Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

CHUYÊN ĐỀ Y HỌC MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ BỆNH GAN, TRẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (492.94 KB, 25 trang )

/>
TƯ LIỆU CHUYÊN MÔN TIỂU HỌC.
-------------------------------

CHUYÊN ĐỀ Y HỌC
MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ BỆNH GAN,
TRẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO.

NĂM 2015

/>

/>
LỜI NÓI ĐẦU
Xét nghiệm chức năng gan ( LFTs) dùng để phản ánh
tình trạng hoạt động của gan.. Tuy nhiên ngoài ý nghĩa,
lợi ích cũng có hạn chế của xét nghiệm chức năng gan
(LFTs). LFTs không thể xác định được những bệnh cụ
thể của gan. Để xác định cần có xét nghiệm chuyên sâu và
đặc biệt hơn. Ngoài ra, để chẩn đoán bệnh gan cần có kết
quả chẩn đoán hình ảnh, như siêu âm gan, chụp cắt lớp và
cộng hưởng từ thường dùng để quan sát hình ảnh gan. Xét
nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra một vài nhận
định rằng đang có vấn đề gì đó với gan. Nhưng đừng hiểu
sai về xét nghiệm này. Trong khi LFTs thường được dùng
để phản ánh tình trạng gan đang hoạt động tốt không, xét
nghiệm này có thể bị sai vì không phải bất kỳ xét nghiệm
máu nào cũng đánh giá chính xác tất cả các chức năng
khác nhau của gan. Vì vậy, chỉ giống như đèn pha và thiết
bị đo trong ô tô, LFTs không phải là dấu hiệu hoàn hảo để


xác định chính xác bệnh. Tuy nhiên nó giúp cảnh báo cho
bác sĩ rằng có điều gì đó bất ổn với gan. Hơn nữa nó giúp
cho bác sĩ xác định sự cần thiết tiến hành thêm các xét
nghiệm khác. Và khi kết hợp các kết quả xét nghiệm thêm
/>

/>
này với LFTs, bác sĩ sẽ có cơ sở tốt hơn để chẩn đoán liệu
gan bị bệnh gì và có đang hoạt động tốt không. Bằng việc
lưu giữ một loạt kết quả LFTs từ những tháng và năm
trước đó, trong một số trường hợp cả bác sĩ và bệnh nhân
có thể dự đoán liệu tình trạng gan có ổn định không, có
được cải thiện không, có hồi phục không hoặc xấu đi;
biện pháp điều trị có đáp ứng không hoặc có cần thử biện
pháp khác không; và liệu đã đến lúc bệnh nhân cần phải
cấy phép gan chưa.
LFTs bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để kiểm
tra nồng độ men gan; bilirubin; và protein gan. Sau đây là
các xét nghiệm này.
Trân trọng giới thiệu cùng quý vị bạn đọc tham khảo và
phát triển tài liệu:
CHUYÊN ĐỀ Y HỌC
MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ BỆNH GAN,
TRẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO.
Chân trọng cảm ơn!

/>

/>

CHUYÊN ĐỀ Y HỌC
MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ BỆNH GAN,
TRẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN
CÓ Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO.
I.TÌM HIỂU VỀ XÉT NGHIỆM CHỨC NĂNG GAN (LFTS)
Xét nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra
một vài nhận định rằng đang có vấn đề gì đó với
gan. Nhưng đừng hiểu sai về xét nghiệm này. Trong
khi LFTs thường được dùng để phản ánh tình trạng
gan đang hoạt động tốt không, xét nghiệm này có
thể bị sai vì không phải bất kỳ xét nghiệm máu nào
cũng đánh giá chính xác tất cả các chức năng khác
nhau của gan. Vì vậy, chỉ giống như đèn pha và
thiết bị đo trong ô tô, LFTs không phải là dấu hiệu
hoàn hảo để xác định chính xác bệnh. Tuy nhiên nó
giúp cảnh báo cho bác sĩ rằng có điều gì đó bất ổn
với gan. Hơn nữa nó giúp cho bác sĩ xác định sự cần
thiết tiến hành thêm các xét nghiệm khác. Và khi
kết hợp các kết quả xét nghiệm thêm này với LFTs,
bác sĩ sẽ có cơ sở tốt hơn để chẩn đoán liệu gan bị
/>

