Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

khóa luận tốt nghiệp: TÌM HIỂU MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ TẠI XÃ NINH VÂN HUYỆN HOA LƯ TỈNH NINH BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.23 KB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
----------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

TÌM HIỂU MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ
TẠI XÃ NINH VÂN HUYỆN HOA LƯ TỈNH NINH BÌNH

Người thực hiện

: NGUYỄN THỊ THANH HUẾ

Lớp

: MTB

Khóa

: 54

Chuyên ngành đào tạo : Môi trường
Giáo viên hướng dẫn

: TS.ĐINH THỊ HẢI VÂN

Hà Nội - Năm 2013



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
--------------------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:

TÌM HIỂU MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ
TẠI XÃ NINH VÂN HUYỆN HOA LƯ TỈNH NINH BÌNH

Người thực hiện

: NGUYỄN THỊ THANH HUẾ

Lớp

: MTB

Khóa

: 54

Chuyên ngành đào tạo : Môi trường
Giáo viên hướng dẫn

: TS.ĐINH THỊ HẢI VÂN

Địa điểm thực tập


: UBND xã Ninh Vân - huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình

Hà Nội - Năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội, tôi
chân thành cảm ơn sự dạy dỗ, quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo,
cô giáo, ban giám hiệu nhà trường, ban chủ nhiệm khoa,…
Sau một thời gian thực tập tốt nghiệp để hoàn thành được khóa luận tốt
nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự dạy dỗ, quan
tâm giúp đỡ nhiệt tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn ban chủ nhiệm khoa, cùng toàn thể các thầy
cô giáo trong khoa Tài nguyên và Môi trường đã trang bị cho tôi những kiến
thức, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp này. Sự giúp
đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo trong bộ môn Quản lý môi trường.
Đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo TS.Đinh Thị Hải Vân
trong suốt quá trình tôi thực hiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của tập thể cán bộ
UBND xã Ninh Vân cùng toàn thể người dân xã Ninh Vân đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè và
những người xung quanh đã hết lòng tạo điều kiện, động viên, giúp đỡ và
luôn ở bên tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện.
Do trình độ và thời gian có hạn nên đề tài không thể tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý
kiến của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 26 tháng 4 năm 2013
Sinh viên


3


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
Bộ NN&PTNT
Bộ TN&MT
BVMT
BTNMT
CT-UBND
KHCN
NĐ-CP
NQ-CP
NQ/TU
QCVN
UBND
TB/TU
TCVN
TT-BNN
TT-BTC
TTCN
XDNTM

Diễn giải
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Bộ Tài nguyên và Môi trường
Bảo vệ môi trường

Bộ Tài nguyên môi trường
Chỉ thị - ủy ban nhân dân
Khoa học công nghệ
Nghị định – chính phủ
Nghị quyết – chính phủ
Nghị quyết/tỉnh ủy
Quy chuẩn Việt Nam
Ủy ban nhân dân
Thông báo/tỉnh ủy
Tiêu chuẩn Việt Nam
Thông tư –bộ Nông nghiệp
Thông tư – bộ Tài chính
Tiểu thủ công nghiệp
Xây dựng nông thôn mới

4


DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH, SƠ ĐỒ

5


Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ninh Vân là một xã nằm ở phía nam huyện Hoa Lư, tỉnhNinh Bình, có
diện tích tự nhiên 1.264 ha, phần lớn diện tích là núi đá vôi, chỉ có 374 ha
dành cho mục đích sản xuất nghiệp. Nói đến Ninh Vân là nói đến làng nghề

chạm khắc, chế tác đá mỹ nghệ có lịch sử rất lâu đời, với hơn 400 năm. Ngày
nay, nghề chạm khắc, chế tác đá mỹ nghệ phát triển và mở rộng ở khắp mọi
miền đất nước. Nằm nép bên dòng sông Vân, chỉ cách trung tâm thành phố
chưa đầy 7 km, từ bao đời nay, nghề đá đã mang lại cho Ninh Vân một diện
mạo mới, nhà cao tầng rầm rộ mọc lên, kinh tế đổi thay rõ nét…Thế nhưng,
phía sau sự giàu có ấy, tình trạng ô nhiễm môi trường đang gia tăng đến mức
báo động.
Trước đây, nghề đá chỉ tập trung với quy mô nhỏ, bây giờ phát triển
rộng với số lao động sản xuất đá mỹ nghệ chiếm gần 70% tổng số lao động
phi nông nghiệp của toàn xã. Cả xã có mới chỉ có trên 80 hộ có quy mô doanh
nghiệp, hơn 500 cơ sở sản xuất và có 8 doanh nghiệp lớn chuyên nhận các
công trình chế tác kỹ thuật cao. Có 5 trong tổng số 13 làng trong xã đã được
công nhận là làng nghề truyền thống. Năm 2012, thu nhập từ chế tác đá mỹ
nghệ ước đạt 113 tỷ 668 triệu đồng; bình quân thu nhập đầu người trên 22
triệu 500 nghìn đồng. Hiện nay, trên toàn xã Ninh Vân có khoảng 3000 lao
động tại địa phương (ngoài số lao động là người dân bản địa, còn có lao động
từ các tỉnh lân cận như Nam Định, Thanh Hóa , Nghệ An... đến làm việc và
sinh sống tại đại phương). Tuy vậy, trong thời kỳ hội nhập hiện nay, làng
nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân đang gặp phải đối mặt với nhiều thách thức. Vấn
đề môi trường cũng đang là thách thức không nhỏ đối với làng nghề Ninh
Vân [18].

