Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

nghiên cứu nấc thang phát triển kinh tế tri thức của việt nam từ năm 2000 trở lại đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.68 KB, 26 trang )

Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
A – LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế tri thức được xác định chính là cánh cửa mở ra cho các nền kinh tế đang
phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển nếu biết đón bắt và
tận dụng cơ hội. Ngược lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra thách thức lớn hơn bao giờ hết
đối với các nước đang phát triển, đó là nguy cơ tụt hậu, đó là khoảng cách ngày càng
gia tăng về trình độ phát triển với các nước phát triển. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế, kinh tế tri thức ngày càng phát triển mạnh mẽ và đóng góp vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của thế giới, đó là thách thức lớn đối với nước ta, song cơ hội
lớn cũng nằm trong thách thức đó. Vì thế, mặc dù vẫn còn là một nước đang phát triển,
chúng ta không thể không tính đến tìm một lối đi tiến nhanh vào nền kinh tế tri thức
theo cách của mình, trong hoàn cảnh và đặc điểm của mình, theo chiến lược và bước đi
phù hợp với trình độ hiện có. Trong điều kiện đó, trên tầm nhìn dài hạn, phát triển nền
kinh tế tri thức phải được coi là nhiệm vụ mang tính sống còn đối với tương lai của
Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề “Phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay” là thực sự cần thiết.
Để có thể làm sáng tỏ vấn đề này, thứ nhất, cần nghiên cứu thực trạng phát triển
kinh tế của nước ta trong thời gian qua dưới giác độ của của kinh tế tri thức, hàm lượng
tri thức đóng góp cho nền kinh tế trong sự so sánh với khu vực và thế giới, từ đó rút ra
những mặt mạnh và yếu của Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế tri thức, đồng
thời khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn rằng, phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất
yếu đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; thứ hai, phải đánh giá
những thuận lợi, khó khăn trên con đường xây dựng và phát triển kinh tế của Việt
Nam, từ đó đề ra những quan điểm, xác định định hướng, tầm nhìn và từ đó đưa ra
nhóm giải pháp tiếp cận để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.

Page 1


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013


Vì vậy, bài tập lớn này sẽ đi vào nghiên cứu nấc thang phát triển kinh tế tri thức
của Việt Nam đang ở mức độ nào trong bối cảnh mà mọi quốc gia đều phát triển theo
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2000 trở lại đây. Với điểm xuất
phát là một bài tập về chuyên đề kinh tế chính trị, trong bài tập lớn này sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau nhưng chủ yếu là phương pháp trừu tượng hóa
khoa học, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích tổng hợp, so sánh đối
chiếu, thống kê,...
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của bài tập
được trình bày trong ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kinh tế tri thức dưới tác động của xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam trên con đường tiến tới nền kinh
tế tri thức.
Chương 3: Những quan điểm, định hướng và các giải pháp để phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2011 - 2020 và
tầm nhìn 2030.

Page 2


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
B – NỘI DUNG
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1 Kinh tế tri thức và quá trình phát triển kinh tế tri thức
1.1.1 Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức
Trước hết là kinh tế săn bắn và hái lượm tồn tại trong hàng trăm nghìn
năm. Tiếp theo đó là kinh tế nông nghiệp kéo dài khoảng mười nghìn năm. Rồi
đến kinh tế công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu nửa sau thế kỷ
XVIII đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, hình thành lực lượng lao động và tổ
chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cuộc cách mạng khoa

học và kỹ thuật lần thứ hai (cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) đã nâng cao cơ sở
kỹ thuật cơ khí lên trình độ bán tự động hóa và hình thành tổ chức quản lý mới.
Đến giai đoạn gần đây chúng ta cũng dễ nhận thấy có những chuyển biến mang
tính cách mạng có là cách mạng trong quản lý, quản lý cũng đóng vai trò trở
thành lực lượng sản xuất góp phần sáng tạo ra của cải xã hội, chứ không còn là
quản lý về kỷ cương lao động thuần khiết. Bất kỳ nền kinh tế nào nói trên, dù ít
hay nhiều cũng đã dựa vào tri thức để phát triển. Tuy nhiên, không phải bất kỳ
một nền kinh tế nào cũng là nền kinh tế dựa trên tri thức. Cái khác biệt chủ yếu
của nền kinh tế tri thức với các nền kinh tế khác là tri thức đã phát triển đặc biệt
mạnh mẽ, đã trở thành yếu tố quan trọng nhất, nguồn lực có tính quyết định nhất
đối với tăng trưởng kinh tế hơn cả vốn và tài nguyên. Từ những căn cứ xác thực
đó, người ta cho rằng một nền kinh tế mới hoàn toàn khác các nền kinh tế truyền
thống đã ra đời.
Thuật ngữ “Kinh tế dựa vào tri thức” là xuất phát từ việc thừa nhận vị trí
mới và ảnh hưởng quyết định của tri thức và công nghệ trong các nền kinh tế
phát triển nhất. “Kinh tế dựa vào tri thức” lúc đầu cũng thường gọi là “Kinh tế

