bên đã được trực tiếp tham gia. Những người trực tiếp có mặt trong phòng xử
án cũng như quần chúng nhân dân không có mặt nhưng được thông tin về phiên toà
đều tiếp nhận được những kiến thức mới về pháp luật.
Vụ án hình sự, các tranh chấp về hành chính, kinh tế, lao động luôn là hậu quả của
những yếu tố, những yếu tố nào đó được coi là những nguyên nhân và điều kiện
phát sinh tội phạm và vi phạm pháp luật. Thông qua nhiệm vụ xét xử, toà án còn có
nhiệm vụ phát hiện ra những nguyên hnân chủ quan, nguyên nhân khách quan,
những thiếu sót trong công tác quản lí của các chủ thể khác nhau dẫn đến tội phạm
và vi phạm để từ đó có những sáng kiến pháp luật hoặc kiến nghị với nhiều nội
dung nhau gửi tới cơ quan có thẩm quyền. Với vai trò là một bộ phận hợp thành
của công cụ quản lí xã hội, vũ khí bảo vệ trật tự pháp luật ,hoạt động của toà án
nhân dân hướng tới mục tiêu "bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của
tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân"./.
7

7


*)chuc nang nhiem vu của viên kiểm sát nhan dan:
kể từ khi ra đời đến nay, trải qua gần 52 năm thành lập và phát triển, chức
năng, nhiệm vụ và vị trí của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước về cơ bản được
quy định thống nhất trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 1992 (sửa

đổi, bổ sung năm 2001):
+ Về chức năng công tố: Viện kiểm sát là cơ quan nhà nước duy nhất được giao
trách nhiệm thực hành quyền công tố, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Nội dung cơ bản của chức năng
công tố là truy tố bị can ra trước Toà án (đưa ra lời buộc tội nhân danh nhà nước
thể hiện trong cáo trạng và duy trì buộc tội trước Toà án) để truy cứu trách nhiệm
hình sự của người đó, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt
của Bộ luật Hình sự. Hoạt động công tố luôn là hoạt động chủ đạo của VCT cũng
như VKS ở các nhà nước khác nhau bởi lẽ đấu tranh chống tội phạm luôn là mối
quan tâm hàng đầu của mọi nhà nước. (Cần nói rõ không phải từ Hiến pháp năm
1980 trở đi VKS mới thực hiện chức năng công tố; mà hoạt động ‘truy tố trước Toà
án nhân dân những người phạm pháp hình sự” đã được quy định tại điểm b Điều 3
của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và được VKS thực hiện ngay
từ khi thành lập).
+ Về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật: Chức năng này được ghi nhận
xuyên suốt các bản Hiến pháp từ Hiến pháp năm 1959 trở đi. Chức năng này có
phạm vi rất rộng, bao gồm hoạt động kiểm sát chung, kiểm sát tuân theo pháp luật
trong việc điều tra của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc giam giữ và cải tạo. Kiểm sát chung là một lĩnh vực hoạt
động của VKS có phạm vi liên quan đến tuân thủ pháp luật trong hoạt động của
các cơ quan hành pháp từ cấp Bộ trở xuống, chính quyền địa phương các cấp, tổ
chức và công dân. Hình thức phổ biến vi phạm pháp chế thống nhất của các cơ
quan nhà nước, chính quyền địa phương là vì lợi ích cục bộ đã không thực hiện
đúng luật hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của mình trái với luật
làm vô hiệu hoá hoặc biến dạng các quy định của luật do nhà nước Trung ương ban
hành. Để pháp luật được tuân thủ và được chấp hành nghiêm chỉnh, đòi hỏi phải
thiết lập hoạt động giám sát theo dõi việc ban hành các văn bản quy phạm pháp

luật của các cơ quan hành pháp từ cấp Bộ trở xuống, của chính quyền các cấp và
việc chấp hành pháp luật trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan này để có thể
xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật xảy ra nhằm bảo đảm tính bắt buộc chung
của pháp luật, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Hiến pháp năm
1992 sửa đổi, bổ sung (năm 2001) đã thu hẹp phạm vi chức năng kiểm sát tuân
8