6


Do môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng nên hàng nghìn hộ dân ở
Ninh Vân đang phải đối mặt với tình trạng gia tăng bệnh tật, đặc biệt là các
bệnh về hô hấp. Các bệnh thông thường người dân mắc phải là viêm da dị
ứng, viêm kết giác mạc, viêm họng hạt, viêm xoang mũi… Làm thế nào để
đảm bảo sức khỏe người dân mà vẫn phát triển nghề làm đá mỹ nghệ truyền

thống, đảm bảo kinh tế xã hội cần có những đánh giá tác động cụ thể, trên cở
sở đó tìm kiếm giải pháp quản lý môi trường để nâng cao sức khỏe người dân,
giảm ô nhiễm môi trường, vì vậy tôi thực hiện đề tài: “Tìm hiểu môi trường
làng nghề đá mỹ nghệ tại xã Ninh Vân huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình”.
1.2. Mục đích – yêu cầu
1.2.1. Mục đích
-

Đánh giá thực trạng môi trường tại làng nghề đá mỹ nghệ xã Ninh Vân huyện

-

Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
Đề xuất giải pháp bảo vệ môi trường hợp lí và nâng cao hiệu quả quản lý môi
trường tại làng nghề đá mỹ nghệ xã Ninh Vân huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình
để sản xuất và phát triển bền vững hơn.
1.2.2. Yêu cầu

-

Số liệu thu thập được sử dụng trong đề tài phải đảm bảo trung thực, khách

-

quan và cập nhập.
Đánh giá một cách trung thực khoa học và đầy đủ hiện trạng môi trường có

-

ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng.

Các giải pháp được đề ra phải thực tế và phù hợp với điều kiện địa phương
thực hiện đề tài (làng nghề đá mỹ nghệ xã Ninh Vân huyện Hoa Lư tỉnh Ninh
Bình).

7


PHẦN 2: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan phát triển làng nghề Việt Nam
2.1.1.Khái niệm, lịch sử phát triển làng nghề và phân loại, một số đặc điểm
làng nghề Việt Nam
2.1.1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển làng nghề
Từ xa xưa, người nông dân Việt Nam đã biết sử dụng thời gian nông
nhàn để sản xuất những sản phẩm thủ công, phi nông nghiệp phục vụ cho nhu
cầu đời sống như: cá công cụ lao động nông nghiệp, giấy, vải, lụa, thực phẩm
qua chế biến… Các nghề này được lưu truyền và mở rộng qua nhiều thế hệ,
dẫn đến nhiều hộ có thể sản xuất cùng một loại sản phẩm. Bên cạnh những
người chuyên làm nghề, đa phần lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa làm
nghề, hoạc làm thuê (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các
nghề mang tính chất chuyên môn sâu hơn, được cải tiến kỹ thuật hơn và
thường được giới hạn trong quy mô nhỏ (làng), dần dần tách hẳn nông nghiệp
để chuyển hẳn sang nghề thủ công. Như vậy, làng nghề đã xuất hiện[8].
Hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu về làng và làng nghề. Khái niệm
làng nghề rất đa dạng và thay đổi theo thời gian. Theo quy định mới nhất của
bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày
18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn) về làng nghề đã đưa các định nghĩa và tiêu chí công nhận như sau:
Làng nghề: là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn,
phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các

hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Từ định nghĩa về làng nghề mà xây dựng nên các tiêu chí công
nhận làng nghề. Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau:

8


+ Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn.
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm công nhận.
+ Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Định nghĩa thứ hai được được nêu ra là về nghề truyền thống: là nghề
đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng
biệt, được lưu truyền và phát triển cho đếnngày nay hoặc có nguy cơ bị mai
một, thất truyền…
Bên cạnh định nghĩa là các tiêu chí công nhận nghề truyền thống. Nghề
được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau:
+ Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm
đề nghị công nhận.
+ Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Nghề gắn liền với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi
của làng nghề.
Khi tổng hợp định nghĩa về làng nghề và nghề truyền thống đưa ra
được định nghĩa về làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền
thống được hình thành từ lâu đời. Và tiêu chí công nhận làng nghề truyền
thống:
Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một
nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày
18/12/2006 . Đối với những làng nghề chưa đạt hai tiêu chuẩn đầu của tiêu

chí công nhận làng nghề, nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công
nhận theo quy định của Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 thì
cũng được công nhận là làng nghề truyền thống.
Làng nghề là một trong những đặc thù của nông thôn Việt Nam. Nhiều
sản phẩm được sản xuất trực tiếp tại các làng nghề đã trở thành thương phẩm

9


trao đổi, góp phần cải thiện đời sống gia đình và tận dụng những lao động dư
thừa lúc nông nhàn. Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng
trăm năm, song song với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và nông
nghiệp của đất nước. Ví dụ như làng nghề đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với
hơn 900 năm phát triển, làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần 500 năm
tồn tại, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Thái Bình) hay nghề điêu khắc đá mỹ
nghệ Non Nước (thành phố Đà Nẵng) cũng đã hình thành cách đây hơn 400
năm,... Nếu đi sâu vào tìm hiểu nguồn gốc của các sản phẩm này ban đầu đều
được sản xuất để phục vụ sinh hoạt hàng ngày hoặc là công cụ sản xuất nông
nghiệp, chủ yếu được làm trong lúc nông nhàn. Kỹ thuật, công nghệ, quy
trình sản xuất cơ bản để làm ra các sản phẩm truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác [2].
2.1.1.2. Phân loại, một số đặc điểm làng nghề Việt Nam
Cách phân loại làng nghề phổ biến nhất là phân loại theo hình sản
xuất, loại hình sản phẩm. Theo cách này có thể phân thành 6 nhóm ngành
sản xuất gồm có:


Làng nghề ươm tơ, dệt vải và may đồ da.




Làng nghề chế biến lương thực thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ.



Làng tái chế phế liệu (giấy, nhựa, kim loại,...)



Làng nghề thủ công mỹ nghệ, thêu ren.



Làng nghề vật liệu xây dựng, khai thác và chế tác đá.



Các nhóm làng nghề khác ( mộc gia dụng, cơ khí nhỏ, đóng

thuyền, quạt giấy, đan vó, lưới,...).

