Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu Luận Nguồn Nhân Lực Đối Với Sự Phát Triển Kinh Tế Trong Thời Kì Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.39 KB, 30 trang )

[Type the document title]

MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU...........................................................................................................3
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG TIẾN TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HÓA...........................4
I.

Một số khái niệm..............................................................................................4
1. Nguồn nhân lực...........................................................................................4
1.1. Khái niệm.............................................................................................4
1.2. Đặc điểm nguồn nhân lực....................................................................5
2. Nguồn nhân lực chất lượng cao..................................................................5

II.

Vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế

trong thời kì Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa............................................................6
1. Vai trò nguồn nhân lực.................................................................................6
1.1. Nguồn nhân lực với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế
(ở tầm vĩ mô)............................................................................................................6
1.1.1. Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển...............................6
1.1.2. Nguồn nhân lực là mục tiêu của sự phát triển...............................7
1.2. Nguồn nhân lực với sự phát triển của doanh nghiệp
(ở tầm vi mô).............................................................................................................7
2. Sự cần thiết của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với nền
kinh tế hiện nay.........................................................................................................7

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO



Page 1


[Type the document title]
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC.....................9
I.

Khái quát tình hình nguồn nhân lực đối với sự phát triển
kinh tế – xã hội ở nước ta...............................................................................9

II.

Thực trạng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao
nói riêng ở Việt Nam....................................................................................11
1. Thực trạng nguồn nhân lực........................................................................11
1.1. Nguồn nhân lực từ nông dân..............................................................11
1.2. Nguồn nhân lực từ cơng nhân.............................................................12
1.3. Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức.............................13
2. Thực trạng nguồn lao động chất lượng cao ở Việt Nam...........................14
3. Những yêu cầu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kì cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa....................................................................................18

CHƯƠNG III . GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ........21
KẾT LUẬN.............................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................29

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO


Page 2


[Type the document title]
LỜI NĨI ĐẦU
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá là con đường tất yếu của mọi quốc gia nhằm phát triển
kinh tế xã hội. Để thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá cần phải huy động mọi nguồn lực cần
thiết (trong nước và từ nước ngoài), bao gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn lực
công nghệ, nguồn lực tài nguyên, các ưu thế và lợi thế (về điều kiện địa lý, thể chế chính trị, …).
Trong các nguồn lực này thì nguồn nhân lực là quan trọng , quyết định các nguồn lực khác và ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế hiện đại
với xu hướng hội nhập và phát triển hiện nay. Chính vì thế việc tìm hiểu q trình phát triển, vai
trò, nhiệm vụ cũng như thực trạng nguồn nhân lực qua đề tài: “Nguồn nhân lực đối với sự phát
triển kinh tế trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” sẽ giúp chúng ta có cái nhìn thực tế hơn
về nguồn nhân lực ở Việt Nam. Và từ đó đề ra những biện pháp khắc phục hiệu quả, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai không xa để đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp hiện đại, sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới.
Đồng thời, thông qua đề tài này chúng ta sẽ hiểu rõ hơn vai trò của mỗi cá nhân đối với sự
phát triển kinh tế của một quốc gia, vì bản thân mỗi chúng ta chính là một nguồn lực của đất
nước. Nếu mỗi cá nhân đều có ý thức tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân, sống có mục đích và
ln mong muốn đóng góp cho sự phồn vinh của đất nước thì đây thực sự sẽ là nguồn lực đầy
tiềm năng và triển vọng cho sự phát triển của chính quốc gia mình.
Bài viết này gồm ba phần, trong đó phần hai bao gồm ba chương là phần quan trọng nhất,
nói lên những vấn đề cốt lõi và nội dung chính của đề tài.

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 3



[Type the document title]
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC TRONG TIẾN TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA.
I.

Một số khái niệm
1.

Nguồn nhân lực
1.1.

Khái niệm

Hiện nay có rất nhiều các khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực (nguồn lực con người).
Ngân hàng thế giới World Bank cho rằng: "nguồn nhân lực là tồn bộ vốn người (thể lực,
trí lực, kĩ năng, nghề nghiệp...) mà mỗi cá nhân có thể huy động được trong quá trình sản xuất
kinh doanh hay một hoạt động nào đó". Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, đụợc nghiên
cứu dưới nhiều góc độ.
Ở góc độ vĩ mơ, chúng ta có nguồn nhân lực xã hội:
- Theo nghĩa rộng đựợc hiểu là nguồn nhân lực con người của 1 quốc gia, vùng lãnh thổ,
là một bộ phận của các nguồn lực có khả năng huy động, quản lí để tham gia vào q trình phát
triển kinh tế xã hội như nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính. Nguồn nhân lực cịn có thể hiểu
là tổng hợp các cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các
yếu tố về thể chất và tinh thần đựợc huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này, nguồn
nhân lực bao gồm những người từ giới hạn dưới độ tuổi lao động trở lên (ở Việt Nam quy định là
tròn 15 tuổi).
- Theo nghĩa hẹp nguồn lao động là khả năng lao động của xã hội, bao gồm nhóm dân cư
trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương
với nguồn lao động. Ở Việt Nam, Bộ Luật Lao Động 1994 quy định: "Nguồn lao động bao gồm
số người trong độ tuổi lao động từ đủ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với nam, từ đủ 15 tuổi đến 55 tuổi

đối với nữ".
Ở giác độ vi mô, chúng ta có nguồn nhân lực trong một tổ chức. Theo đó nguồn nhân lực
trong một tổ chức là lực lượng lao động của từng đơn vị, tổ chức, cơ quan. Hay nói cách khác, đó
là tổng số người (bao gồm cán bộ lãnh đạo và quản lí, cơng chức chun mơn, nhân viên phục
vụ...) có trong danh sách của tổ chức, hoạt động theo các nhiệm vụ do tổ chức phân cơng và được
tổ chức trả lương.
Có thể thấy các cách biểu hiện trên chỉ khác nhau về việc xác định quy mơ nguồn nhân
lực song đều nhất trí với nhau đó là: Nguồn nhân lực nói lên khả năng lao động của xã hội, là yếu
tố không thể thiếu của sự phát triển Kinh tế - Xã hội. Nguồn nhân lực trong 1 tổ chức và xã hội
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn nhân lực trong 1 tổ chức nằm trong nguồn nhân lực xã

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 4


[Type the document title]
hội, là một bộ phận của nguồn lực xã hội. Sự dụng tốt nguồn nhân lực xã hội và nguồn nhân lực
trong một tổ chức sẽ tạo ra hiệu quả chung cho toàn xã hội.

1.2.

Đặc điểm nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực được xem xét trên 2 giác độ: số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn
nhân lực là lực lượng lao động và khả năng cung cấp lực lượng lao động cho sự phát triển Kinh tế
- Xã hội. Số lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng
nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có mối quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng dân
số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì quy mơ và tốc độ tăng nguồn nhân
lực càng lớn và ngược lại. Số lượng nguồn nhân lực đóng vai trị quyết định đến sự phát triển

Kinh tế - Xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển Kinh tế - Xã hội thì sẽ làm
ảnh hưởng đến sự phát triển đó. Chất lượng nguồn nhân lực được xem là yếu tố quan trọng nhất
trong nguồn nhân lực con người. Chất lượng nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: hàm
lượng trí tuệ, trình độ tay nghề, năng lực phẩm chất, sức khỏe, văn hóa lao động... trong đó yếu tố
trí tuệ là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực đặc biệt, thể hiện ở các điểm sau đây:
- Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực sống: giá trị của con nguời đối với xã hội chủ yếu thể
hiện ở khả năng lao động của con người. Trong đó, năng lực lao động khơng thể tồn tại độc lập
ngồi 1 cơ thể khỏe mạnh. Nguồn nhân lực còn là một nguồn lực có ý thức, có quan niệm giá trị.
- Nguồn nhân lực là 1 nguồn lực vô tận: Nhà tương lai học người Mỹ Alvintoffiler đã
khẳng định "Mọi nguồn lực tự nhiên đều có thể bị cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vơ tận, bởi tri
thức có tính chất không bao giờ hết". Như vậy, sự phát triển của tri thức là vô hạn và việc khai
thác nguồn nhân lực cũng là vô hạn.
Khoa học kĩ thuật không ngừng phát triển và năng lực học tập của con người cũng khơng
ngừng được nâng cao. Tính chất đặc biệt của nguồn nhân lực cũng chính là sự khác biệt cơ bản
của nguồn nhân lực với các nguồn lực khác.

2. Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ
thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu
thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học, trên đại học, cao đẳng, lao
động kỹ thuật lành nghề). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng
nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nguồn nhân
lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng
nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao khơng thể khơng đặt nó trong tổng thể
vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 5



[Type the document title]
nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường ( yêu cầu của các doanh nghiệp trong
và ngồi nước). Đó là: có kiến thức (chun mơn, kinh tế, tin học…); có kỹ năng (kỹ thuật, tìm
và tự tạo việc làm, làm việc an tồn, làm việc hợp tác…); có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách
nhiệm với công việc...
Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực
và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị- xã hội, về đạo đức, tình cảm trong
sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể khơng cần đơng về số lượng, nhưng phải đi vào thực
chất.

II.

Vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế trong thời kì Cơng
nghiệp hóa, Hiện đại hóa.
Vai trị nguồn nhân lực.

1.

Vai trị của nguồn nhân lực được xem xét trên hai giác độ là: vi mô và vĩ mô.

1.1.

Nguồn nhân lực với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế (ở tầm vĩ
mô).
1.1.1. Nguồn nhân lực là động lực của sự phát triển.

Phát triển kinh tế - xã hội của 1 quốc gia phải dựa trên nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực,
tài lực... Song yếu tố chính vẫn là nguồn nhân lực. Vai trò của con người và nguồn nhân lực con

người được khẳng định như là 1 yếu tố cơ bản của sự phát triển. Trong tổng hợp các nguồn lực:
vốn, tài nguyên, vị trí địa lí, nguồn nhân lực nước ngoài và nguồn nhân lực con người, các nguồn
nhân lực khác chỉ là tiềm năng, vai trò, tác động sức mạnh của chúng có mạnh đến đâu cũng đều
thơng qua và phụ thuộc vào hoạt động của con người, bởi con người là nguồn nhân lực duy nhất
biết tư duy, có tri thức và ý chí. Chỉ có con người mới có thể gắn kết các nguồn lực khác để cùng
tạo thành sức mạnh tổng hợp cho một môi trường nhất định, các nguồn lực khác chỉ là các khách
thể thực sự cải tạo, khai thác và đều nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người.
Như vậy, những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng thì phải thơng qua nguồn lực con người.
Nguồn lực con người chính là động lực của mọi sự phát triển.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực tốt, chất lượng cao là tiền đề vững chắc và là nhân tố quyết
định đến tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động. Nguồn nhân lực tốt, đặc biệt
là nguồn nhân lực có trình độ cao sẽ đảm bảo chắc chắn trong việc đưa ra những quyết định sáng
suốt, đúng đắn với đường lối và chủ trương, chính sách, phương thức thực hiện các quyết sách về
phát triển và hưng thịnh quốc gia. Ngoài ra, nguồn nhân lực có trình độ cao cịn là nền tảng vững
chắc đảm bảo cho việc chuẩn bị tốt và thực hiện thành cơng q trình hội nhập kinh tế quốc tế và
hợp tác quốc tế. Với tư cách là động lực của sự phát triển, nguồn nhân lực phải là nguồn lực đi
đầu, là tiền đề của các nguồn lực khác hiện có. Nguồn nhân lực chính là nội lực của đất nước.
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 6


[Type the document title]
1.1.2. Nguồn nhân lực là mục tiêu của sự phát triển.
Xét cho cùng thì phát triển kinh tế xã hội cũng chính là nhằm mục tiêu phục vụ con
người, thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của con người và làm cho cuộc sống của con người
ngày càng tốt đẹp và hoàn thiện hơn, hạnh phúc và ấm no hơn. Hay nói cách khác nguồn nhân
lực chính là đối tượng mà sự phát triển kinh tế xã hội phải hướng tới phục vụ, được hưởng thụ
thành quả của sự phát triển và chính sự hưởng thụ đó lại tiếp tục tạo ra sự kích thích, tạo ra động
lực cho sự phát triển của chính bản thân nguồn lực và sự phát triển chung.

Vậy nguồn nhân lực vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển.

1.2.

Nguồn nhân lực với sự phát triển của doanh nghiệp (ở tầm vi mơ).

Những con người có cơ thể khỏe mạnh, có năng lực nghề nghiệp, có tinh thần chủ động
làm việc và ý thức sáng tạo cái mới, có khả năng thích ứng với mơi trường tổ chức và văn hóa
của doanh nghiệpchính là nguồn lực quan trọng nhất của doanh nghiệp. Bởi vì trước hết, nguồn
nhân lực là nhân tố chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong khi đó, mục tiêu mà bất kì
một doanh nghiệp nào cũng theo đuổi là tối đa hóa lợi nhuận giữa giá trị hàng hóa và giá trị dịch
chuyển. Phần giá trị này về cơ bản là do lao động sáng tạo ra. Cho nên nguồn nhân lực chính là
nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp. Giá trị gia tăng của doanh nghiệp càng cao thì lợi nhuận
của doanh nghiệp càng lớn, mà muốn có giá trị gia tăng cao thì phải dựa vào chất lượng và giá trị
nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực cịn là một nguồn lực mang tính chiến lược, quyết định tới
sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Cùng với sự hình thành của kinh tế tri thức,
sự phát triển kinh tế - xã hội khiến cho vai trò về tri thức của con người ngày càng tăng. Do đó,
nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực có tri thức, chun mơn, hiểu biết các khoa học kĩ
thuật ngày càng trở thành nguồn lực quan trọng nhất, có ý nghĩa chiến lược. Đây cũng ln ln
là nguồn lực tích cực nhất, năng động nhất. Một doanh nghiệp sẽ không thể tồn tại và vận hành
hiệu quả nếu thiếu đi 1 đội ngũ cán bộ có tầm nhìn và một đội ngũ công nhân được trang bị đầy
đủ kiến thức chuyên môn, giàu kinh nghiệm...

2. Sự cần thiết của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với nền kinh tế
hiện nay
Lý thuyết và thực tiễn phát triển ở tất cả các nước trên thế giới cho thấy, nguồn nhân lực
đóng vai trị hết sức quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong giai
đoạn đầu của q trình phát triển, mơ hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tích lũy vốn vật
chất. Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế trong giai đoạn sau sẽ chủ yếu dựa

trên cải tiến công nghệ và phát triển vốn con người hay vốn nhân lực, đặc biệt là nhân lực cho
phát triển khoa học và cơng nghệ. Khơng chỉ có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế,
nguồn nhân lực cho phát triển khoa học và cơng nghệ có chất lượng cao cịn có ý nghĩa trong việc
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 7


[Type the document title]
giải quyết các vấn đề xã hội như : bất bình đẳng, đói nghèo, các vấn đề về môi trường và sự tiến
bộ về mọi mặt của xã hội.
Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và
thông tin, sự giao lưu trí tuệ và tư tưởng liên minh kinh tế giữa các khu vực trên thế giới. Sự ra
đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa từng thấy. Tình
hình đó đã dẫn đến sự quốc tế hố kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hội sâu
sắc mang tính tồn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh đó, khu
vực Châu Á-Thái Bình Dương đang nổi lên là khu vực kinh tế năng động nhất với sự cạnh tranh
diễn ra ngày càng gay gắt thì nguồn nhân lực chính là một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng.
Trong thế giới hiện đại, khi chuyển dần sang nền kinh tế chủ yếu dựa trên tri thức và
trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực
chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định cũng như là sự cần thiết của nó đối với sự
phát triển.
- Thứ nhất là, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định q trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc
khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học cơng nghệ… có mối quan hệ nhân quả với
nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng đầu
là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó khơng bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và

sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát
huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con người với
tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung
tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
- Thứ hai là, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của sự nghiệp Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa; là q trình chuyển đổi căn bản, tồn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chủ yếu sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một q
trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Khi đất nước ta đang bước vào giai đoạn Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa rút ngắn, tiếp
cận nền kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cịn thấp, do đó u cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành cơng của sự
nghiệp Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 8