/>
bệnh gì và có đang hoạt động tốt không. Bằng việc
lưu giữ một loạt kết quả LFTs từ những tháng và
năm trước đó, trong một số trường hợp cả bác sĩ và
bệnh nhân có thể dự đoán liệu tình trạng gan có ổn
định không, có được cải thiện không, có hồi phục
không hoặc xấu đi; biện pháp điều trị có đáp ứng
không hoặc có cần thử biện pháp khác không; và

liệu đã đến lúc bệnh nhân cần phải cấy phép gan
chưa.
LFTs bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để
kiểm tra nồng độ men gan; bilirubin; và protein gan.
Sau đây là các xét nghiệm này.
1.MEN GAN
Có 4 men gan khác nhau được đưa vào trong các xét
nghiệm

thông

thường.

Đó



aspartate

aminotransferase (AST hoặc SGOT) và alanine
aminotransferase (ALT hoặc SGPT) được biết đến
như transaminase; và phosphate kiềm (AP) và
gamma-glutamyl transferase (GGTP), được biết như
men gan mật. Khi các men này tăng lên có thể biểu
hiện của bệnh gan.

/>

/>
a.AST và ALT (transaminase)

AST và ALT thường liên quan đến viêm và/hoặc
tổn thương tế bào gan, một tình trạng được coi là
tổn thương tế bào gan. Tổn thương gan điển hình
dẫn đến tình trạng rò gỉ men AST và ALT vào dòng
máu.
Do AST được tìm thấy trong nhiều cơ quan khác
ngoài gan bao gồm thận, cơ và tim, việc tăng mức
AST không phải luôn luôn (nhưng thường) cho thấy
có vấn đề về gan. Khi hoạt động thể lực mạnh cũng
làm tăng nồng độ AST. Mặt khác, do ALT chủ yếu
có ở gan nên nồng độ ALT cao hầu như luôn phản
ánh tình trạng gan có vấn đề (tuy nhiên thì mức
ALT bình thường không nhất thiết có nghĩa rằng
gan bình thường. Điều này được đề cập ở phần sau).
Mặc dù có thể dự đoán được nhưng mức
transaminase máu cao không phải luôn luôn biết
mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Đây là điểm
quan trọng cần phải nhớ. Khoảng trung bình của
AST và ALT tương ứng là 0-40 IU/l và 0-45 IU/l.
(IU/l là đơn vị quốc tế trên lít và là cách thường
được dùng nhiều nhất để định lượng những men đặc
/>

/>
biệt này). Nhưng nếu một người có mức ALT là 50
IU/l không phải lúc nào cũng tốt hơn so với người
có mức ALT 250 IU/l! Điều này do những xét
nghiệm máu đánh giá sự tổn thương hoặc viêm gan
được lấy mẫu vào những thời điểm đặc biệt. Ví dụ,
nếu bị viêm gan và lấy mẫu vào thời điểm bệnh

nhân mới uống rượu vài giờ trước khi lấy máu thì
mức transaminase cao hơn nhiều lần so với những
người không uống rượu. Cũng lý do tương tự, nếu
gan đã bị tổn thương từ nhiều năm trước do uống
rượu nhiều – kết quả xét nghiệm máu ngày hôm nay
cho thấy bình thường có thể vẫn bị tổn thương gan.
Đi sâu hơn về vấn đề này, có nhiều yếu tố khác
ngoài tổn thương gan có thể ảnh hưởng tới nồng độ
AST và ALT. Ví dụ transaminase ở nam cao hơn
nữ, nam giới Mỹ gôc Phi có mức AST cao hơn nam
giới da trắng. Thậm chí thời điểm lấy máu trong
ngày cũng ảnh hưởng tới mức transaminase; dường
như mức transaminase vào buổi sáng và trưa cao
hơn vào buổi tối. Thức ăn hầu như không ảnh
hưởng rõ rệt tới mức transaminase. Vì vậy, không