Hình 2.1. Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất
(Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, 2008)

10


Ngoài ra còn có thể phân loại làng nghề theo quy mô sản xuất (lớn,
nhỏ, trung bình); phân loại theo nguồn nước thải và mức độ ô nhiễm; theo
lịch sử phát triển; theo mức độ sử dụng nguyên liệu, theo thị trường tiêu thụ

sản phẩm hoặc theo tiềm năng tồn tại và phát triển... [2].
Theo bà Đặng Kim Chi trong cuốn làng nghề Việt Nam và Môi trường
cho biết hiện trong cả nước có 13% số hộ nông dân chuyên sản xuất nghề,
27% số hộ nông dân tham gia sản xuất nghề, thu hút hơn 29% lực lượng lao
động ở nông thôn. Các làng nghề hoạt động với các hình thức khá đa dạng:
trong tổng số 40.500 cơ sở sản xuất ở các làng nghề có 80,1% là các hộ cá
thể, 5,8% theo hình thức Hợp tác xã và 14% thuộc các dạng sở hữu khác [8].
Bên cạnh đó thì làng nghề Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản là: làng
nghề tại Việt Nam phân bố không đồng đều. Việt Nam có khoảng 2017 làng
nghề, thuộc 11 nhóm ngành nghề khác nhau, trong đó gồm 1,4 triệu hộ tham
gia sản xuất (cả hộ kiêm), thu hút hơn 11 triệu lao động. Nhiều tỉnh có số
lượng các làng nghề lớn như Hà Tây (cũ) với 280 làng nghề, Bắc Ninh(187),
Hải Dương (65), Hưng Yên (48),...với hàng trăm làng nghề khác nhau,
phương thức sản xuất đa dạng. Tuy nhiên, sự phân bố và phát triển các làng
nghề lại không đồng đều trong cả nước. Các làng nghề ở miền Bắc phát triển
hơn ở miền Trung và ở miền Nam, chiến gần 70% số lượng các làng nghề
trong cả nước (1594 làng nghề), trong đó tập trung nhiều nhất và mạnh nhất là
vùng đồng bằng sông Hồng. Miền Trung có khoảng 111 làng nghề, còn lại ở
miền Nam hơn 300 làng nghề [2]:

Hình 2.2. Sự phân bố các làng nghề Việt Nam theo khu vực
(Nguồn: Hiệp Hội làng nghề Việt Nam, 2010)

11


2.1.2. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
2.1.2.1. Làng nghề với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn
Điều kiện cơ sở hạ tầng là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ phát
triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện nước sạch, giao thông

và những yếu tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết đối với sự tăng trưởng
và phát triển của các làng nghề. Phát triển cơ sở hạ tầng tốt sẽ góp phần thực
hiện mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, tạo việc làm, xóa
nghèo ở nông thôn thông qua việc phát triển các ngành nghề tại các làng
nghề. Ngược lại, sự phát triển kinh tế của các làng nghề cũng góp phần đổi
mới bộ mặt nông thôn, cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật [2].
2.1.2.2. Làng nghề và xóa đói giảm nghèo
Cùng với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn là sự phát triển
kinh tế trong đó giải quyết được một vấn đề nan giải là xóa đói giảm nghèo.
Tại các làng nghề, đại bộ phận dân cư làm nghề thủ công nhưng vẫn tham gia
sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Tại nhiều làng nghề, trong cơ
cấu kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt từ 60 –
80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20 – 40%. Trong những năm gần đây số
hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn ngày càng tăng lên với tốc độ tăng bình
quân từ 8,8 – 9,8% năm, kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm làng nghề
không ngừng gia tăng. Chính vì vậy, có thể thấy, làng nghề đóng vai trò rất
quan trọng đối với việc xóa đói giảm nghèo trong nông thôn, trực tiếp giải
quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu
nhập, nâng cao chất nghề cao gấp từ 3 đến 4 lần so với thu nhập của lao động
thuần nông [2].
2.2. Ảnh hưởng của làng nghề tới môi trường và sức khỏe con người
Trải qua bao đời nay, các làng nghề với phương thức sản xuất thủ công
nghiệp đã tồn tại và phát triển, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặc biệt góp phần cải thiện đời sống nông

12


thôn. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng mang lại nhiều bất cập, đặc biệt về
vấn đề môi trường và xã hội. Vấn đề môi trường mà các làng nghề đang phải

đối mặt không chỉ giới hạn ở trong phạm vi các làng nghề mà còn ảnh hưởng
đến người dân ở vùng lân cận. Theo Báo cáo môi trường quốc gia năm 2008
với chủ đề “Môi trường làng nghề Việt Nam”: hiện nay “hầu hết các làng
nghề Việt Nam đều bị ô nhiễm môi trường (trừ các làng nghề không sản xuất
hoặc dùng nguyên liệu không gây ô nhiễm như thêu, may…). Chất lượng môi
trường tại hầu hết các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn khiến người lao
động phải tiếp xúc với các nguy cơ gây hại cho sức khỏe, trong đó 95% là từ
bụi; 85,9% từ nhiệt và 59,6% từ hóa chất. Kết quả khảo sát 52 làng nghề cho
thấy, 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng ở cả 3 dạng; 27% ô
nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ”.
Các hoạt động của làng nghề đã và đang làm suy thoái môi trường
nghiêm trọng, tác động trực tiếp tới sức khỏe người dân và ngày càng trở
thành vấn đề bức xúc. Ô nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm
phân tán trong phạm vi một khu vực và mang đậm nét đặc thù của hoạt động
sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm. Tuy nhiên cũng phải nhìn
nhận toàn diện vấn đề ô nhiễm làng nghề. Do các làng nghề mang đậm nét
đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, vì vậy
không phải tất cả các làng nghề đều gây ô nhiễm và mức độ cũng như dạng ô
nhiễm gây ra là không giống nhau [2]. Thực trạng ô nhiễm môi trường ở các
làng nghề thường xảy ra ở mấy loại phổ biến sau đây:
2.2.1. Tác động của làng nghề và ô nhiễm không khí
Không khí là môi trường quan trọng nhất đối với con người do con
người có thể không ăn uống nhiều ngày nhưng không thể ngừng thở một phút.
Đối với các làng nghề, ô nhiễm không khí bao gồm các dạng ô nhiễm do bụi,
do khí độc hại, ô nhiễm mùi và ô nhiễm tiếng ồn. Ô nhiễm không khí là vấn
đề nhức nhối ở các làng nghề tái chế, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá,