Page 3


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
thông tin”, “Nền Kinh tế mới”, có thể coi là xuất hiện sớm ở Mỹ vào đầu những
năm 1970, sau đó ở nhiều nước công nghiệp phát triển và ngày nay cả nước
công nghiệp mới (NICs).
1.1.2 Khái niệm về kinh tế tri thức
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về nền kinh tế tri thức được đưa ra,
trong đó có thể kể đến như:
“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào
việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.” (Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế - OECD, 1996).

“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân
phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình
tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế.” (Diễn đàn hợp tác
kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương - APEC, 2000).
“Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế Thế giới, cán cân
giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức thực
sự đã trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu tố đất
đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát
triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức.” (Ngân hàng Thế
giới - WB, 2000).
“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng có hiệu quả tri thức cho phát
triển kinh tế xã hội, bao gồm cả việc khai thác kho tri thức toàn cầu, cũng như
làm chủ và sáng tạo tri thức cho những nhu cầu riêng mình.” (Chương trình phát
triển của Liên hợp quốc – UNDP, 2004).

Page 4


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Khái niệm kinh tế tri thức mà bài tập này sử dụng đó là: Kinh tế tri thức
là một mức thang mới, là một bước tiến mới của quá trình phát triển của kinh tế
thế giới mà trong nền kinh tế đó, động lực chính yếu nhất cho sự tăng trưởng
chính là việc sử dụng tri thức, truyền bá và sản sinh ra thêm tri thức mới. Trong
nền kinh tế tri thức, tri thức được sử dụng trong tất cả các ngành, kể cả các
ngành truyền thống và giá trị do tri thức tạo ra chiếm phần lớn trong tổng giá trị
sản phẩm của nền kinh tế.
1.1.3 Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế. Trong
nền kinh tế tri thức, của cải tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài
nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, tuy vốn và lao động vẫn là những

yếu tố cơ bản không thể thiếu. Hoạt động quan trọng nhất trong nền kinh tế tri
thức là thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức mới trong tất cả các ngành,
lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Thứ hai, cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh theo
hướng tăng nhanh giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức. Đó là các ngành
công nghiệp thông tin, tài chính ngân hàng, giáo dục đào tạo, nghiên cứu phát
triển công nghệ,... Mặt khác, do quá trình sản xuất hàng hóa trực tiếp được tự
động hóa ở trình độ ngày càng cao, cho nên số người trực tiếp sản xuất ra sản
phẩm trong các nhà máy giảm đi rất nhiều, trong khi đó số người làm việc ở văn
phòng tăng lên.
Thứ ba, tốc độ đổi mới nhanh, sản xuất công nghệ trở thành ngành sản
xuất đặc biệt quan trọng. Trong nền kinh tế tri thức, tốc độ hao mòn vô hình
tăng lên theo xu hướng ngày càng nhanh, cái có giá trị nhất là cái chưa biết, cái
đã biết, đã được sử dụng thì mất dần giá trị. Tìm ra cái chưa biết tức là tạo ra cái