/>

/>
khác biệt rõ rệt giữa lúc đói và lúc bình thường.
Transaminase cũng có thể thay đổi theo ngày.
Đôi điều về khoảng tham khảo bình thường
Khi kết quả xét nghiệm được đưa cho bác sĩ, họ
thường so sánh với giá trị thu được từ một nhóm
người khỏe mạnh. Khoảng của giá trị này được gọi là
“giá trị bình thường” được gọi là giới hạn tham khảo
hoặc khoảng tham khảo. Giá trị cao nhất và thấp nhất
của khoảng này thường được gọi là giới hạn bình
thường trên và giới hạn bình thường dưới. Khoảng
tham khảo này có thể khác nhau chút ít tùy theo từng

thời điểm và tùy vào từng phòng xét nghiệm. Bác sĩ sẽ
chú ý đến giới hạn này khi đọc từng kết quả xét
nghiệm cụ thể.
Tỷ lệ ALT và AST cũng có thể mang lại thông tin
có giá trị liên quan đến mức độ và nguyên nhân
bệnh gan. Hầu hết các bệnh gan thì mức tăng ALT
cao hơn mức tăng AST nhưng có 2 trường hợp
ngoại lệ. Xơ gan và nghiện rượu thì mức tăng AST
cao hơn mức tăng ALT, thường tỷ lệ này là 2:1.
Mức tăng transaminase xảy ra do quá nhiều nguyên

/>

/>
nhân nên chỉ giúp bác sĩ đưa ra một nhận định
không rõ ràng. Cần phải làm thêm các xét nghiệm
khác để xác định chính xác hơn xem gan bị bệnh gì.
Những nguyên nhân sau có thể làm tăng mức
transaminase:


Viêm gan do virus.



Gan nhiễm mỡ.



Bệnh gan do rượu.




Bệnh gan do thuốc.



Viêm gan tự miễn.



Nhiễm độc thảo mộc.



Bênh gan di truyền.



U gan.



Suy gan.



Luyện tập gắng sức.
b.GGT và AP (Men gan mật)
Mức GGT và AP tăng có thể là biểu hiện của tắc

mật hoặc tổn thương, hoặc viêm đường mật. Những
bệnh này thường có đặc điểm là giảm hoặc không
lưu thông đường mật, được gọi là ứ mật. Loại tổn
thương gan kiểu này được gọi là tổn thương gan

/>

/>
mật, bệnh gan được gọi là bệnh gan mật (xơ gan
mật tiên phát là một ví dụ của bệnh gan mật). Ứ mật
trong gan nói đến tình trạng tắc đường mật hoặc tổn
thương bên trong gan. Ứ mật trong gan có thể gặp ở
người bị xơ gan mật tiên phát hoặc ung thư gan . Ứ
mật ngoài gan nói đến tình trạng ứ mật hoặc tổn
thương ngoài gan. Ứ mật ngoài gan có thể xảy ra ở
bệnh

nhân

bị

sỏi

mật.

Khi bị viêm hoặc tắc đường mật, GGT và AP có thể
bị tràn ra như mở kho dự trữ và đi vào dòng máu.
Những men này tăng lên rõ rệt – gấp gần 10 lần giá
trị


bình

thường



giới

hạn

trên.

GGT được tìm thấy chủ yếu trong gan. AP được tìm
thấy chủ yếu trong xương và gan nhưng cũng có thể
ở nhiều cơ quan khác như ruột, thận và nhau thai. Vì
vậy, mức AP tăng chỉ phản ánh có vấn đề về gan
nếu có kèm theo tăng GGT. Nên nhớ rằng GGT có
thể tăng và không kèm theo tăng AP, vì GGT dễ bị
ảnh hưởng bởi rượu và những thuốc có độc tính với
gan. Lưu ý rằng, những người hút thuốc thường có
mức AP và GGT cao hơn những người khác với
những lý do chưa biết rõ. Tương tự, nồng độ AP và

/>

/>
GGT gần như phản ánh chính xác sau khi nhịn đói
12 giờ. Bắt đầu có sự phức tạp khi đánh giá xét
nghiệm


chức

năng

gan

bất

thường!

Nồng độ AP bình thường vào khoảng 35-115 IU/l,
và nồng độ GGTP bình thường vào khoảng 3-60
IU/L. Một số nguyên nhân sau có thể làm tăng nồng
độ AP và GGTP:


Xơ gan mật tiên phát.



Bệnh gan nhiễm mỡ ở người không nghiện rượu.



Viêm đường mật xơ hóa tiên phát



Bệnh gan do rượu




U gan



Bệnh gan do thuốc



Sỏi mật.