13



chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ. Ô nhiễm bụi thường
xuất hiện tại các làng nghề gốm sứ, vật liệu xây dựng, khai thác đá, đồ gỗ mỹ
nghệ và các làng nghề tái chế (đặc trưng nổi bật là một lượng lớn bụi chứa
kim loại và bụi vật liệu độc hại). Trong số các làng nghề thủ công mỹ nghệ thì
có thể nhắc đến làng nghề mây tre đan, không khí thường bị ô nhiễm bởi SO 2
(phát sinh từ quá trình xử lý chống mốc sản phẩm mây tre đan). Thái Bình là
một ví dụ, nơi đây có 40/210 làng nghề làm mây tre đan, có tới 800 lò sấy lưu
huỳnh thải ra lượng khổng lồ khí SO2 từ quá trình xử lý chống mốc sản phẩm
mây tre đan. Nhóm các làng nghề được đề cập tiếp theo là sản xuất vật liệu
xây dựng và khai thác đá, ở các làng nghề khai thác đá, bụi phát sinh từ quá
trình khai thác chế tác đá là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ô nhiễm không khí.
Đặc biệt, trong bụi phát sinh từ từ hoạt động chế tác đá còn chứa một lượng
không nhỏ SiO2 (0,56 – 1,91% tại làng nghề đá Non Nước – thành phố Đà
Nẵng) rất có hại cho sức khỏe. Không chỉ có thế hàng trăm cỗ máy đua nhau
hoạt động hết công suất suốt ngày đêm, nào là máy xẻ, máy mài, rồi đến máy
xay đá, việc ô nhiễm tiếng ồn là điều không thể tránh khỏi. Và một nhóm
làng nghề khác cũng bị ô nhiễm tiếng ồn là các làng nghề dệt do các máy thủ
công trong môi trường vi khí hậu của chính làng nghề. Mức ồn có nơi vượt
tiêu chuẩn cho phép từ 4 – 14 dBA [2].
Tại báo Nhân dân ngày 23/6/2005, GS.TS. Đặng Kim Chi đã cảnh báo:
Môi trường không khí bị ô nhiễm cục bộ tại nơi sản xuất trực tiếp, nhất là ô
nhiễm bụi vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) và ô nhiễm do sản xuất than củi.
Tỷ lệ người dân lang nghề mắc bệnh cao hơn các làng thuần nông, thường
gặp các bệnh về đường hô hấp, đau mắt, đường ruột, bệnh ngoài da. Nhiều
dòng sông chảy qua các làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm nặng; nhiều
ruộng lúa, cây trồng bị giảm năng suất do ô nhiễm không khí từ làng nghề
[8].

14



Qua các vấn đề về ô nhiễm không khí ta đã thấy những tác động tới môi
trường không khí là rất lớn nhưng môi trường còn có vấn đề khác cũng cần
nhắc đến đó là ô nhiễm môi trường nước.
2.2.2. Tác động của làng nghề và ô nhiễm nước
Nước cũng rất quan trọng đối với con người khi mà cơ thể con người có
tới 75% là nước tồn tại ở nhiều dạng khác nhau. Trong thực tế nguồn nước ở
nhiều vùng rất khan hiếm: Trung Đông, châu Phi,… may mắn Việt Nam là
đất nước có nguồn nước dùng dồi dào. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam có
hàng trăm thứ nước thải không qua xử lý từ các làng nghề đang xả thải làm
hủy hoại môi trường các dòng sông, ao hồ, kênh rạch. Đây chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến thiếu nước sạch dùng trong tương lai. Kết quả
khảo sát chất lượng nước thải làng nghề những năm gần đây cho thấy, mắc ô
nhiễm hầu như không giảm mà thậm chí còn tăng cao hơn trước. Do các làng
nghề sử dụng công nghệ và nguyên liệu trong sản xuất là khác nhau nên khối
lượng và đặc trưng nước thải sản xuất ở các làng nghề là không giống nhau.
Tại các làng nghề tái chế kim loại với các ngành gia công cơ khí, đúc, mạ, tái
chế và chế tác kim loại có lượng nước thải không lớn nhưng lại chứa nhiều
chất độc hại như kim loại nặng (Zn, Cr, Ni,..), dầu mỡ công nghiệp. Qúa trình
mạ bạc còn tạo muối Hg, xyanua, oxit kim loại và các tạp chất khác. Nước
thải một số làng nghề có hàm lượng kim loại nặng như Cr 6+, Zn2+ và Pb2+ lớn
hơn 1,5 đến 10 lần quy chuẩn cho phép.
Trong khi đó các làng nghề như chế biến lương thực, thực phẩm, chăn
nuôi, giết mổ gia súc,… có nhu cầu nước rất lớn và cũng xả ra khối lượng lớn
nước thải với mức ô nhiễm hữu cơ từ cao đến rất cao. Trong đó hoạt động sản
xuất tinh bột từ sắn và dong giềng là hoạt động tạo ra lượng nước thải lớn với
60 – 72% nước thải từ nước ban đầu sử dụng cho sản xuất (nước thải phát
sinh từ khâu lọc, tách bã và tách bột đen), có pH thấp, mức ô nhiễm BOD 5,
COD vượt nhiều lần TCVN 5945 – 2005 mức B trên 200 lần. Khi nhắc đến