8


theo pháp luật, bỏ hoạt động kiểm sát chung của VKS. Phạm vi còn lại của chức
năng kiểm sát tuân theo pháp luật được thể hiện trong thuật ngữ mới là “kiểm sát
các hoạt động tư pháp” bao gồm hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật của các cơ
quan nhà nước, những chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật thuộc các lĩnh
vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, các hoạt động tố tụng khác như tố tụng hành
chính, thủ tục phá sản, thi hành các bản án, quyết định của Toà án nhân dân, kiểm
sát tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành hình phạt tù. Kiểm sát hoạt động tư pháp cũng được nhìn nhận như là
một đặc trưng của mô hình VKS. Mặc dù có những thay đổi nhất định nhưng về
tổng thể, sự tồn tại của VKS trong gần 52 năm vừa qua luôn gắn liền với hai chức
năng hiến định là kiểm sát tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố. Viện
kiểm sát luôn là một hệ thống cơ quan nhà nước có các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động đặc thù, có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước. Nhiệm vụ của VKS đã
được ghi nhận nhất quán trong Hiến pháp là “bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của
Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân”.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, nhiệm vụ tăng cường pháp chế đã
được gắn với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền và Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 được xem như là một trong những giải pháp quan trọng đáp

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Viện kiểm
sát là một thành tố trong hệ thống các cơ quan tư pháp, do vậy, vấn đề hoàn thiện
mô hình VKS trong giai đoạn phát triển mới của đất nước xuất phát từ chính yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và từ mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ của cải cách tư pháp. Xây dựng nhà nước pháp quyền
không làm thay đổi bản chất nhà nước và nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước ở
nước ta mà chỉ làm đậm nét hơn bản chất của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân của nhà nước, thực hiện triệt để hơn nguyên tắc nhân dân là chủ thể của quyền
lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước đặt dưới sự
giám sát của nhân dân. “Cải cách tư pháp phải bảo đảm sự ổn định chính trị, bản
chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”(5). Trong mọi vấn đề của cải cách tư
pháp - trong đó có vấn đề nghiên cứu chuyển đổi VKS thành VCT hay không
chuyển đổi, chúng ta không thể bỏ qua đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Đây là xuất phát điểm về phương pháp luận quan trọng khi
nói đến yêu cầu, nội dung của cải cách tư pháp nói chung và hoàn thiện VKS nói
riêng.
Câu 4: y thuc phap luat la gi?neu cac dac diem cua y thuc phap luat:
_ Ý thức pháp luật (YTPL) là 1 hình thái ý thức xã hội, về cấu trcúc bao gồm 2 bộ
phận: Tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật.Tâm lý pháp luật hình thành 1 cách
9

9


tự phát dưới dạng tình cảm, tâm trạng , cảm xúc đối với các hiện tượng pháp luật
xảy ra trong đời sống xã hội. Tư tưởng pháp luật là tổng hợp các quan điểm, quan
niệm có tính lý luận, phản ánh các hiện tượng pháp luật 1 cách sâu sắc, tự giác
dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa học.YTPL của 1 người có vai trò rất
quan trọng trong việc thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Vì vậy nâng cao ý
thức pháp luật là trách nhiệm của mỗi công dân.