[Type the document title]
lấy việc phát huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững.
- Thứ ba là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy nhanh sự nghiệp Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước
nhằm phát triển bền vững.
- Thứ tư là, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao của Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Vì vậy việc phát triển
nguồn nhân lực một cách nhanh và mạnh sẽ giúp nước ta đứng vững hơn trong quá trình hội nhập

và phát triển.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
I. Khái quát tình hình nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở
nước ta.
Xuất phát từ nền nông nghiệp lạc hậu, Việt nam đang nỗ lực cố gắng trở thành một nước
công nghiệp phát triển trên thế giới. Tuy nhiên hiện nay, mặc dù Việt nam đã có nhiều thành tựu,
đã có nhiều đổi mới và tiến lên trở thành nước đang phát triển đứng thứ 59/131 so với nền kinh tế
thế giới nhưng lực lượng sản xuất vẫn cịn ở trình độ thấp, nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam
là khái niệm hồn tồn mới mẻ. Do vậy, có ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam
hiện nay quá xa và không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong Cơng nghiệp hóa,
Hiện đại hóa để làm tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tri thức
không chỉ bao gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên cơng nghệ cao, mà cịn cả các ngành truyền
thống được cải tạo bằng khoa học cơng nghệ cao. Do đó khơng nên chờ cho đến khi sự nghiệp
Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế tri thức, mà ngay trong
giai đoạn này, để phát triển và theo kịp các nước trên thế giới, chúng ta phải đồng thời quan tâm
tới những lĩnh vực mà chúng ta có thể tiếp cận.
Đối với Việt Nam, một đất nước nông nghiệp, rõ dàng chúng ta không thể xây dựng và
phát triển nền kinh tế tri thức như các nước cơng nghiệp phát triển. Thực ra đó là sự tiếp tục q
trình Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước ở một trình độ cao hơn, dựa trên chất xám của con
người. Mặt khác do xuất phát điểm của lực lượng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức
ở Việt Nam thì phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam, tức mang những đặc thù của mình. Do
đó việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong q trình Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa,
chuẩn bị các điều kiện vật chất và con người để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cấp hoạch định chiến lược. Trong việc chuẩn
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 9



[Type the document title]
bị ấy việc nghiên cứu thực trạng mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực là quan
trọng và cấp bách nhất trong giai đoạn hiện nay.
Khi tiến hành sự nghiệp Cơng nghiệp hố, Hiện đại hố đất nước thì địi hỏi phải có
nguồn nhân lực, vốn và tài nguyên. Đối với Việt Nam, cả hai nguồn lực tài chính và tài nguyên
thiên nhiên đều rất hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên đóng vai trị quyết định. So với
các nước láng giềng chúng ta có lợi thế đơng dân, tuy nhiên nếu khơng được qua đào tạo thì dân
đơng sẽ là gánh nặng dân số còn nếu được qua đào tạo chu đáo thì đó sẽ là nguồn nhân lực lành
nghề, có tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Một đội ngũ nhân lực lành
nghề và đồng bộ cũng tạo nên sức hấp dẫn to lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh khả năng phát triển kinh tế theo chiều rộng đã tới mức trần, Việt
Nam đứng trước đòi hỏi phải bằng mọi cách chuyển từ lợi thế so sánh dựa trên lao động giá rẻ và
nhờ cậy vào tài nguyên, môi trường, sáng tạo ra lợi thế cạnh tranh chủ yếu dựa trên phát huy
nguồn lực con người, nguồn nhân lực chất lượng cao, nắm vững khoa học và công nghệ. Và theo
như kinh nghiệm của nhiều nước thì nếu chỉ có lực lượng lao động đơng và rẻ thì khơng thể tiến
hành Cơng nghiệp hố, mà địi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chun mơn cao.
Chính nhờ lực lượng lao động có trình độ chun mơn cao mà Nhật Bản và các nước Nics (các
nước công nghiệp mới) vận hành có hiệu quả cơng nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra nhiều
mặt hàng có sức cạnh tranh cao với các nước công nghiệp phát triển trên thế giới. Các nước muốn
phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu tư cho phát triển con người mà cốt lõi là phát triển
giáo dục và đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển nhân tài.
Thực tế cho thấy, Việt Nam trong những năm đầu hội nhập nền kinh tế quốc tế, những
điểm mạnh của nguồn nhân lực Việt Nam như lực lượng dồi dào, tỷ lệ lao động ở nhóm trẻ cao,
giá nhân cơng rẻ, đức tính cần cù ham học hỏi đã có tác động rất tích cực đối với nền kinh tế.
Việt Nam ln được đánh giá là điểm đầu tư hấp dẫn với lợi thế về lao động, thị trường, tài
nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên, trước những yêu cầu của sự phát triển, nguồn nhân lực Việt Nam
đã và đang bộc lộ những bất cập lớn ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Đó là,
số lượng người bước vào độ tuổi lao động tăng quá nhanh, gây sức ép về giải quyết việc làm và
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động. Hàng năm, nước ta có hơn một triệu người
bổ sung vào lực lượng lao động. Lao động phân bố không đều theo ngành, vùng: giữa nông

nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; giữa thành thị và nông thôn; các vùng đồng bằng và miền núi;
lao động nơng nghiệp cịn chiếm tỷ lệ cao. Trình độ học vấn và chun mơn kỹ thuật của nguồn
nhân lực cịn thấp, chậm thay đổi theo hướng tăng lên. Năm 2000, tỷ lệ lao động qua đào tạo
chiếm 20% tổng số lao động, năm 2005, tỷ lệ này chỉ đạt 25%. Chất lượng giáo dục và đào tạo,
hiệu quả của các trường dạy nghề, đại học và trung học chuyên nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Nguồn nhân lực phân bổ theo loại hình, thành
phần kinh tế với tính chất đan xen phức tạp. Năng suất lao động xã hội còn thấp, mức độ “thị
trường hố” lao động cịn hạn chế; kỷ luật lao động không cao... Nguồn nhân lực chưa được sự
quan tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, cịn đào tạo thì nửa vời, nhiều
người chưa được qua đào tạo. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 10


[Type the document title]
giữa lượng và chất. Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, cơng nhân, trí
thức,… chưa tốt, cịn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện mục tiêu chung là xây
dựng và bảo vệ đất nước. Chất lượng của nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa khi đất nước tham gia hội nhập sâu vào nền kinh tế tồn cầu hố vừa thiếu, vừa yếu,
cơ cấu không hợp lý, xuất phát từ thực trạng của nền giáo dục làm cho dân trí, nhân lực và nhân
tài đều xuống cấp nghiêm trọng.
Những bất cập và tồn tại đó đang là lực cản lớn của quá trình phát triển kinh tế đất nước.

II.
Thực trạng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao
nói riêng ở Việt Nam
1. Thực trạng nguồn nhân lực
1.1.


Nguồn nhân lực từ nơng dân

Tính đến nay, dân số Việt Nam là hơn 85 triệu người là nước đông dân thứ ba ở Ðông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin) và đứng thứ 13 trong số những nước đông dân nhất thế
giới. Trong đó, nơng dân chiếm khoảng 73% dân số của cả nước. Số liệu này phản ánh một thực
tế là nông dân nước ta chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Theo các nguồn số liệu được
thống kê, hiện nay, cả nước có khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp,
thủy sản; có 217 làng nghề và 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu
đến hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thơn nước ta đã có những chuyển biến tích
cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai thác, chưa được
tổ chức, vẫn bị bỏ mặc và từ bỏ mặc đã dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Người nông dân
không được dạy nghề trồng lúa cho nên họ đều tự làm, đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có
người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được.
Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy. Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ
mỉ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện có tới 90% lao động nông, lâm,
ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng
nguồn nhân lực trong nơng dân cịn rất yếu kém. Sự yếu kém này đã dẫn đến tình trạng sản xuất
nơng nghiệp nước ta vẫn cịn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu
truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức.
Tình trạng đất nơng nghiệp thì ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao động ở nơng
thơn dơi ra, khơng có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi năm nhà nước thu hồi khoảng
72 nghìn ha đất nơng nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị và rơi vào túi những
người có chức, có quyền ở địa phương, gây nên bất hợp lý trong chính sách đối với người nơng
dân.
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 11



[Type the document title]
Chính vì nguồn nhân lực trong nơng thôn không được khai thác, đào tạo, nên một bộ phận
người dân ở nơng thơn khơng có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường. Trong khi các
doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao thì lực lượng lao động ở nông thôn lại
dư thừa rất nhiều. Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Việt Nam đang rất đáng lo ngại.
Nông dân ở những nơi bị thu hồi đất thì thiếu việc làm, khơng có đất để canh tác; chất lượng lao
động thấp nên khơng làm được những cơng việc mang tính u cầu cao... và cho đến nay tình
trạng này vẫn cịn tồn tại. Mặc dù đã có một bộ phận khơng nhỏ những người nông dân di cư đến
những thành phố lớn để tìm kiếm việc làm nhưng vẫn khơng giải quyết được vấn đề, đơi khi cịn
làm nảy sinh những vấn đề khác như đơ thị hóa, tệ nạn xã hội, ơ nhiễm mơi trường gia tăng nhiều
hơn…
Nhìn nhận vấn đề này ta thấy rằng tỉ lệ thất nghiệp ở nơng thơn chủ yếu là do thất nghiệp
chu kì gây ra và do các chính sách đối với nơng dân, nơng thơn và nơng nghiệp chưa rõ ràng. Vì
vậy cần phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo điều kiện các doanh nghiệp đầu tư (mỗi vùng
miền đều có một thế mạnh kinh tế riêng). Ví dụ như ở Ninh Thuận thì có thế mạnh về nho và
muối, nếu được quan tâm đầu tư cho hai thế mạnh này thì sẽ tạo được việc làm cho người nơng
dân làm muối và trồng nho. Ngồi ra cịn kéo theo việc làm cho những ngành nghề khác như:
muối được khai thác lên thì phải qua q trình chế biến, đóng gói… làm hình thành các cơ sở chế
biến muối, tạo việc làm cho những lao động nhàn rỗi, đặc biệt là ngư dân đánh bắt gần bờ khơng
có việc làm trong lúc sóng to, biển động. Việc hình thành các cơ sở chế biến muối lại kéo theo sự
phát triển về giao thơng vì muốn vận chuyển được muối thì phải xây dựng lại những tuyến đường
gần biển (ở gần biển đường chỉ có cát nên gây khó khăn cho việc vận chuyển đến những vùng
khác, trong khi đó Ninh Thuận lại là vùng có khả năng khai thác muối lớn nhất nước) và lại tạo
nên việc làm cho những người lao động khác như thợ hồ, nông dân làm thời vụ,… Có thêm việc
làm sẽ giúp người dân có thêm thu nhập và góp phần làm cho cuộc sống ổn định hơn.