Page 5


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế. Vòng đời công nghệ, sản phẩm từ lúc
mới nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn.
Thứ tư, công nghệ thông tin và viễn thông - ICT được ứng dụng rộng rãi
và ngày càng sâu trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế
tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi và theo xu hướng ngày
càng sâu vào mọi lĩnh vực. Hầu hết các hoạt động kinh tế và xã hội đều dựa trên
cơ sở công nghệ thông tin và thông qua mạng thông tin điện tử, đều được tin
học hóa hay số hóa. Xã hội thông tin là tiền đề cho nền kinh tế tri thức, nền kinh
tế tri thức cũng là nền kinh tế thông tin.
Thứ năm, đặc tính, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực thay đổi căn
bản. Để phát triển kinh tế tri thức, phải có lực lượng lao động được đào tạo tốt,

có đủ kiến thức và kĩ năng cần thiết cho ngành mình làm việc, không ngừng
nâng cao kiến thức và kĩ năng, thích nghi được với sự phát triển nhanh chóng
của khoa học và công nghệ, dễ dàng chuyển sang những ngành nghề mới.
1.2 Phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
1.2.1. Đo lường mức độ phát triển kinh tế tri thức
Về vấn đề đo lường, đánh giá mức độ phát triển kinh tế tri thức đang có
nhiều nghiên cứu, tranh luận. Các quốc gia và các tổ chức quốc tế cũng đã đề
xuất sử dụng một số chỉ tiêu và phương pháp đánh giá năng lực và so sánh mức
độ phát triển của nền kinh tế tri thức.
Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của APEC bao gồm các chỉ
tiêu cụ thể về doanh nghiệp đổi mới, về cơ sở tri thức, về cơ sở hạ tầng, về cơ
cấu kinh tế, về vai trò chính phủ.

Page 6


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của các nước OECD bao gồm
bốn yếu tố: Đầu vào của tri thức, đầu ra của tri thức, mạng tri thức, tri thức –
học tập.
Theo phương pháp đánh giá của Mỹ thì sẽ dùng 21 chỉ tiêu, quy lại thành
5 nhóm là: việc làm dựa vào tri thức (4 chỉ tiêu), mức độ toàn cầu hóa (2 chỉ
tiêu), tính năng động và cạnh tranh của nền kinh tế (3 chỉ tiêu), kinh tế thông tin
(7 chỉ tiêu), năng lực đổi mới (5 chỉ tiêu).
Hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới bao
gồm 64 chỉ tiêu, tập hợp theo bốn nhóm là: môi trường kinh doanh, khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin và truyền thông. Mỗi nhóm
bao gồm 16 chỉ tiêu. Để tiện dụng hơn, có thể chỉ dùng 14 chỉ tiêu, trong đó mỗi
nhóm 3 chỉ tiêu và thêm 2 chỉ tiêu cơ bản là GDP trên đầu người và chỉ số phát
triển con người – HDI. Đối với mỗi chỉ tiêu, mức độ phát triển được đánh giá

bằng thang điểm từ 0 đến 10. Điểm bình quân của 64 chỉ tiêu được gọi là chỉ số
phát triển kinh tế tri thức – KEI.
Trong bài tập lớn này sẽ chỉ sử dụng hệ thống chỉ tiêu đo lường kinh tế
tri thức của Ngân hàng thế giới để tiện cho nghiên cứu và phân tích.
1.2.2. Tác động của hội nhập đến phát triển kinh tế tri thức
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng tác động của kinh tế tri
thức đến đời sống văn hóa – xã hội.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ đến cơ cấu lao động
xã hội, nhất là tầng lớp công nhân tri thức.
Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến sự thay đổi tư duy phát
triển – tư duy hướng kinh tế tri thức.

Page 7


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Thứ tư, kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác
động mạnh mẽ đến quan hệ sản xuất.
Thứ năm, hội nhập kinh tế quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
tri thức cũng làm sâu sắc hơn các mâu thuẫn của thời đại.
Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hơn nữa quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở các nước đang phát triển dẫn đến tất yếu phát triển kinh tế tri
thức.

CHƯƠNG II – THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM TRÊN
CON ĐƯỜNG TIẾN ĐẾN NỀN KINH TẾ TRI THỨC
2.1 Những chỉ số phát triển kinh tế - xã hội cơ bản của Việt Nam
Trong hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc
độ tăng trưởng khá nhanh, cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch đáng kể theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.

Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và tính cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp, tốc độ đổi mới nói chung và đổi mới công nghệ nói riêng còn
chậm, tăng trưởng kinh tế còn dựa chủ yếu vào tài nguyên và vốn. Nền tảng
phát triển kinh tế ít dựa vào tiến bộ khoa học - công nghệ và

tiềm năng trí tuệ

chưa được phát huy đúng mức.
Từ năm 1995 đến năm 2008, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng liên tục
với tốc độ bình quân mỗi năm 7,34%. Đến hết năm 2009, tổng sản phẩm quốc
nội đã gấp hơn 2,64 lần năm 1995, năm 2010 tốc độ tăng trưởng GDP đạt
6,78%. Cơ cấu kinh tế năm 2009: tỷ trọng Nông, Lâm, Thủy sản trong GDP là:

Page 8


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
20,91%; Công nghiệp, Xây dựng là 40,24%, trong đó, Công nghiệp chế biến là
25,54%; và Dịch vụ là 38,85%. (Nguồn Niêm giám thống kê 2009).
Các ngành công nghệ cao như: Công nghệ thông tin, sinh học, vật liệu
mới, tự động hóa, … vẫn thấp. Hàm lượng chất xám trong các sản phẩm do khu
vực công nghiệp tạo ra vẫn còn thấp, chỉ chiếm khoảng 15 - 20% giá trị, tăng
trưởng dựa vào xuất khẩu, xuất khẩu dựa vào nhân công giá rẻ lao động phần
lớn là giản đơn, giá trị của các sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn do lao động
động quá khứ tạo ra. Tuy nhiên, trong thời gian qua với chính sách khuyến
khích đầu tư trong nước đối với khu vực tư nhân đã tạo ra một bước ngoặt trong
phát triển công nghiệp Việt Nam. Khu vực tư nhân với tính năng động cao hơn
sẽ dễ tiếp thu và áp dụng tri thức mới. Xu thế phát triển hơn nữa khu vực doanh
nghiệp tư nhân sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc sẵn sàng tiếp cận các yếu tố
kinh tế tri thức.

2.2 Tình hình phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam qua một số chỉ tiêu
cơ bản của Ngân hàng Thế giới
2.2.1. Về môi trường kinh doanh và thể chế chính sách
Từ năm 1998, khi Luật đầu tư nước ngoài bắt đầu đi vào hoạt động cho
đến nay, Việt Nam ngày càng chú trọng hơn đến việc sửa đổi, bổ sung bộ luật
này nhằm tăng tính hấp dẫn hơn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mới đây,
Chính phủ Việt Nam cũng đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị
trường chứng khoán và cho phép tham gia trực tiếp vào các công ty cổ phần do
các doanh nghiệp Việt Nam sáng lập. Đây là điều kiện quan trọng để nền kinh tế
Việt Nam hội nhập mạnh mẽ hơn vào nền kinh tế thế giới, để các doanh nghiệp
Việt Nam có cơ hội tìm kiếm, tiếp cận và nhập khẩu những công nghệ tiên tiến,
qua đó nâng cao hàm lượng tri thức trong sản phẩm của mình. Việc tăng cường

Page 9


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
hội nhập kinh tế quốc tế, ngoài việc hỗ trợ nâng cao trình độ công nghệ của nền
kinh tế, còn tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp cận ngày càng nhiều hơn, ở
những mức độ cao và sâu hơn với tri thức của thế giới.
Bên cạnh đó, những biện pháp tháo gỡ các ràng buộc đối với các doanh
nghiệp tư nhân, tạo bình đẳng hơn nữa giữa khu vực tư nhân, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài và khu vực nhà nước chắc chắn sẽ tạo ra các bước tiến trong
tạo lập môi trường khuyến khích đầu tư, kinh doanh và sáng kiến. Khu vực tư
nhân với tính năng động cao hơn sẽ dễ tiếp thu và áp dụng tri thức mới. Xu thế
phát triển hơn nữa mạng lưới doanh nghiệp tư nhân cũng sẽ tạo môi trường
thuận lợi cho việc sẵn sàng tiếp cận các yếu tố kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, nếu nhìn thẳng vào sự thật, phải thừa nhận rằng hiện nay Việt
Nam đang đứng trước những thách thức rất lớn trước những áp lực và nhu cầu
phát triển kinh tế tri thức: hệ thống chính sách, pháp luật còn nhiều bất cập, còn

có những thiếu hụt và khác biệt khá lớn so với những nguyên tắc chung của thế
giới; cơ sở hạ tầng còn yếu kém, môi trường đầu tư chưa đủ sức cạnh tranh
mạnh; hệ thống thị trường thiếu đồng bộ và bị chia cắt,...
Đánh giá về lĩnh vực mô trường kinh doanh và thể chế của Việt Nam,
chúng ta chỉ xếp hạng ở vị trí 114/146 quốc gia được xếp hạng.
Bảng 2.1 – Môi trường kinh doanh và thể chế của Việt Nam và một số quốc
gia, vùng lãnh thổ năm 2009
Xếp
hạng