2.BILIRUBIN
Bilirubin là một chất có màu vàng do gan sản xuất
ra khi nó tham gia vào quá trình tái tạo hồng cầu
già. Khi chất này tăng lên, mắt và da cũng có màu
vàng (vàng da), nước tiểu sẫm màu như trà đặc,
phân có màu đất sét nhạt. Khi có tăng bilirubin,
trong khi không có sự bất thường trong các xét
/>

/>
nghiệm liên quan đến gan, thấy rõ khi thăm khám
thực thể, thường đây là những bất thường liên quan
tới

gan

với


phần

lớn

dân

số.

Một cụm từ mà bác sĩ thường được nghe từ bệnh
nhân là “tôi không thể bị bệnh gan vì tôi không bị
vàng da”. Mọi người thường ngạc nhiên khi biết
rằng hầu hết những người bị bệnh gan không bao
giờ bị vàng da. Thực tế là mức tăng bilirubin thậm
chí không liên quan chút nào tới bệnh gan. Sự
chuyển hóa của bilirubin phức tạp và trải qua nhiều
bước. Nếu trục trặc ở một trong số những bước này
sẽ làm tăng nồng độ bilirubin. Vì nó có liên quan tới
gan, nên mức tăng bilirubin thường đi kèm với tình
trạng gan kém hoặc tắc mật. Một số nguyên nhân
sau có thể gẫn đến tăng bilirubin:


Xơ gan mật tiên phát



Viêm đường mật xơ hóa tiên phát




Viêm gan do rượu



Tan máu – Hồng cầu bị vỡ



Bệnh gan do thuốc



Sỏi mật



Suy gan hoặc tình trạng gan kém nói chung

/>

/>


Những khối u có ảnh hưởng đến gan, đường mật
hoặc túi mật.



Viêm gan do virus.




Rối loạn chuyển hóa bilirubin lành tính mang tính
gia đình, như hội chứng Gibert.
Tăng bilirubin thường đi kèm với tăng AP và GGT.
Khi tăng đồng thời bilirubin, AP và GGT có thể bị ứ
mật. Tuy nhiên nếu mức bilirubin vẫn bình thường
nhưng GGT và AP cao, thì có thể bị ứ mật không
vàng da. Những bệnh có đặc điểm bilirubin cao,
GGT và AP cao thường là bệnh gan mật.

3.PROTEIN GAN
Albumin, prothrobin (yếu tố II) và globulin miễn dịch
là những protein được sản xuất chủ yếu bởi gan. Khi có
bất thường về mức protein này có thể giúp xác định liệu
có bị bệnh gan trầm trọng hay không.
4.ALBUMIN
Mức albumin bình thường trong máu khoảng 4g/dl.
Khi gan bị tổn thương nghiêm trọng, nó mất khả
năng sản xuất albumin. Những người bị bệnh gan
/>

/>
mãn tính đi kèm với tình trạng xơ gan thường có
mức albumin dưới 3 g/dl. Mức albumin thấp nói
chung chỉ tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng kém và
không chỉ có riêng ở bệnh gan.
Đôi

điều


về

hội

chứng

Gilbert

Đôi điều về hội chứng Gilbert là một rối loạn chuyển hóa
bilirubin di truyền, rất phổ biến và lành tính. Nó xuất hiện ở
khoảng 4-9% dân số. Chúng có đặc điểm là tăng mức
bilirubin không liên tục. Hội chứng này thường được phát
hiện khi xét nghiệm máu thường xuyên, khi xét nghiệm này
được tiến hành để đánh giá những bệnh khác, hoặc trước khi
tuyển dụng hoặc trước khi tham gia bảo hiểm. Mức bilirubin
thường tăng tới 3 mg/dl nhưng hiếm khi vượt quá mức 5
mg/dl. Mức tăng thường rõ rệt khi đói, stress, kỳ kinh
nguyệt, hoặc khi bị ốm không phải do gan hoặc khi bị nhiễm
khuẩn. Vàng da là bất thường duy nhất phát hiện thấy khi
khám thực thể. Một số người có những triệu chứng thông
thường như khó chịu vùng bụng, buồn nôn hoặc mệt mỏi;
tuy nhiên một số chuyên gia lại cho rằng những triệu chứng
này là do lo lắng. Tất cả các xét nghiệm chức năng gan đều
bình thường. Không khuyến cáo làm chẩn đoán hình ảnh
như siêu âm gan và sinh thiết gan, nhưng nếu làm thì sẽ bình
/>