15


nước thải có dộ màu cao chứa nhiều hóa chất là nhắc đến nhóm làng nghề dệt
nhuộm do nhu cấu hóa chất lơn, bao gồm: thuốc nhuộm các loại, axit, xút mà
khoảng 80 – 90% loại hóa chất này hòa tan vào trong nước thải [2].
Ngoài ô nhiễm không khí và ô nhiễm nước thì ô nhiễm chất thải rắn
cũng là loại ô nhiễm dễ bắt gặp nhất trong các làng nghề hiện nay.
2.2.3. Tác động của làng nghề và ô nhiễm chất thải rắn
Có rất nhiều làng nghề ô nhiễm chất thải rắn: tái chế nguyên liệu ( giấy,
nhựa, kim loại,…không tái chế được) hoặc làng nghề chế biến lương thực,
thực phẩm có bã thải của các loại thực phẩm (sắn, dong,…) và nhiều làng
nghề khác với khối lượng rất lớn và đa dạng về thành phần, khó phân hủy
thường được đổ ra bất kỳ dòng nước hoặc khu đất trống nào. Đây chính là
một trong những nguyên nhân làm cho nước ngầm và đất bị ô nhiễm các chất
hóa học độc hại, ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Làng nghề Hoàng Diệu
huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương là một ví dụ điển hình. Làng nghề may gia
công , da giầy tạo ra chất thải rắn như vải vụn , da vụn gồm da tự nhiên, giả
da, cao su chất dẻo với lượng thải lên tới 4 – 5 tấn/ ngày. Đây loại chất thải
khó phân hủy nên không thể xử lý bằng chôn lấp. Chính vì thế mà từ nhiều
năm nay chưa được thu gom xử lý mà đổ khắp nơi trong làng gây mất mỹ
quan và ảnh hưởng tới môi trường sinh thái.
Đối với các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm , chăn nuôi, giết
mổ,… thải ra một lượng lớn chất thải rắn giàu hữu cơ dễ phân hủy sinh học
gây khó chịu đối với cộng đồng. Tại làng nghề Dương Liễu hàng năm phát
sinh tới 105.768 tấn bã thải trong khi đó sản lượng chỉ đạt 52.000 tấn tinh
bột/năm. Một phần lượng bã thải được tận thu làm thức ăn gia súc , làm nhiên
liệu. Một phần không nhỏ bã thải bị cuốn theo nước thải gây tắc nghẽn hệ
thống thu gom cũng như ao hồ khu vực, gây ô nhiễm nghiêm trọng nước mặt
và nước dưới đất [2].


16


Ô nhiễm môi trường rắn cũng cho thấy tính nghiêm trọng cần giải
quyết triệt để hạn chế ảnh hưởng tới môi trường, con người cũng như cảnh
quan. Như vậy, làng nghề đã tác động và gây nên ba vấn đề nhức nhối cần
giải quyết ngay đó là ô nhiêm không khí, ô nhiễm nước và ô nhiễm chất thải
rắn. Không những thế, ô nhiễm môi trường làng nghề gây tác hại đến các hoạt
động kinh tế. Tại làng đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng), khối lượng đá phế
phẩm không tận dụng được là rất lớn. Do không có khu vực đổ thải riêng nên
các cơ sở sản xuất đã đổ thải xung quanh cơ sở sản xuất cảu làng nghề. Điều
này đã gây tác động tiêu cực, ảnh hưởng trực tiếp đến quần thể thắng cảnh
Ngũ Hành Sơn [2].
Các vấn đề thường gặp tại các làng nghề tại Việt Nam dẫn đến những
tác động môi trường trên:
- Quy mô sản xuất, phần lớn ở quy mô hộ gia đình (chiếm 72% tổng số
cơ sở sản xuất).
- Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ có nguồn gốc nông
dân đã ảnh hưởng mạnh đến sản xuất tại làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm
môi trường.
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã.
- Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp vá,
kiến thức tay nghề không toàn diện dẫn đến tiêu hao nhiều nguyên liệu, làm
tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm môi trường ành hưởng tới giá thành sản
phẩm và chất lượng môi trường. Một phần được thể hiện ở trình độ kỹ thuật
của làng nghề hiện nay:
Bảng 2.1. Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề hiện nay

Trình độ kỹ thuật


Chế biến
nônglâm-thủy
sản

Thủ công mỹ
nghệ và vật
liệu xây dựng

Các
ngành
dịch vụ

Các
ngành
khác

Thủ công bán cơ khí (%)

61,51

70,69

43,9

59,44

17



Cơ khí (%)
Tự động hóa (%)

38,49

29,31

56,1

40,56

0

0

0

0

(Nguồn: Đặng Kim Chi, 2005)

Qua bảng 2.1. cho thấy sự lạc hậu của trình độ kỹ thuật khi mà chưa có
làng nghề nào sử dụng tự động hóa để giảm thời gian, giảm sức lao động.
- Vốn đầu tư thấp của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề quá thấp,
khó có điều kiện để phát triển hoặc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện
với môi trường.
- Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, học nghề, văn
hóa thấp, nên hạn chế nhận thức đối với công tác bảo vệ môi trường.
- Nhiều làng nghề chưa quan tâm tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
cho bảo vệ môi trường [2].