1.2.

Nguồn nhân lực từ công nhân


Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 6% dân số của cả nước. Trong đó,
cơng nhân trong các doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ lệ thấp, khoảng gần 2 triệu người, bằng
khoảng 40% so với lực lượng cơng nhân nói chung của cả nước; lực lượng cơng nhân của khu
vực ngồi nhà nước có khoảng 2,70 triệu, chiếm khoảng 60%. Xu hướng chung là lực lượng công
nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, trong khi đó, lực lượng cơng nhân của
khu vực ngồi nhà nước ngày càng tăng lên. Cơng nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so
với đội ngũ cơng nhân nói chung. Trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của cơng nhân cịn thấp.
Số cơng nhân có trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người, chiếm
khoảng 3,3% so với đội ngũ cơng nhân nói chung ở Việt Nam. Số công nhân xuất khẩu lao động
tiếp tục tăng, tuy gần đây có chững lại. Từ năm 2001 đến năm 2006, Việt Nam đã đưa được gần
375 nghìn người lao động đi làm việc tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành
nghề, tăng gấp 4 lần so với thời kỳ 1996-2000 (95 nghìn người).

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 12


[Type the document title]
Vì đồng lương rẻ mạt, cơng nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm
nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ, làm nghề thủ công, buôn bán thêm,
cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Trong
các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và cơng nghiệp nặng cịn rất thấp, khoảng
20% trong tổng số cơng nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong các ngành công nghiệp
nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng 40%. Sự già đi và ít đi của đội ngũ cơng
nhân Việt Nam đã thấy xuất hiện. Với tình hình này, cơng nhân khó có thể đóng vai trị chủ yếu
trong sự nghiệp Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước. Về mặt chính trị, thực chất, cơng nhân
Việt Nam chưa có địa vị bằng trí thức, cơng chức, viên chức nên rất khó vươn lên vị trí chủ đạo
trong đời sống xã hội và trong sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự
quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân.


1.3.

Nguồn nhân lực từ trí thức, cơng chức, viên chức

Nếu tính sinh viên đại học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức
Việt Nam trong những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển
nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn người; năm 2003:
1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm 2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006
(mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn người,… Cả nước đến nay có 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ
khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253 phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ
hoạt động khoa học và cơng nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số
47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên nghiệp, 11.200 giáo
viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thơng; gần 9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có
khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực sự làm chun mơn. Đội ngũ trí thức Việt Nam ở
nước ngồi, hiện có khoảng 300 nghìn người trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có
khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới. Số trường đại
học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143 trường đại học, 178 trường cao đẳng,
285 trường trung cấp chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và
khối trung học phổ thơng chun với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học phổ thông chuyên so với
tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp so với thế giới. Cả nước có 1.568/3.645
học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông năm học 2007-2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng Chính phủ Việt
Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở cả trong nước và ngoài nước.
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm
20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với thực hiện năm 2007. Bên cạnh nguồn nhân
lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là cơng chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công
tác tại các ngành của đất nước cũng tăng nhanh:
- Tổng số cơng chức, viên chức trong tồn ngành xuất bản là gần 5 nghìn người làm việc

tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương 12).
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 13


[Type the document title]
- Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chun nghiệp và hàng nghìn cán
bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí. Và hàng chục nghìn người khác
là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát hành,
làm việc tại 687 cơ quan báo chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình.
- Đội ngũ cơng chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39 nghìn người;
ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là 13.536 người. Tính đến tháng 62005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính sách pháp luật của các cơ quan trung ương là
824 người, trong đó có 43 tiến sĩ luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ
luật (chiếm 10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223 đại
học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa chuyên môn khác
(chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật sư trên 24 nghìn người dân). Trí
thức, cơng chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ quan trung ương và địa phương
cũng tăng nhanh. Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm NGO (Non Governmental
Organization _ tổ chức phi chính phủ) hiện có 52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức đã dẫn ra trên
đây, chúng ta thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực từ trí thức, cơng chức,
viên chức cịn q yếu. Có người tính rằng, hiện vẫn cịn khoảng 80% số công chức, viên chức
làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một cơng chức, viên
chức như trình độ chun mơn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng
công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm, khơng ít đơn vị nhận
người vào làm, phải mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng khơng
đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao động quốc tế
thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411. Theo ước tính, mỗi tấm bằng
đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với

tỷ lệ 63% số sinh viên ra trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất
nghiệp (161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thốt 7.117 tỷ đồng (trong đó, 4.067 tỷ
đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nơng dân, cơng nhân, trí thức (trong đó có cơng chức, viên
chức) ở Việt Nam, nhìn chung, cịn nhiều bất cập. Sự bất cập này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát
triển kinh tế. Trong những năm đổi mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với
kinh tế thế giới thì cịn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đồn tài chính
quốc tế (IFC), cơng bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178 nước được khảo sát.

2. Thực trạng nguồn lao động chất lượng cao ở Việt Nam
Việt Nam là một nước có nguồn lao động dồi dào và có khoảng hơn 50% số người trong
độ tuổi lao động và nhóm tuổi từ 15 đến 34 chiếm hơn 45% tổng số lực lượng lao động. Với tốc
độ tăng dân số khá cao, hàng năm có khoảng 1,5 tới 1,7 triệu lao động trẻ tham gia thị trường lao
động. Do vậy, nói chung cung lao động trên thị trường lao động Việt Nam rất dồi dào và lớn hơn
cầu về lao động. Tuy nhiên, phần lớn lượng cung lao động này là lao động phổ thông. Mặc dù tỷ
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 14


[Type the document title]
lệ người lao động không biết chữ là rất thấp, khoảng dưới 3,5%, nhưng tỷ lệ lao động chưa qua
đào tạo lại cao và chất lượng lao động khơng đồng đều giữa các vùng. Cụ thể, có đến gần 77%
người lao động trong độ tuổi lao động chưa được đào tạo nghề, hoặc được đào tạo thì còn hạn chế
về kỹ năng nghề nghiệp và chất lượng lao động ở khu vực thành thị cao hơn so với ở khu vực
nông thôn.
Về mặt cung, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chủ yếu được phân bố trong khu
vực nông nghiệp, nơi kỹ năng, tay nghề, và trình độ của người lao động thường khơng cần cao.
Lực lượng lao động đang làm việc trong khu vực công nghiệp chỉ chiếm 20% và trong khu vực
dịch vụ chỉ chiếm khoảng 26%. Điều này phần nào phản ánh cầu lao động giản đơn, phổ thơng ở

Việt Nam vẫn cịn khá lớn. Đồng thời phần lớn lao động ở Việt Nam hiện nay đang làm việc ở
khu vực ngoài quốc doanh (Bảng 1).
Bảng 1: Cơ cấu nguồn nhân lực phân theo ngành và khu vực kinh tế
Tỷ lệ lực lượng lao động (%)
Phân theo ngành:
-

Nông nghiệp

53,9

-

Công nghiệp

20,0

-

Dịch vụ

26,1

Phân theo khu vực kinh tế:
-

Ngồi nhà nước

87,5


-

Nhà nước

9,0

-

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

3,5

Nguồn: Tổng cục thống kê, 2007
Tuy nhiên so với trước đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát
triển của các doanh nghiệp mới nói riêng, nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao của các
ngành dịch vụ và cơng nghiệp ví dụ như marketing, tài chính, bảo hiểm, quản trị doanh nghiệp,
công nghệ thông tin, điện, điện tử và hóa chất ngày càng tăng lên. Trong những năm vừa qua, do
Việt Nam đẩy mạnh cải cách hành chính, làn sóng đầu tư trong nước cũng như nước ngồi ngày
càng tăng lên. Các doanh nghiệp trong nước được thành lập mới ngày càng nhiều đã tạo ra một
lượng cầu nhân lực chất lượng cao ngày càng lớn. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng thường ưu
tiên tuyển lao động chất lượng cao ngay tại Việt Nam vì lao động Việt Nam là người am hiểu thị
trường, phong tục tập quán, có nhiều mối quan hệ, và có mức lương thấp hơn so với thuê lao
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 15