/>
thường. Không có biến chứng lâu dài từ hội chứng vô hại

này và không cần điều trị.
5.THỜI GIAN PROTHROMBIN
Gan sản xuất ra phần lớn các yếu tố tạo ra cục máu
đông mà cơ thể dùng để ngăn chặn sự chảy máu.
Thời gian để tạo ra một cục máu đông này gọi là
thời gian prothrombin (PT), thông thường khoảng từ
9-11 giây. Vitamin K là một thành phần quan trọng
của quá trình tạo cục máu đông. Nếu gan bị tổn
thương nghiêm trọng hoặc bị thiếu vitamin K (đôi
khi xảy ra ở bệnh gan mật như xơ gan mật tiên
phát), PT sẽ kéo dài hơn nhiều so với bình thường,
do vậy làm tăng nguy cơ chảy máu quá mức. Trong
một vài trường hợp, tiêm vitamin K giúp PT trở về
bình thường. Khi tiêm vitamin K mà có cải thiện
được PT cho thấy rằng gan vẫn còn chức năng. Khi
PT không bình thường hóa được khi tiêm vitamin
K, tình trạng đó gọi là bệnh chảy máu (có xu hướng
xảy máu quá mức), tổn thương gan nặng và/ hoặc có
suy gan. Để điều chỉnh sự khác nhau trong các

/>

/>
phòng thí nghiệm cách đo PT, thường dùng tỷ lệ
quốc tế (INR).
6.GLOBULIN MIỄN DỊCH
Globulin miễn dịch là những protein liên quan đến
hệ miễn dịch, một vài trong số này được được tạo ra
ở gan và một số được tạo ra từ bạch cầu – tế bào
máu trắng. Một vài loại globulin miễn dịch tăng lên

ở nhiều người bị bệnh gan mãn tính. Mức tăng
globulin miễn dịch A, G và M (IgA, IgG, IgM) có
thể là biểu hiện của bệnh gan nào đó (xem bảng 3.1)
7.TIỂU CẦU
Tiểu cầu là tế bào máu giúp hình thành cục máu
đông. Lá lách đóng vai trò như một kho dự trữ tiểu
cầu. Ở những người xơ gan, lá lách thường phải
làm việc nhiều để bù lại chức năng bị suy giảm do
tổn thương gan. Điều này thường làm cho lách to và
số lượng tiểu cầu giảm, được gọi là giảm tiểu cầu.
Bình thường tiểu cầu có số lượng từ 150-400 x 103/
microlit. Nếu bệnh nhân thấp hơn 150 x 103/

/>

/>
microlit được coi là giảm tiểu cầu, và nên nghĩ đến
khả năng bị xơ gan.
8.AMONIAC (NH3)
Amoniac là một sản phẩm phân hủy của amino acid.
Tăng mức ammoniac trong máu có thể là một dấu
hiệu của bệnh não. Một số bác sĩ dựa vào mức
ammoniac để theo dõi bệnh nhân bị bệnh não,
nhưng có một vài nghiên cứu cho thấy ít có mối
tương quan giữa nồng độ ammoniac và mức độ của
bệnh não, và việc sử dụng nó vào mục đích này còn
đang còn gây tranh cãi. Không khuyến cáo xác định
nồng độ ammoniac cho bệnh nhân bị bệnh gan, vì
bất kỳ bệnh gan nào cũng có thể làm tăng nhẹ thông
số này và không phải là chẩn đoán của bệnh não.

Cuối cùng, có nhiều yếu tố làm tăng giả mức
ammoniac mà có thể biết được sự sai số bao gồm
hút thuốc, dùng một vài thuốc nhất định (như acid
valproic), tình cờ bị lẫn mồ hôi vào mẫu máu trong
quá trình lấy máu và phòng thí nghiệm chậm làm
phân tích máu.
9.MỘT VÀI LƯU Ý CUỐI CÙNG VỀ XÉT NGHIỆM MÁU
/>

/>
Nên nhớ một số loại xét nghiệm máu riêng biệt
không thể dùng để dự đoán sự tiển triển của bệnh
gan. Bản thân những xét nghiệm này ít khi biểu hiện
rõ rệt. Chúng chỉ có ý nghĩa khi kết hợp với một số
các yếu tố khác, chúng phải được đánh giá kỹ lưỡng
bởi bác sĩ. Nói cách khác, không nên quá đề cao
những xét nghiệm riêng lẻ này. Mỗi xét nghiệm chỉ
là một phần của sự phức tạp. Trong hầu hết các
trường hợp, các xét nghiệm này chỉ đưa ra nhận
định rằng có vấn đề gì bất ổn – chỉ là bước đầu tiên
để

đi

đến

sự

chẩn


đoán

chính

xác.