2.2.4. Tác động của làng nghề tới sức khỏe con người
Trong thời gian gần đây, tại nhiều làng nghề tỷ lệ người mắc bệnh (đặc
biệt là nhóm người trong độ tuổi lao động) đang có xu hướng tăng cao. Theo
các kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thọ trung bình của người dân tại các
làng nghề ngày càng giảm đi, thấp hơn 10 năm so với tuổi thọ trung bình toàn
quốc và so với làng không làm nghề tuổi thọ này cũng thấp hơn từ 5 đến 10
năm. Bên cạnh những vấn đề bệnh tật do ô nhiễm môi trường làng nghề, các
nguy cơ tai nạn thương tích đối với người lao động tại các làng nghề này cũng
rất cần được quan tâm. Những tai nạn lao động như nổ lò, điện giật, bỏng,
ngã, gãy tay, vật nặng đè cũng đáng báo động, tỷ lệ tai nạn lao động tại nhóm
làng nghề này chiếm khoảng 33,4% mỗi năm. Theo một nghiên cứu năm
1999, cho thấy tỷ lệ tai nạn lao động tại làng nghề Đa Hội – Bắc Ninh lên tới
56,9%. Nghiên cứu khác tại làng nghề Đại Bái – Bắc Ninh (2002) tỷ lệ tai nạn
lao động 42,2%. Theo nghiên cứu tại Tống Xá – Nam Định năm 2007, tỷ lệ
tai nạn thương tích (bỏng, điện giật, gãy chân tay..) của làng nghề Tống Xá

18


cao hơn so với khu vực đối chứng là làng An Thái và Ba Khu thuộc xã Yên
Phong (Nam Định) [2].
Số liệu từ Hiệp hội Ung thư Việt Nam cho thấy mỗi năm cả nước phát
hiện 150.000 người mắc bệnh và hơn 75.000 người chết vì ung thư. Hầu hết
người bệnh đều không được phát hiện sớm để điều trị. Khảo sát trên 400 bệnh
nhân đến khám tại Bệnh viện K (Hà Nội) cho thấy có đến 79% được chẩn
đoán và điều trị lần đầu khi đã ở giai đoạn 3 và 4. Nguyên nhân là do chủ
quan và thiếu hiểu biết về ung thư. Và theo số liệu từ Bệnh viện K (Hà Nội),
trong 5 năm (2007-2011) có 80.254 bệnh nhân ung thư đến điều trị tại bệnh
viện. Trong đó, nam giới chiếm 40,1%, nữ giới 59,9%. Số lượng bệnh nhân
đến điều trị ngày một tăng, nhiều nhất là ung thư vú, phổi. Trong đó có một

lượng không nhỏ là những người sống trong các làng nghề. Các địa phương
có bệnh nhân điều trị ung thư cao là Hà Nội với 16.884 người, Thanh Hóa
5.569, Nam Định 5.334, Nghệ An 5.051, Thái Bình 4.461, Hải Dương 3.841,
Hải Phòng 3.567, Phú Thọ 2.808, Ninh Bình 2.161[13].
Thực tế trong quá trình sản xuất và sinh hoạt tại các làng nghề sản xuất
vật liệu xây dựng, người dân phải trực tiếp sống trong môi trường có nồng độ
bụi, các khí độc cao nên tỷ lệ mắc bệnh về đường hô hấp, bệnh về da rất cao.
Một số bệnh điển hình tại các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai
thác đá như bệnh tai mũi họng, bệnh hô hấp, bệnh mắt, bệnh thần kinh mệt
mỏi, rối loạn tâm thần. Tỷ lệ mắc bệnh tại các làng nghề với những người
sống thuần nông sống trong khu vực làng nghề (88,1% so với 52,2%). Theo
kết quả điều tra của Trung tâm Y tế Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), với 1200
người lao động ở làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, tỷ lệ người dân làm nghề
bị mắc bệnh cao hơn nhiều so với khu dân cư lân cận không tham gia nghề[2]:
Bảng 2.2. Tỷ lệ bênh tật tại làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà Nẵng)
tính trên tổng số dân khu vực.

19


TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11
12

Các loại bệnh thường gặp
Bệnh ngoài da
Đau mắt
Đau ngang thắt lưng
Bệnh về thần kinh
Bệnh về dạ dày
Bệnh về thận
Bệnh về đường hô hấp
Viêm đường ruột
Bệnh thấp khớp
Bệnh tim và huyết áp
Răng hàm mặt
Tai mũi họng

Người dân
làm nghề (%)
14
2,3
12,8
2,3
4,6
1,2
4,6
1,2
4,6
1,2

1,2
8,4

Dân cư không làm
nghề (%)
0,012
0,24
0,07
0,13
0,43
0,34
0,4
0,024
0,39

( Nguồn: Trung tâm y tế Ngũ Hành Sơn, 2006)

2.3. Công tác quản lý môi trường tại các làng nghề ở Việt Nam
Làng nghề đang phát triển mạnh mẽ về số lượng, quy mô và loại ngành
nghề. Ô nhiễm môi trường trở thành một vấn đề cấp bách đã vượt qua tầm
kiểm soát , nhiều nơi của chính quyền địa phương. Nhận thức về vấn đề này,
đã có nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước đề cập đến bảo vệ môi trường
làng nghề.
Ở góc độ quy phạm pháp luật, Luật bảo vệ môi trường năm 2005 và
hàng loạt các văn bản dưới luật cũng được ban hành, trong đó có nêu trách
nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn của các bên liên quan trong công tác bảo vệ môi
trường làng nghề từ trung ương đến địa phương, như: Quyết định số
66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2008 của Thủ Tướng Chính phủ về phát triển
làng nghề nông thôn quy định một số nội dung có liên quan đến bảo vệ môi
trường (BVMT), thông tư số 113/TT-BTC ngày 28/12/2006 của Bộ tài chính

về việc hướng dẫn một số nội dung về ngân sách nhà nước hỗ trợ phát triển
làng nghề nông thôn theo nghị định số 66-2006/NĐ-CP [2].