[Type the document title]
động từ nước khác. Các doanh nghiệp nước ngồi cịn sẵn sàng trả mức lương cao hơn rất nhiều
so với các doanh nghiệp Việt Nam nhằm thu hút nhân tài. Do đó, sự cạnh tranh nguồn nhân lực

chất lượng cao ngày càng gay gắt.
Ví dụ điển hình là nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành tài chính ngân
hàng. Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính, các ngân hàng của Việt Nam đã mở thêm rất nhiều
chi nhánh. Các ngân hàng thương mại cổ phần đều đồng loạt tuyển dụng một lượng lớn nhân lực
(thường đã tốt nghiệp đại học ngành tài chính ngân hàng). Thêm vào đó, các cơng ty kinh doanh
chứng khốn cũng phát triển nhanh chóng làm cho nguồn nhân lực trong ngành này trở nên đặc
biệt khan hiếm. Theo báo cáo của cuộc điều tra 966 doanh nghiệp Nhật Bản về thị trường lao
động ở ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ, do Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) tại
Việt Nam năm 2006 thì mặc dù Việt Nam có tiềm năng rất lớn về lao động giá rẻ do nhóm dân số
trẻ chiếm tỉ lệ cao, nhưng có tới 59% số doanh nghiệp được phỏng vấn cho biết họ gặp rất nhiều
khó khăn để có thể tìm được nhân sự quản lý cấp trung. Theo báo cáo này, đây là tỉ lệ cao nhất
trong khối ASEAN. Ở các nước khác, tỉ lệ này thấp hơn nhiều ví dụ như ở Thái Lan là 43,2%. Ở
các nước như Indonesia, Malaysia, Philippines, tỉ lệ này chỉ dao động từ 36% đến 38%. Những
lĩnh vực doanh nghiệp Nhật Bản đang cần nhân viên kỹ thuật có trình độ là cơ khí với 58,5% số
doanh nghiệp trả lời và điện/điện tử với 41,5% số doanh nghiệp trả lời. Tuy nhiên, có quá nửa số
doanh nghiệp được hỏi đã than phiền rằng tìm được kỹ sư có trình độ đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp là hết sức khó khăn. Nguồn nhân lực của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin
được coi là có lợi thế khi chi phí lương thấp hơn 20%-30% so với Trung Quốc, nhưng lại kém
cạnh tranh về khả năng nói tiếng Nhật và kém cạnh tranh về chuyên môn so với Ấn Độ. Cũng
theo kết quả của cuộc điều tra này, khi các công ty Nhật Bản tăng cường bổ nhiệm người Việt
Nam vào các vị trí quản lý thì tình trạng thiếu hụt về nguồn nhân lực chất lượng cao càng tăng
lên. Đây là lý do tại sao Việt Nam có lợi thế là lực lượng lao động trẻ, chi phí lương thấp, nhưng
nhiều doanh nghiệp của Nhật Bản nói riêng và doanh nghiệp nước ngồi nói chung khi đầu tư
vào Việt Nam vẫn phải thuê nhân viên đến từ các nước lân cận như Trung Quốc, Philippine,
Singapore.
Khơng chỉ có nhu cầu đối với các vị trí quản lý cấp cao và cấp trung mà nhu cầu công
nhân kỹ thuật lành nghề cũng đã tăng lên trong khi nguồn cung không đáp ứng được. Theo kết
quả điều tra của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2004 thì tỉ lệ lao động có chuyên môn
kỹ thuật ở các khu vực của Việt Nam đều rất thấp (Bảng 2).


GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 16


[Type the document title]

Bảng 2: Tỷ lệ lao động có chun mơn kỹ thuật theo khu vực (%)
Từ trình độ sơ cấp hoặc chứng
chỉ nghề trở lên

Trình độ từ cơng nhân kỹ thuật
trở lên

Tây Bắc

11,3

8,5

Đồng bằng sông Hồng

31,9

15,1

Đông Nam bộ

31,8


14,2

Đồng bằng sơng Cửu Long

14,3

6,0

Cả nước

25,5

11,0

Nguồn: Đỗ Đức Bình (2007)
Tại Hội nghị triển khai đào tạo nhân lực theo nhu cầu các ngành cơng nghệ thơng tin, du
lịch, đóng tàu, tài chính ngân hàng và thực hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao cho hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh (2008), các thống kê cho thấy hai thành phố này
đang đứng trước thực trạng thiếu trầm trọng nguồn lao động có trình độ chun mơn ở hầu hết
các ngành, do chỉ có 50% lao động mới qua đào tạo.
Có thể thấy được thực trạng về nguồn nhân lực nói chung ở Việt Nam là nguồn cung thì
dư thừa nhưng lại khơng đáp ứng được các nhu cầu của thị trường lao động. Có rất nhiều nguyên
nhân khác nhau dẫn tới tình trạng trên, chẳng hạn như: hầu hết sinh viên không được định hướng
tốt trong việc chọn trường, chọn ngành nghề theo học, do chất lượng đào tạo không đáp ứng được
nhu cầu, tạo ra sự lãng phí lớn đối với bản thân người được đào tạo và đối với xã hội, do sự yếu
kém trong công tác quản lý nguồn nhân lực chất lượng cao và do thị trường lao động ở Việt Nam
chưa phát triển, một phần là do nhiều người xin việc không định vị được bản thân, thiếu ý thức
nghề nghiệp và hầu hết nhân viên được tuyển dụng vào phải qua đào tạo lại (việc đào tạo lại nhân
viên cũng khiến các doanh nghiệp Việt Nam gặp khó khăn trong việc đào tạo nguồn nhân lực
lành nghề và có trình độ cao do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường lao động và chưa

tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào tạo). Chất lượng lao động thấp một phần
nữa đó là do cơng tác tư vấn chưa thực sự tốt. Người học chưa biết được học ra làm gì và người
làm cũng chưa xác định rõ công việc xin vào như thế nào. Trong khi đó, khá nhiều đơn vị tuyển
dụng địi hỏi nhiều yêu cầu đối với người làm việc hơn là mô tả cụ thể cơng việc và mơi trường
làm việc.
Chính vì nguồn nhân lực trong nước không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp
nên đã dẫn đến tình trạng đó là trong khi lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm ở nước ta phải vất
vả đi “xin” việc thay vì “tìm” việc làm phù hợp thì khơng ít doanh nghiệp đã chọn giải pháp thu
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 17


[Type the document title]
hút nguồn lực nhiều kinh nghiệm đang làm việc cho các công ty trong ngành hoặc mong đợi vào
nguồn du học sinh.
So với thế giới thì nước ta có tỷ lệ giữa thầy và thợ cao hơn nhiều lần, tuy nhiên nguồn
nhân lực cấp cao lại ở mức khan hiếm. Điều đáng quan tâm hơn nữa là số người đi học nghề (sơ
cấp, trung cấp) có xu hướng giảm, còn số người đi học cao đẳng, đại học trở lên lại có xu hướng
tăng. Chúng ta đang trong tình trạng lao động dư về lượng và yếu về chất. Điều này dẫn đến tình
trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng. Nói đến thất nghiệp thì chúng ta cũng sẽ thấy được tỉ lệ thất
nghiệp giữa các vùng thơng qua kết quả tổng hợp về tình hình lao động việc làm 9 tháng năm
2010 của Tổng cục Thống kê. Theo thống kê thì hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ
tuổi lao động là 2,88%, khu vực thành thị có tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động cao gấp hai
lần so với khu vực nông thôn (thành thị là 4,43%, khu vực nông thơn là 2,27%)). Theo đó, hiện
cả nước có khoảng 77,3% người từ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, trong đó khu vực
thành thị là 69,4%; khu vực nông thôn 80,8%. Tỷ trọng lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật là 14,6%, chủ yếu là ở khu vực thành thị, chiếm khoảng 30%; khu vực nông
thôn chỉ khoảng 8,6%. Tổng hợp tình hình kinh tế xã hội trong 9 tháng năm 2010 cũng cho thấy,
tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi hiện là 4,31%, trong đó khu vực thành thị là

1,95%; khu vực nông thôn là 5,24%. Tỷ lệ lao động nữ thiếu việc làm cao hơn lao động nam.
Mặc dù là theo một báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cả nước đã giải quyết được gần
1,2 triệu việc làm trong 9 tháng đầu năm, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi vẫn
ở mức khá cao.
Theo đánh giá của bà Phạm Chi Lan, Nguyên Phó chủ tịch Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam thì, nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu của nguồn
nhân lực có khả năng cạnh tranh quốc tế. Cụ thể về trình độ, thể lực, tính chun nghiệp, kỷ luật,
khả năng thích ứng với thay đổi… Điểm cho năng lực cạnh tranh tổng hợp về nguồn nhân lực
thấp, chưa đạt đến 4 điểm (3,79/10). Ngoài ra, nguồn lực này còn bị hạn chế bởi tỉ lệ lao động có
kỹ năng thấp; mất cân đối về cơ cấu lao động theo trình độ, kỹ năng; lao động chất xám thiếu và
yếu về chất lượng; thể lực kém; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động thấp. Ý kiến của
nhiều doanh nghiệp cho rằng, thay vì tự hào nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ chúng ta hãy lấy làm
xấu hổ và quyết tâm nâng cao chất lượng lao động. Cần chọn cơng việc, mơi trường thích hợp,
chớ ngại những thay đổi tích cực, hãy học và áp dụng thay vì để đó và lãng qn. Tự học, tự đào
tạo suốt đời là cách nâng chất lượng một cách hiệu quả nhất đối với người lao động trong môi
trường cạnh tranh hội nhập như hiện nay.