Sau khi đánh giá các kết quả xét nghiệm thông
thường, thường yêu cầu làm thêm xét nghiệm máu
cụ thể để tìm ra nguyên nhân chính xác của các bất
thường về gan. Bảng 3.1 liệt kê các xét nghiệm
máu được dùng để chẩn đoán những bệnh gan cụ
thể. Nói chung, khoa xét nghiệm đưa cho bác sĩ kết
quả xét nghiệm máu thông thường trong vòng 1
hoặc 2 ngày; nhưng kết quả xét nghiệm máu riêng
biệt hơn có thể cần tới 2 tuần, phụ thuộc vào từng
khoa xét nghiệm. Thời gian chờ đợi này thật không
dễ dàng gì (bệnh nhân cần phải kiên nhẫn).

/>

/>
Bảng 3.1 Xét nghiệm máu được dùng để chẩn đoán
những bệnh cụ thể của gan
Bệnh

Xét nghiệm máu

Đường lây

gan

Viêm

Kháng thể viêm gan A IgM vàĐường

gan A
Viêm

IgG
uống
Kháng thể nhân viêm gan BĐường máu,

gan B

(HbcAb)

ăn

sinh dục, mẹ

Kháng nguyên bề mặt viêmmang thai lây
gan

B

(HbsAg)con

Kháng thể bề mặt viêm gan B
(HBsAb)
Kháng thể e viêm gan B
(HBeAb)

Kháng nguyên e viêm gan B
(HBeAg)
DNA virus viêm gan B (HBV
Viêm

DNA)
Kháng thể virus viêm gan CĐường máu,

gan C

(HCVAb)

sinh dục, mẹ

Acid Ribonucleic virus viêmmang thai lây
gan

C

(HCV

/>
RNA)con.


/>
Tăng globulin miễn dịch (IgG)
Kháng thể kháng nhân (ANA)Không lây

Viêm

gan

tự Kháng thể cơ trơn (SMA)

miễn

Kháng thể vi thể thận/ kháng
gan

(LKMAb)

Tăng globulin miễn dịch G


(IgG)
gan Kháng thể kháng

(AMA)Không lây

mật tiên Tăng globulin miễn dịch M
phát
Bệnh
gan

(IgM)
Tăng nồng độ cồn trong máuKhông
do Tăng globulin miễn dịch Ado

rượu


(IgA)

lây,
uống

nhiều rượu

Thể tích huyết cầu trung bình
>95

fl

Thiếu vitamin B12 và acid
folic
Mức transferrin đã khử sialic
Nhiễm

acid
Sắt

sắc tố sắt Ferritin


Không

Có tính gia

Phần trăm bão hòa transferrinđình
Khả năng gắn sắt toàn phần
(TIBC)


/>
lây


/>
Xét nghiệm gen – sự tương
hợp trong ghép mô kháng
nguyên hồng cầu (HLA-H) và
phân tích thăm dò DNA bằng
PCR.
Ung thư Alpha-Fetoprotein
gan

(AFP)

>Không lây

400 ng/dl

II.TÌM HIỂU VỀ CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
Sau khi tiến hành xét nghiệm máu, bác sĩ sẽ muốn
xem hình ảnh tổng thể của gan. Vì vậy, bước tiếp
theo là đi đến phòng X quang để có được một hoặc
hơn

hình

ảnh


của

gan.

Có một số phương pháp được dùng để thu được
hình ảnh của gan bao gồm siêu âm, chụp cắt lớp vi
tính hoặc còn gọi là CT hoặc chụp cắt lớp CAT
hoặc chụp cộng hưởng từ. Tất cả phương pháp này
không cần phải can thiệp ngoại khoa, nó không làm
đau và có thể tiến hành khi bệnh nhân đang tỉnh và
được nằm xuống. Một hoặc hơn biện pháp này được
thực hiện để định vị gan chính xác khi nó bị nghi
ngờ có liên quan tới cơ quan khác; để xác định xem
có những khối bất thường trong gan hay không; để
/>