20


Theo Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tập trung chỉ đạo, thực hiện tốt 7 nhiệm vụ, giải pháp gồm:
- Tăng cường công tác bảo vệ môi trường tại các khu, cụm công
nghiệp; nâng cao chất lượng thẩm định yêu cầu bảo vệ môi trường trong các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển.
- Chú trọng bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản.
- Tập trung khắc phục ô nhiễm, cải thiện môi trường nông thôn, làng nghề.
- Chỉ đạo quyết liệt, từng bước khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường tại các thành phố lớn và các lưu vực sông.
- Kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phế liệu.
- Ngăn chặn có hiệu quả sự suy thoái của các hệ sinh thái, suy giảm các loài.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Tuy vậy các văn bản pháp luật BVMT làng nghề còn thiếu và chưa cụ
thể. Luật BVMT năm 2005 là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh
vực môi trường, trông đó có điều 38 về BVMT làng nghề và các điều khoản
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp. Cho đến hiện nay, chưa có một văn bản
hướng dẫn thực hiện nội dung BVMT làng nghề của Luật BVMT. Dù có một
số nội dung BVMT làng nghề được đề cập đến trong một số văn bản khác
nhau nhưng cũng chưa có quy định cụ thể về việc làng nghề phải có hệ thống
thu gom và xử lý nước thải tập trung, phải có biện pháp giảm thiểu khí thải
phát sinh… Các làng nghề rất đa dạng và mỗi loại có đặc thù riêng. Tuy
nhiên, hoàn toàn chưa có văn bản pháp luật quy định riêng đối với vấn đề

BVMT làng nghề theo đặc thù riêng của mỗi loại hình sản xuất làng nghề.

21


Những văn bản hướng dẫn hiện hành quy định chung cho tất cả loại hình sản
xuất nhiều khi không phù hợp và khó áp dụng.
Về chức năng quản lý nhà nước về phát triển làng nghề hiện nay có 2
bộ được Chính phủ phân công, đó là Bộ NN&PTNT có trách nhiệm xây dựng
quy hoạch tổng thểphát triển ngành nghề nông thôn toàn quốc đến 2020, Bộ
Công thương quản lý các cụm, điểm công nghiệp ở cấp huyện và các doanh
nghiệp ở địa phương. Về quản lý môi trường tổng thể, Bộ TN&MT là bộ
được giao xây dựng và ban hành các chính sách liên quan đến bảo vệ môi
trường cả nước, trong đó có làng nghề. Tuy nhiên, sự phối hợp của các cơ
quan chưa tốt, các sự việc bị chồng chéo về chức năng quản lý phát triển làng
nghề giữa các Bộ. Ở địa phương, vai trò của các cấp chính quyền sở tại trong
quản lý môi trường còn mờ nhạt. Hầu hết các văn bản mới chỉ dừng ở lại mức
độ quy định trách nhiệm cho UBND tỉnh. Sự kết hợp giữa các cơ quan quản
lý môi trường các cấp còn nhiều hạn chế. Công tác quy hoạch các khu/cụm
công nghiệp tập trung cho làng nghề còn nhiều vấn đề tồn tại. Nhiều tỉnh,
thành phố đã có chủ trương xây dựng các khu/cụm công nghiệp. Tuy nhiên,
hiện nay không có nhiều khu công nghiệp được thành lập. Tổ chức thực hiện
pháp luật BVMT làng nghề còn yếu và chưa phát huy hiệu quả. Hiệu lực thực
thi pháp luật còn kém là do còn chậm trong việc triển khai các văn bản quy
phạm pháp luật về BVMT làng nghề tại các cấp, công tác thanh tra, kiểm tra
việc thực thi pháp luật về BVMT tại các làng nghề chưa được thường xuyên
và triệt để, xử phạt hành chính các hành vi gây ô nhiễm môi trường tại các
làng nghề còn chưa nghiêm.
Các công cụ kinh tế chưa áp dụng tại các làng nghề. Việc thu phí
BVMT đối với nước thải tại các làng nghề hầu như không được thực hiện

được do sản xuất, chăn nuôi và sinh hoạt đan xen lẫn nhau, khó tách bạch
nước thải sản xuất ra để tính toán mức phí. Chưa kể đời sống người dân còn

22


nghèo, nguồn nước sử dụng chủ yếu là nước giếng khơi và giếng khoan. Nhân
lực, tài chính và công nghệ cho BVMT làng nghề không đáp ứng được nhu
cầu. Lực lượng cán bộ làm công tác môi trường còn quá mỏng về số lượng và
hạn chế về trình độ. Nhân lực quản lý môi trường từ trung ương đến địa
phương chưa đủ về số lượng, thiếu người chuyên trách về môi trường làng
nghề, không được đào tạo bài bản và cũng không được tập huấn thường
xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn. Đầu tư cho BVMT làng nghề chưa
tương xứng với quy mô sản xuất hiện nay. Cho đến nay, kinh phí đầu tư cho
BVMT làng nghề còn hết sức hạn chế. Thêm vào đó, việc thu phí BVMT tại
làng nghề còn chưa áp dụng một cách triệt để. Kinh phí cho công tác BVMT
do chính quyền xã tự trang trải lấy từ nguồn được phép chỉ 10% nguồn thu
thuế của các hộ sản xuất. Lượng kinh phí này không đủ để xây dựng hệ thống
xử lý giúp làm giảm ô nhiễm môi trường. Một số làng nghề có dịch vụ này
cho cán hộ sản xuất đóng góp nhưng lượng thu này cũng không đủ để chi trả
tiền công cho tổ dịch vụ và trang thiết bị thu gom. Việc ứng dụng công nghệ
môi trường tại các làng nghề còn chưa chú trọng đúng mức. Công tác quản lý
môi trường chưa huy động được đầy đủ các nguồn nhân lực xã hội trong
BVMT làng nghề. Tiềm năng của cộng đồng trong BVMT vẫn chưa được
phát huy đầy đủ tại địa phương. Và đấu tranh của cộng đồng với các cơ sở
gây ô nhiễm buộc họ phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm. Trách
nhiệm của các doanh nghiệp, đặc biệt là các hộ sản xuất tại chính làng nghề
đối với việc tuân thủ pháp luật về môi trường còn chưa cao [2].
Thành phố Đà Nẵng là một trong những tỉnh, thành phố có nhiều sáng
kiến trong công tác quản lý môi trường tại địa phương và đã đạt được những

hiệu quả tốt. Công tác quản lý làng nghề tại làng điêu khắc Non Nước –
Thành phố Đà Nẵng đang được chú trọng. Bắt đầu từ năm 2007, UBND thành
phố Đà Nẵng đã ban hành Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể cho làng;
UBND quận cũng đã đưa ra nhiều phương án để tiến hành quy hoạch, giải tỏa