3. Những yêu cầu về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kì
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại cùng với sự phát triển như vũ bão của Khoa học –
Công nghệ, nhất là công nghệ cao đẩy mạnh nhanh cường độ phát triển của thị trường vốn, thị
trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường Khoa học – Công nghệ và cả thị trường sức lao động.
Trong các q trình đó, nền kinh tế tri thức được hình thành và phát triển đã đặt ra những yêu cầu
và thách thức mới đối với sự phát triển nguồn nhân lực. Trong nền kinh tế hiện đại, sự đổi mới
cơng nghệ diễn ra nhanh chóng địi hỏi mỗi người làm việc phải ứng phó linh hoạt với sự thay đổi
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 18



[Type the document title]
của khoa học công nghệ, của thị trường, không ngừng nắm bắt học hỏi và trang thiết bị những
kiến thức mới. Do đó, tính chất và mục tiêu hoạt động của người lao động sẽ thay đổi cơ bản về
chất. Với vai trò là yếu tố cơ bản của sự phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định của đất
nước trong thời kì Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, nguồn nhân lực Việt Nam đang có
nhiều thuận lợi để phát triển nhưng cũng phải đối mặt với khơng ít những khó khăn, thách thức
mới. Yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều tất yếu.
- Quy mô nguồn nhân lực tiếp tục tăng mạnh, cùng với yêu cầu chuyển hướng mạnh sang
yêu cầu nâng cao chất lượng của sự phát triển đang tạo ra áp lực lớn cho đầu tư cả về chiều rộng
và chiều sâu cho sự phát triển Kinh tế - Xã hội.
- Yêu cầu tăng trưởng kinh tế với vận tốc cao, bền vững và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tiến bộ, năng suất, hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng
và nền kinh tế nói chung địi hỏi nguồn nhân lực phải có sự phát triển mạnh mẽ, thay đổi tồn
diện về chất lượng.
- Tính chất và yêu cầu của việc làm thay đổi nhanh hơn, những công việc cũ sẽ được thay
thế bởi những công việc mới với những tiêu chuẩn và đòi hỏi mới cao hơn, ngặt nghèo hơn. Điều
đó địi hỏi người lao động phải rất cơ động, linh hoạt hơn và luôn sẵn sang chấp nhận rủi ro. Tính
cạnh tranh gay gắt trong việc tìm kiếm và duy trì việc làm địi hỏi thể lực của mỗi người phải
tăng cường không ngừng.
- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật với sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức
với hàm lượng tri thức chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong mỗi sản phẩm; nhiều nguồn thông tin
đa dạng phong phú, tác động toàn diện đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội đòi hỏi nguồn nhân
lực phải năng động, nhanh chóng nắm bắt tri thức và tiến bộ khoa học kỹ thuật có kiến thức, kỹ
năng tổng hợp đa ngành.
- Q trình hội nhập, hợp tác hóa và đa dạng hóa đang diễn ra nhanh chóng địi hỏi nguồn
nhân lực phải phát triển đến trình độ ngang tầm quốc tế. Xu thế chuẩn hóa, quốc tế hóa những
tiêu chuẩn về tổ chức lao động và điều kiện làm việc đòi hỏi con người phải được phát triển về
tầm vóc và thể lực tương ứng để phù hợp và sử dụng có hiệu quả các cơng cụ lao động mới, hiện
đại.
Bên cạnh đó sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa cịn đặt ra những u cầu cao đối

với sự phát triển nguồn nhân lực, trên cả ba phương diện thể lực, trí lực và cả phẩm chất tâm lý
xã hội.
- Về mặt thể lực: Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa gắn liền với việc áp dụng phổ biến các
phương pháp sản xuất công nghiệp, các thiểt bị và cơng nghệ hiện đại, do đó địi hỏi sức khỏe và
thể lực cường tráng của người lao động trên các khía cạnh:
+ Sức chịu đựng dẻo dai, đáp ứng những quá trình sản xuất liên tục, kéo dài.

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 19


[Type the document title]
+ Có các thơng số nhân chủng học đáp ứng được các hệ thống thiết bị công nghệ được sản
xuất phổ biến và trao đổi trên thị trường khu vực và thế giới.
+ Ln ln có sự tỉnh táo, sảng khoái tinh thần, những điều này lại phụ thuộc chủ yếu
vào trạng thái sức khỏe của người lao động. Kỹ thuật cơng nghệ càng tinh vi, địi hỏi sự chính
xác và an tồn cao độ; mặt khác giá trị của nhiều loại sản phẩm rất lớn, chỉ một sơ suất nhỏ trong
động tác lao động có thể gây tổn thất to lớn.
- Về mặt trí lực: một lực lượng lao động đơng đảo có trình độ chun mơn kỹ thuật ngày
càng cao là địi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp Cơng nghiệp
hóa - Hiện đại hóa đất nước. Đi vào Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa thì khơng có lĩnh vực hoạt
động nào lại khơng địi hỏi người lao động phải có trình độ văn hóa, chun môn, kỹ thuật cao,
nhất là lĩnh vực công nghệ cao, cơng nghệ tin học, tự động hóa và cơng nghệ sinh học hiện đại.
Vì vậy, địi hỏi mặt bằng dân trí của nguồn nhân lực phải cao và phải được đào tạo về chuyên
môn kỹ thuật.
- Về phẩm chất tâm lý xã hội: Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa địi hỏi người lao động
phải có phẩm chất tâm lý sau:
+ Có tác phong nghiệp (khẩn trương, đúng giờ giấc...);
+ Có ý thức kỷ luật tự giác cao;

+ Có niềm say mê nghề nghiệp chuyên môn;
+ Sáng tạo, năng động trong cơng việc;
+ Có khả năng chuyển đổi cơng việc cao, thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực
cơng nghệ và quản lý.
Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa là sự nghiệp vì sự phát triển con người. Nhằm tạo ra một
nguồn nhân lực có chất lượng để thực hiện nó, thì việc nhận thức một cách sâu sắc, đầy đủ những
giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nhân tố con người là địi hỏi có tính cấp thiết, bởi lẽ con
người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần, chủ thể của sự phát
triển lịch sử. Từ nhận thức đó, con người Việt Nam cần phải phát triển tồn diện cả về thể lực, trí
lực, về khả năng lao động, năng lực sáng tạo và tích cực chính trị xã hội, về đạo đức, tâm hồn và
tình cảm…Đó chính là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa mà
chúng ta đang tiến hành từng bước trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.

GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 20


[Type the document title]
CHƯƠNG III . GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN
NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ
Hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định
là phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại. Thế nhưng muốn thực hiện được mục tiêu trên thì chúng ta phải có những giải pháp khắc
phục những thực trạng về nguồn nhân lực đang còn tồn tại để góp phần nâng cao khả năng đảm
bảo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn tới 2011-2020. Những giải pháp đó
là:
Một là, thực hiện sự đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phải lấy chất lượng phục vụ
nhu cầu của nền kinh tế làm tiêu chí thay cho “lấy thành tích đổi mới của ngành”.

Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng, động
lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đáp ứng quá trình đó, địi hỏi
phải có một nguồn nhân lực chất lượng cao, tay nghề tốt, có trình độ, tiếp thu và sử dụng hiệu
quả những tiến bộ, thành tựu khoa học - cơng nghệ của thế giới, góp phần đẩy mạnh q trình
nghiên cứu, phát triển khoa học - cơng nghệ trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ ra những giải pháp quan trọng cho giáo dục là: “Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương
pháp dạy và học; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục
Việt Nam”. Đây là giải pháp quan trọng có ý nghĩa then chốt trong việc bảo đảm nguồn nhân lực
chất lượng cao cho nền kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
Các biện pháp chuyển sang mơ hình giáo dục mở - mơ hình xã hội học tập với hệ thống
học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông, đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học...
đã đạt những thành tựu nhất định. Nhưng, thực trạng cho thấy, lao động được đào tạo nghề ở các
nhà trường, tỷ lệ đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi cịn rất thấp. Vì vậy, các cơ sở đào tạo cần chú trọng hơn chất lượng đào tạo, được
kiểm nghiệm thông qua thực tiễn chứ không phải thông qua báo cáo, nguồn cung nhân lực phải
thỏa mãn cầu. Khắc phục tình trạng sinh viên tốt nghiệp nhưng khi thử việc thì khơng được chấp
nhận, vẫn trở thành thất nghiệp.
Cần nâng cao chất lượng đối với từng trình độ chuyên môn, kĩ thuật nhất định. Đối với
giáo dục phổ thông, cần nâng cao chất lượng giáo dục về cả hai mặt: dạy chữ, dạy kiến thức và
dạy người, rèn luyện nhân cách. Đối với giáo dục đại học, cao đẳng, trên cơ sở bảo đảm đội ngũ
giảng viên, điều kiện dạy và học để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng; xây dựng một số
trường đại học chất lượng cao theo chương trình hợp tác với các nước, tranh thủ sự giúp đỡ của
các tổ chức, quốc tế để nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu của các trường đại học, từ đó
nâng cao chất lượng đào tạo. Mở rộng và tăng cường liên kết và hợp tác với các trường đại học
danh tiếng ở nước ngoài nhằm nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên, cập nhật giáo
trình và tài liệu, tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp cận với những kiến thức mới nhất trên thế
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 21



[Type the document title]
giới. Đối với đào tạo nghề, cần phát triển mạnh về số lượng và cơ cấu theo yêu cầu của thị
trường. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 55% năm 2015 và 70% năm 2020.
Hai là, đầu tư cho phát triển khoa học – công nghệ. Để phát triển nhanh thị trường cơng
nghệ cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng và đổi mới công nghệ nhằm tái cấu
trúc nền kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, nâng tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố
tổng hợp lên 31- 32% vào năm 2015 và 35% vào năm 2020. Cụ thể là:
- Xây dựng chính sách, tạo mơi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy mạnh mẽ việc nâng cao
trình độ cơng nghệ của nền kinh tế, đặc biệt trong các doanh nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động tư
vấn, môi giới, dịch vụ về khoa học-công nghệ để phát triển thị trường công nghệ. Chuẩn bị ngay
việc xây dựng các văn bản hướng dẫn để sớm thực thi có hiệu quả Luật Sở hữu trí tuệ và Luật
Chuyển giao cơng nghệ sau khi được Quốc hội thông qua. Xây dựng phát triển các trung tâm giao
dịch khoa học-công nghệ tại các vùng kinh tế lớn trong cả nước.
- Đổi mới cơ bản chính sách đầu tư và cơ chế tài chính cho khoa học-công nghệ phù
hợp với đặc thù của hoạt động khoa học-cơng nghệ và thúc đẩy đầu tư của tồn xã hội cho đổi
mới công nghệ. Chú ý tập trung đầu tư cho con người để phát triển tài sản trí tuệ của đất nước và
xây dựng các cơ chế, chính sách đặc biệt để phát triển tiềm lực khoa học-cơng nghệ.
- Xây dựng lộ trình hội nhập quốc tế về khoa học-cơng nghệ để lĩnh vực này có đủ năng
lực phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết được các nhiệm vụ khoa học-cơng
nghệ quốc gia ở tầm quốc tế; nhanh chóng củng cố và mở rộng mạng lưới đại diện khoa học-công
nghệ ở nước ngoài. Tạo điều kiện để các viện nghiên cứu hàng đầu của khu vực và thế giới có chi
nhánh nghiên cứu tại Việt Nam.
- Cần có các giải pháp để sớm hình thành các tập thể khoa học và công nghệ mạnh với
đội ngũ các nhà khoa học đầu ngành, tổng cơng trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề có
trình độ khu vực và quốc tế, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ khoa học - công nghệ quốc gia ở
tầm quốc tế. Đầu tư có trọng điểm để xây dựng một số viện nghiên cứu đạt trình độ quốc tế.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế và nâng cao năng lực quản lý khoa học công nghệ, gắn hoạt
động khoa học - công nghệ với nhu cầu thị trường, với sản xuất - kinh doanh; phát triển thị

trường công nghệ và thúc đẩy nhanh thương mại hóa cơng nghệ bằng các biện pháp tư vấn, tổ
chức chợ cơng nghệ, khuyến khích đặt hàng từ các tổ chức, đơn vị... Nghiên cứu triển khai ứng
dụng gắn với việc thực hiện 16 chương trình phát triển các ngành kinh tế chủ lực của thành phố,
đồng thời đầu tư thích đáng cho nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu luận cứ cho hoạch định chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đô thị trên các lĩnh vực. Có chính sách
thu hút các cơ sở nghiên cứu công nghệ vào khu công nghệ cao hoạt động theo cơ chế doanh
nghiệp, khắc phục tình trạng bao cấp, hành chính hóa hoạt động khoa học - cơng nghệ.
- Cần hồn thiện hành lang pháp lý để nâng cao hiệu quả của Quỹ Phát triển khoa học và
công nghệ ở nước ta. Trước hết, nên nghiên cứu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ được áp dụng
một tỷ lệ trích lập Quỹ khoa học và cơng nghệ cao hơn so với các doanh nghiệp lớn (khoảng 1520%). Nếu doanh nghiệp trích Quỹ mà sử dụng vì mục đích lợi dụng Quỹ để hỗn thuế thì sẽ bị
truy thu và phải trả lãi cho Nhà nước. Tiếp theo là cần xác định rõ những khoản chi thuộc lĩnh
vực khoa học và cơng nghệ. Bên cạnh đó, cần xây dựng chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của Quỹ cho
từng nhóm doanh nghiệp và trên phạm vi tồn quốc. Đẩy mạnh tiến độ triển khai chương trình
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 22


[Type the document title]
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề trong doanh nghiệp để phục vụ
phát triển thị trường lao động.
Ba là, các địa phương phải chủ động xây dựng nguồn nhân lực tại chỗ để bảo đảm tính
bền vững cho các doanh nghiệp trên địa bàn.
Nếu không đảm bảo đúng mức yếu tố tái sản xuất sức lao động thì nguồn nhân lực sẽ luôn
là hữu hạn đối với mỗi quốc gia, địa phương. Ví dụ như ở các khu vực phát triển mạnh về công
nghiệp, nhất là khu vực Đông Nam bộ như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương... thì
nguồn lao động đa số do các tỉnh Bắc bộ và Bắc Trung bộ đáp ứng. Vì vậy, sau mỗi kỳ nghỉ Tết
Nguyên đán, nhiều công nhân về q và khơng trở lại doanh nghiệp dẫn đến tình trạng khủng
hoảng về lao động. Xử lý vấn đề này, các địa phương cần có chiến lược lâu dài, kết hợp với các
chủ thể sản xuất, kinh doanh đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực bền vững; có chế độ đãi ngộ đúng