-)đac diem :
Tổng hợp những quan điểm, tư tưởng, học thuyết thể hiện thái độ của con người,
các nhóm xã hội, giai cấp... đối với pháp luật, pháp chế cũng như những quan điểm
của họ về sự hợp pháp và không hợp pháp. Sự thể hiện tập trung của YTPL một
hình thái ý thức xã hội - là hệ tư tưởng pháp luật, tức là hệ thống các quan điểm
pháp luật dựa trên những lập trường khoa học và xã hội nhất định. YTPL có các
nội dung chủ yếu: 1) Sự hiểu biết về pháp luật; 2) Thái độ đối với pháp luật; 3)
Khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật. YTPL gắn bó mật thiết với văn hoá pháp
luật và văn hoá nói chung. Nâng cao YTPL của mọi thành viên trong xã hội, biến
việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật thành niềm tin nội tâm ở mỗi người, là bộ
phận cấu thành của giáo dục cộng sản chủ nghĩa đối với nhân dân lao động ở Việt
Nam hiện nay. Trong xã hội Việt Nam, YTPL thống trị là YTPL của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Cùng với sự phát triển của xã hội Việt Nam, YTPL của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động sẽ trở thành một hệ thống tư tưởng và
quan điểm pháp luật chung thống nhất của toàn xã hội.
Cau 5:hiên phap 1992 quy dnh ve quyen va nghia vu co bancua cong dan ntn?
Điều49
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt
Nam.
Ðiều50
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và
được quy định trong Hiến pháp và luật.
Ðiều51
Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân.
Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của
mình
đối
với
Nhà

nước


hội.
Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.
Ðiều52
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

10

10


Ðiều53
Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các
vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Ðiều
54
Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn
giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều
có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Ðiều

55
Lao
động

quyền


nghĩa
vụ
của
công
dân.
Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.
Ðiều56
Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động.
Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế
độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn
lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người
lao động.
Ðiều57
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Ðiều58
Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các
tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại
Ðiều
17

Ðiều
18.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.
Ðiều59
Học
tập

quyền


nghĩa
vụ
của
công
dân.
Bậc
tiểu
học

bắt
buộc,
không
phải
trả
học
phí.
Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.
Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát
triển
tài
năng.
Nhà
nước

chính
sách
học
phí,
học

bổng.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề
phù hợp.

11

11


Ðiều60
Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng
kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật
và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở
hữu công nghiệp.
Ðiều61
Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ.
Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh
công
cộng.
Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và
chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.
Ðiều62
Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của
người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật.
Ðiều63
Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ

nữ.
Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có
quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn
lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo
quy định của pháp luật.
Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không
ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh,
khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia
đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và
làm tròn bổn phận của người mẹ.
Ðiều64
Gia đình là tế bào của xã hội.Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.Hôn nhân
theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.Cha
mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận
kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ.

12

12


Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.
Ðiều65
Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.
Ðiều66
Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và
giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý
thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng
tạo và bảo vệ Tổ quốc.
Ðiều67

Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của
Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc
làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định.
Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc.
Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội
giúp đỡ.
Ðiều68
Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài
và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.
Ðiều69
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí có quyền được thông tin; có
quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Ðiều70
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn
giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ.
Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Ðiều71
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng,
sức
khoẻ,
danh
dự

nhân
phẩm.
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc
phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt


giam
giữ
người
phải
đúng
pháp
luật.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm
của công dân.
13

13


Ðiều72
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Toà
án
đã

hiệu
lực
pháp
luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự.Người làm trái pháp luật trong
việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý
nghiêm minh.
Ðiều73

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ
trường
hợp
được
pháp
luật
cho
phép.
Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật.
Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân
phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật.
Ðiều74
Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong
thời
hạn
pháp
luật
quy
định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập
thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có
quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Ðiều75
Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước

ngoài.
Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn
bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Ðiều76
Công
dân
phải
Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

trung

thành

với

Tổ

quốc.