/>
đánh giá xem gan có bị to hoặc bị teo hay không;
và/hoặc xem có sỏi mật trong túi mật hay không.
1.SIÊU ÂM
Siêu âm được cho là phương pháp chẩn đoán hình
ảnh được dùng nhiều nhất để xem hình ảnh thai nhi
ở phụ nữ mang thai, thực tế nó là phương pháp chẩn
đoán hình ảnh được dùng nhiều nhất để xem hình
ảnh gan. Đây là phương pháp nhanh và ít tốn kém
để quan sát hình ảnh của cơ quan này. Mặt dù được
thực hiện tại phòng X quang nhưng thực tế không
sử dụng tia X – sóng âm để thu được hình ảnh.
Siêu âm thường được tiến hành vào lúc đói. Khi đó
túi mật chứa đầy mật và dễ dàng nhìn thấy sỏi mật.

Thực tế có tới 95% số sỏi mật được phát hiện ra nhờ
siêu âm. Siêu âm cũng dùng để phát hiện những
khối u trong gan có thể lành tính (không ung thư)
hoặc ác tính (ung thư), nhưng nó không thể phân
biệt được 2 loại này. Hơn nữa siêu âm có thể ước
lượng được kích thước khối u. Tuy nhiên ngay cả
khi siêu âm cho kết quả bình thường, điều này
không có nghĩa là gan không có vấn đề. Thực tế, có

/>

/>
nhiều người bị bệnh gan nhưng kết quả siêu âm vẫn
thấy bình thường. Vì vậy đừng ngạc nhiên nếu bác
sĩ yêu cầu làm thêm các xét nghiệm sau khi siêu âm.
2.CHỤP CẮT LỚP VÀ CỘNG HƯỞNG TỪ
Chụp cắt lớp và cộng hưởng từ đưa ra hình ảnh toàn
diện hơn của gan liên quan đến các cơ quan liền kề.
Nó thường được sử dụng để đánh giá sâu hơn về
khối u phát hiện được bằng siêu âm. Chụp cắt lớp
sử dụng bức xạ gamma bằng cách cho tia X đi qua
gan. Bất kỳ khối u nào đều cản tia X trên đường đi
và lưu lại 1 hình ảnh. Với cộng hưởng từ, bức xạ từ
sẽ tạo ra hình ảnh của gan. Cộng hưởng từ hữu ích
trong việc phát hiện ra gan nhiễm mỡ, quá tải sắt, và
u mạch máu – một khối u máu lành tính.
3.MỘT VÀI ĐIỀU KẾT LUẬN VỀ CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh đem lại nhiều
kết quả có ích làm tăng sự chính xác trong chẩn
đoán. Tuy nhiên, ngay cả các kỹ thuật tiên tiến này

cũng không thể biết được toàn bộ quá trình đang
diễn ra trong gan. Điều quan trọng là phải hiểu rằng
/>

/>
gan được ngụy trang rất tốt. Ngay cả những người
bị bệnh gan nặng và xơ gan có thể cho kết quả chẩn
đoán hình ảnh bình thường. Đây là điều quan trọng
cần nhớ và được lặp đi lặp lại. Siêu âm, chụp cắt lớp
và cộng hưởng từ có thể cho kết quả hoàn toàn bình
thường tại bất kỳ giai đoạn nào của bệnh gan. Điều
này giải thích tại sao bác sĩ phải dựa vào sinh thiết
gan, như một tiêu chuẩn vàng để đánh giá bệnh gan.
III.KẾT LUẬN
Sau khi xem xong phần trên bạn đã có thể hiểu rằng
xét nghiệm máu và chẩn đoán hình ảnh có thể đưa
ra một vài nhận định quan trọng, nhưng không phải
lúc nào cũng xác định chính xác đang có bệnh gì với
gan. Nó cũng không giúp đánh giá được mức độ
viêm hoặc tổn thương gan. Sinh thiết gan là xét
nghiệm duy nhất có thể cung cấp chính xác thông
tin này. . Nhưng trước hết, điều quan trọng là phải
gặp bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm để xác định
khi nào cần làm sinh thiết gan và có kỹ năng để đọc
kết quả và sử dụng nó một cách hiệu quả nhất phục
vụ cho việc điều trị. Điều này cũng lý giải những
/>

/>
kỹ năng gì mà bác sĩ chuyên khoa cần có và có thể

thu thập được thông tin này ở đâu và khi nào
.
SƯU TẦM

/>

×