mức để thu hút và giữ người lao động. Đồng thời, các doanh nghiệp sử dụng lao động phải gắn
với trách nhiệm đào tạo và đào tạo lại nguồn lực lao động, chứ không chỉ mua sức lao động vì lợi
nhuận trước mắt, khi cần thì tuyển cơng nhân, nhưng khi cần đào tạo lại để sử dụng thì sa thải họ
và th người khác. Điều đó làm cho nguồn nhân lực mất cân đối trên thị trường lao động của các
địa phương.
Bốn là, bên cạnh những yêu cầu mới thì nguồn nhân lực Việt Nam cịn chịu ảnh hưởng
của các yếu tố khác như: nền văn hoá, tàn dư chế độ phong kiến, tâm lý lao động nơng nghiệp,
tiểu nơng... Những tác động đó ln bao gồm hai mặt tích cực và hạn chế. Mặt tích cực: người
lao động thơng minh, cần cù, nhanh nhẹn, đồn kết u nước... là đức tính có từ lâu đời trong
truyền thống dân tộc ta cần khơi dậy và phát huy. Bên cạnh đó, cần phải khắc phục những hạn
chế như: tâm lý tiểu nông, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún, làm và bỏ làm một cách tùy tiện...
Các yếu tố vùng miền, dân tộc cũng ảnh hưởng, tác động tới việc bảo đảm nguồn nhân
lực cho phát triển nền kinh tế. Vì vậy, cần có quy hoạch, dự án đầu tư phát triển phù hợp với từng
địa phương, vùng, miền. Phát triển cân đối, hợp lý giữa các vùng, đặc biệt là vùng nông thôn,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo...
Năm là, tăng cường các hoạt động dự báo cung – cầu nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự
báo cung – cầu nguồn nhân lực là nhiệm vụ có thể giao cho chính bản thân các cơ sở đào tạo
hoặc các cơ sở nghiên cứu dự báo tư nhân tiến hành. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước là không
thể thiếu, đặc biệt khi cần phải xây dựng các trung tâm dự báo có quy mơ quốc gia hoặc quy mơ
khu vực. Thêm vào đó, Nhà nước cũng cần phải có những cơ chế và quy định cụ thể để các trung
tâm dự báo này có thể tiếp cận được với các cơ sở dữ liệu cần thiết phục vụ cho việc dự báo.
Sáu là, phát triển và đào tạo các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu chuyển đổi ngành nghề,
tái cấu trúc của các doanh nghiệp sau khủng hoảng, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và
phương pháp quản lý mới.
Bảy là, đầu thế kỉ XXI, nền giáo dục của lồi người có những bước tiến lớn với nhiều
thành tựu mọi mặt. Hầu hết các quốc gia nhận thức sự cần thiết và cấp bách phải đầu tư cho giáo
dục. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia được coi là
đầu tư có lãi lớn nhất cho tương lai của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng, mỗi gia đình và mỗi cá
nhân. Chính vì thế Nhà nước cần phải tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học và dạy nghề cả về
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO


Page 23


[Type the document title]
đội ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng đào tạo. Việc đầu
tư đổi mới cơ sở hạ tầng trong giáo dục là nhu cầu thiết yếu của ngành giáo dục để phục vụ cho
lợi ích của nhà trường của giáo viên và của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn
luyện con người. Thiết bị giáo dục cần đổi mới để có thể đi kèm, đáp ứng nhu cầu cập nhật của
phương pháp giáo dục hiện đại. Trường lớp cần được mở rộng, đầu tư tùy từng hoàn cảnh nhằm
phục vụ tốt nhất cho nhu cầu giáo dục ngày càng gia tăng của xã hội.
Tám là, Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với việc
việc sử dụng, trọng dụng và thu hút nhân tài, nhất là các nhà khoa học và chuyên gia thật sự có tài
năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa trình độ thực tế và bằng cấp, giữa chun
mơn và kĩ năng, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan cơng
quyền để tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay.
Khi thực hiện tốt những chính sách về thu hút nhân tài sẽ làm tăng cung nguồn nhân lực
chất lượng cao không chỉ từ các cơ sở đào tạo trong nước mà còn góp phần thu hút lao động có
trình độ cao được đào tạo ở nước ngoài, như các sinh viên đi du học và Việt kiều cũng như nguồn
nhân lực là Việt kiều để giảng dạy cho các trường đại học và làm việc trong lĩnh vực công nghệ
cao. Vậy các doanh nghiệp có thể thực hiện chính sách đãi ngộ nhân tài bằng các chính sách đào
tạo cộng với chế độ đãi ngộ như là cho nhân viên mua nhà trả góp để ổn định cuộc sống (Đây là
cách mà Ngân hàng Á Châu đã làm rất thành công). Hoặc ưu đãi cho người lao động mua cổ
phiếu của công ty để gắn chặt quyền lợi với trách nhiệm của người lao động, khuyến khích, động
viên họ nâng cao ý thức, kỷ luật và tự giác hồn thành tốt cơng việc được giao. Đây là biện pháp
được nhiều công ty lớn hiện nay như FPT áp dụng để ngăn chặn tình trạng chảy máu chất xám từ
phía các doanh nghiệp trong nước sang các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Chín là, Nhà nước cần có chính sách để các doanh nghiệp đóng góp cho sự nghiệp giáo
dục đào tạo. Đồng thời, các doanh nghiệp phải chủ động và có trách nhiệm đóng góp về tài chính,
cơ sở vật chất và kỹ năng thực hành cho các trường đại học và cơ sở dạy nghề. Cần tăng cường

liên kết với các doanh nghiệp trong việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao với các hình thức
đa dạng như mời doanh nghiệp tham gia giảng dạy, tổ chức cho sinh viên thực tập nhiều lần tại
doanh nghiệp… liên kết với các trường Đại học lớn như Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí
Minh để đặt hàng và liên kết đào tạo. Có như vậy, nguồn lao động trẻ của Việt Nam mới có cơ
hội làm việc và học tập trong mơi trường thực tế và có thể thích ứng được với môi trường làm
việc quốc tế một cách nhanh chóng.
Mười là, Nhà nước khi xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì phải xác
định thật rõ việc xây dựng nguồn nhân lực đó khơng chỉ là trách nhiệm của các nhà hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách mà cịn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Đồng thời phải
có biện pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách, vừa lâu dài của nguồn nhân lực,
trong đó có vấn đề khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực, tạo một chuyển biến thật sự mạnh
mẽ trong việc khai thác, đào tạo, sử dụng từ nguồn nhân lực trong cơng nhân, nơng dân, trí thức,
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 24


[Type the document title]
doanh nhân, dịch vụ,… Ngồi ra, Chính phủ cần có những quyết định đúng đắn về việc được
phép đầu tư vào cái gì trong nguồn nhân lực và phải thấy được tính hiệu quả khi đầu tư để tránh
dư thừa và gây lãng phí; cải thiện chính sách tiền tệ và tài chính, phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại
hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng vào thời điểm hiện nay.
Mười một là, không ngừng nâng cao trình độ học vấn. Hiện nay, nhìn chung, trình độ học
vấn bình quân của cả nước mới khoảng lớp 6/ đầu người. Tỷ lệ biết chữ mới đạt khoảng 93%. Vì
vậy, vấn đề đặt ra một cách gay gắt là phải bằng mọi biện pháp và đầu tư để nâng cao trình độ
học vấn của cả nước lên, bằng không, sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội. Thực hiện tồn xã hội học tập và làm việc.
Mười hai là, cải thiện thông tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân chủ, làm
cho mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực của nước ta và trên thế

giới. Có thể mở các cuộc thi hoặc những chương trình đố vui có thưởng để mọi người cùng tìm
hiểu vai trị và ý nghĩa của mình đối với sự phát triển của đất nước, nhất là trong thanh niên, học
sinh. Khi họ đã nhận thức được chính bản thân mình cũng đóng góp khơng nhỏ cho đất nước thì
họ sẽ có ý thức xây dựng và đóng góp cho sự phồn thịnh của quốc gia mình.
Mười ba là, hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở
Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở
đó mà xây dựng chính sách mới và điều chỉnh chính sách đã có về nguồn nhân lực ở Việt Nam,
như chính sách hướng nghiệp, chính sách dạy nghề, học nghề, chính sách quản lý nhà nước về
dạy nghề, học nghề; chính sách dự báo nhu cầu lao động và cân đối lao động theo ngành nghề,
cấp trình độ; chính sách thu hút các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực tạo nguồn
nhân lực cho đất nước; chính sách chi ngân sách để đào tạo nguồn nhân lực; chính sách đối với
các tổ chức NGO (Non Governmental Organization _ tổ chức phi chính phủ) có liên quan đến
vấn đề nhân tài, nhân lực; chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các
thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngồi; chính sách bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nơng dân, cơng nhân, trí thức, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho người lao động.
Mười bốn là, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải hướng vào việc xây dựng đội ngũ
những người lao động có phẩm chất và năng lực ngày càng cao với cơ cấu hợp lý về trình độ,
ngành nghề và theo lãnh thổ. Bên cạnh đó, phải đảm bảo công bằng xã hội trong phát triển nguồn
nhân lực, quan tâm nhiều hơn đến phát triển nguồn nhân lực tại các vùng yếu kém phát triển và
các bộ phận dân cư cịn đang gặp nhiều khó khăn. Như vậy, có thể thấy phát triển nguồn nhân lực
là trách nhiệm chung của nhà nước và của toàn xã hội.
Mười lăm là, đầu tư cho phát triển y tế chính là nhằm mục tiêu bảo vệ và chăm sóc sức
khoẻ cho cộng đồng và nâng cao thể lực và tầm vóc của con người bởi vì sức khoẻ là tài sản quý
giá nhất của mỗi người và của toàn xã hội. Muốn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thì một
trong những yếu tố cần thiết chính là phải xây dựng chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý, đảm bảo
cho việc tái sản xuất sức lao động. Ngoài ra, cần thực hiện cơng tác bảo hộ an tồn lao động trong
GVHD: ĐỖ GIOAN HẢO

Page 25



×