Ðiều77
Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

14

14


Ðiều78
Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công

cộng.
Ðiều79
Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc
sinh hoạt công cộng.
Ðiều80
Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp
luật.
Ðiều81
Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo
pháp luật Việt Nam.
Ðiều82
Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân
chủ và hoà bình, hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.
CAU 6:nguoi su dung lao dong co wen don Phuong cham dut hop dong lao
dong trong nhung truong hop nao?
Điều 38
1- Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trong những trường hợp sau đây:
a) Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng;
b) Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của Bộ luật
này;
c) Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn ốm đau đã
điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng lao động xác định thời
hạn ốm đau đã điều trị sáu tháng liền và người lao động làm theo hợp đồng lao
động dưới một năm ốm đau đã điều trị quá nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà
khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khoẻ của người lao động bình phục, thì
được xem xét để giao kết tiếp hợp đồng lao động;

d) Do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác mà người sử dụng
lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất,
giảm chỗ làm việc;
đ) Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động.
15

15


2- Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo các điểm a, b và c
khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải trao đổi, nhất trí với Ban chấp
hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không nhất trí, hai bên phải báo cáo với
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày, kể từ ngày báo cho cơ quan lao động
biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết định và phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí với quyết định của người sử dụng
lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có quyền yêu cầu giải
quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
3- Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại điểm
b khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết
trước:
a) ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
b) ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn từ một năm đến ba
năm;
c) ít nhất ba ngày đối với hợp đồng lao động theo mùa vụ, theo một công việc nhất
định mà thời hạn dưới một năm.

Cau 7: nguoi su dung lao dong k co wen don Phuong cham dut hop dong lao
dong trong nhung truong hop nao?
Điều 39
Người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

trong những trường hợp sau đây:
1- Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều
trị, điều dưỡng theo quyết định của thầy thuốc, trừ trường hợp quy định tại điểm c
và điểm đ khoản 1 Điều 38 của Bộ luật này;
2- Người lao động đang nghỉ hàng năm, nghỉ về việc riêng và những trường hợp
nghỉ khác được người sử dụng lao động cho phép;
3- Người lao động là nữ trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 111 của
Bộ luật này.
Cau 8:phan tich he thong cau truc cua phap luat
Nhà nước CHXHCNVN là Nhà nước pháp quyền XHCN, hệ thống pháp luật
của Việt nam được hình thành và hoạt động theo nguyên tắc : Lập pháp - Hành
pháp

pháp.
- Cơ quan Lập pháp : Quốc hội nước CHXHCNVN là cơ quan quyền lực cao nhất
của nhà nước có quyền ban hành luật pháp và giám sát việc thực thi pháp luật.
- Cơ quan Hành pháp : Chính phủ là cơ quan quản lý và điều hành mọi hoạt động
16

16


của
Nhà
nước
theo
Hiến
pháp

Pháp

luật.
- Cơ quanTư pháp : gồm có Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Tòa án Nhân dân
tối cao.
Cau 9: khai niem thuc hien phap luat,cac hinh thuc thuc hien phap luat
*Định nghĩa thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật
bằng hành vi của mình thực hiện các qui định pháp luật trong thực tế đời sống.
*Các hình thức thực hiện pháp luật:
+ Tuân thủ pháp luật: là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật mang tính
chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế
không làm những việc mà pháp luật cấm.
VD: một công dân không thực hiện những hành vi tội phạm được qui định trong bộ
luật hình sự, tức là công dân đó tuân thủ những qui định của bộ luật này.
+ Thi hành pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ bắt
buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của
mình bằng những hành động tích cực.
VD: một người thấy người khác đang lâm vào tình trạng có thể nguy hiểm đến tính
mạng và người đó cứu giúp, tức là người đó đã bằng hành động tích cự thi hàng
qui định về nghĩa vụ công dân của pháp luật nói chung và của luật hình sự nói
riêng.
+ Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của
pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực
hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật cho phép.
_ Như vậy hình thức này khác với 2 hình thức trên ở chỗ chủ thể không bị buộc
không được làm hoặc phải làm một việc nào đó mà được tự do lựa chọn theo ý chí
của mình.
VD: việc thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử, quyền khiếu nại và tố cáo…
+ Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông
qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật
thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những

qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay
chấm dứt một quan hệ pháp luật.
VD: cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng pháp luật tuyên phạt

II) trắc nghiệm

17

17


18

18



×