23


đền bù nhưng tiến độ vẫn còn chậm (mới thực hiện được hơn 50% công việc
giải tỏa đền bù). Hiện nay, quận đang tổ chức nhiều đoàn công tác liên ngành
xuống địa bàn đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các gia đình trong
diện giải tỏa đền bù tích cực phối hợp với chính quyền để sớm bàn giao mặt
bằng. Cùng với đó, UBND thành phố và quận cũng đang tập trung vốn và có
kế hoạch cụ thể để triển khai các công việc tiếp theo, đồng thời tiến hành điều
tra tổng thể hoạt động của làng nghề để có cơ sở bố trí, sắp xếp một cách khoa
học, hợp lý. Đối với vấn đề vốn cho làng nghề, hiện nay phần lớn các hộ làm
nghề điêu khắc tại làng đá Non Nước không tiếp cận được nhiều nguồn vốn
mà chủ yếu từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng
Chính sách xã hội. Nguyên nhân là các tài sản, nhất là đất đai không đủ pháp
lý để thế chấp (vì chủ yếu đất do xã giao, ít có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất). Để tạo điều kiện cho các hộ sản xuất kinh doanh tiếp cận được
nhiều nguồn vốn thì các ngành chức năng, khi xác minh nguồn gốc tài sản,
nên có quy định riêng, không quá cứng nhắc. Tiêu chí chủ yếu là đánh giá kết
quả sản xuất kinh doanh để tạo điều kiện cho các hộ vay vốn và Hội làng
nghề đứng ra giúp cho các cơ sở lập hồ sơ, tín chấp để vay vốn, trên cơ sở đó,
mới có điều kiện để mở rộng sản xuất, đầu tư máy móc thiết bị và xử lý tốt
môi trường của làng nghề.
Bên cạnh đó, Ban quản lý làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước cũng cho
biết, để làng nghề đá mỹ nghệ có được thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định
và ngày càng phát triển, cần phải đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại,

quảng bá thương hiệu của làng thông qua việc tiếp tục tham gia các hội chợ
lớn về ngành thủ công mỹ nghệ trong và ngoài nước; xây dựng website Hội
làng nghề ngày càng nhiều nội dung, giới thiệu nhiều hơn về hình ảnh, hiệu
quả, sản phẩm độc đáo của làng nghề; đẩy mạnh việc từng cơ sở sản xuất kinh
doanh mở website và xây dựng nhãn hiệu công nghiệp cho từng cơ sở sau khi
logo làng nghề được công nhận; tăng cường khai thác thông tin thị trường trên

24


mạng… Cùng với các công việc trên, trong thời gian sắp tới quận sẽ đẩy
mạnh kiểm tra thực hiện văn minh thương mại thông qua các biện pháp như:
niêm yết giá và bán đúng giá niêm yết; chấn chỉnh tình trạng chèo kéo khách
hàng; tiến hành tập huấn nâng cao nghiệp vụ bán hàng và văn minh thương
mại. Quận cũng sẽ tổ chức thi sáng tác, nâng cao tay nghề, qua đó chọn những
sản phẩm đoạt giải để trưng bày nhằm quảng bá sản phẩm của làng nghề. Mặt
khác, yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh tại làng nghề là
không ngừng cải tiến mẫu mã, đầu tư trang thiết bị để nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm”.
Theo Hội làng nghề đá Non Nước, hiện môi trường của làng nghề đang
ở mức báo động, đặc biệt là ô nhiễm bụi, tiếng ồn, chất thải, ô nhiễm nguồn
nước. Tuy nhiên, do làng nghề tồn tại khá lâu đời, nhiều cơ sở sản xuất nằm
xen lẫn trong khu dân cư và phát triển một cách tự phát nên rất khó khăn
trong việc xử lý, khắc phục ô nhiễm. Vì vậy, trong thời gian trước khi di dời
làng nghề vào khu vực tập trung, cần có các biện pháp hữu hiệu, tức thời như:
Mỗi cơ sở sản xuất tự che chắn hạn chế bụi; tăng cường trồng cây xanh trong
làng; mỗi hộ xây dựng bể thoát và lắng chất thải; đầu tư trang thiết bị dẫn
nước tới các vị trí cắt, mài để hạn chế bụi; xây dựng hệ thống thoát nước cục
bộ tại các tuyến đường vào làng và thường xuyên định kỳ xử lý chất thải; tăng
cường xử lý nghiêm các cơ sở vi phạm, gây ô nhiễm và lấn chiếm vỉa hè, lòng

lề đường để tập kết nguyên liệu. Và quận cũng tăng cường hơn nữa vai trò
của các cơ quan quản lý Nhà nước và Hội làng nghề. Theo đó, các ngành
thành phố và quận trong chương trình công tác cũng như khi xây dựng kế
hoạch phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, đơn vị phải xem việc đẩy mạnh
phát triển làng nghề là một trong những biện pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; hàng năm dành kinh
phí thỏa đáng cho công tác quy hoạch, sắp xếp lại làng nghề; chú trọng công
tác đào tạo nguồn nhân lực, đăng ký sở hữu công nghiệp, quảng bá, tôn tạo

25


×