1

Quốc gia

Singapore

Chỉ số KEI

Môi trường kinh doanh
và thể chế

2000

2009

2000

2009

8.66


8.44

9.54

9.68

Page 10


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
...
15

Mỹ

9.32

9.02

9.06

9.04

Trung Quốc

3.92

4.47


2.84

3.90

Việt Nam

2.90

3.51

2.53

2.79

...
93
...
114
...

2.2.2. Về nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, đội ngũ cán bộ khoa
học – kỹ thuật
Nước ta hiện nay có trên 50 triệu người từ 15 tuổi trở lên, trong đó có
46.5% đã tốt nghiệp phổ thông cơ sở, nhưng tỷ lệ qua đào tạo nghề nghiệp và
chuyên môn kĩ thuật rất thấp. Qua 10 năm, số người có trình độ cao đẳng trở lên
tăng từ 1.9% lên 2.7%, trong khi số công nhân kĩ thuật tăng không đáng kể và
số người có trình độ trung học chuyên nghiệp giảm từ 3.2% xuống còn 3.0%. Tỷ
lệ qua đào tạo đã thấp, cơ cấu đào tạo lại bất hợp lý.
Dù là học sinh ở Việt Nam đều học lên những bậc cao hơn, nhưng nguồn
nhân lực có kỹ năng, trình độ, nhất là công nhân lành nghề, công nhân kỹ thuật

phục vụ các ngành công nghê cao ở nước ta hiện nay còn thiếu nghiêm trọng.
Đây là lực lượng chủ lực trong lĩnh vực nghiên cứu, tiếp cận và áp dụng các
công nghệ mới, tiên tiến tại Việt Nam. Họ là lực lượng lao động trực tiếp đẩy
nhanh quá trình nâng cao công nghệ tại Việt Nam. Nhưng trong đội ngũ những
người lao động, tỷ trọng số người đã qua đào tạo nghề chuyên môn và tỷ trọng
lực lượng có trình độ đại học và trên đại học còn thấp, lần lượt là 17.7% và
4.8% so với 77.5% lao động chưa qua đào tạo.

Page 11


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Ngoài ra, tỷ lệ cán bộ nghiên cứu khoa học ở Việt Nam còn rất thấp, chỉ
là 0.18/100 dân, trong khi đó ở Hàn Quốc là 2.19 (gấp 12.2 lần), ở Mỹ là 3.67
(gấp 20.4 lần).
Đánh giá về lĩnh vực đào tạo thì Việt Nam đứng ở vị trí 99/145 quốc gia
được xếp hạng
Bảng 2.2 – Xếp hạng về đào tạo của Việt Nam và một số quốc gia, vùng lãnh
thổ năm 2009
Xếp
hạng

Quốc gia

Chỉ số KEI

Đào tạo

2000


2009

2000

2009

Mỹ

9.32

9.02

9.13

8.74

Hàn Quốc

8.23

7.82

8.35

8.09

Trung Quốc

3.92


4.47

3.71

4.20

Việt Nam

2.90

3.51

3.73

3.66

...
13
...
28
...
94
...
99
...

2.2.3. Về công nghệ thông tin và truyền thông
Trong những năm gần đây, công nghệ thông tin và truyền thông Việt
Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể, nhất là trong lĩnh vực phát triển hạ


Page 12


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
tầng viễn thông và internet. Hạ tầng viễn thông và internet đã bắt đầu thể hiện
vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, phục vụ tương đối tốt cho sự nghiệp đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội, nhìn chung đã đáp ứng được nhu cầu giao lưu
trong nước và quốc tế. Mạng thông tin đã về một số vùng nông thôn, đưa tri
thức và thông tin giúp người dân biết sản xuất kinh doanh, tiếp cận thị trường,
góp phần xóa đói giảm nghèo. Các doanh nghiệp, nhìn chung đã tích cực, chủ
động sử dụng công nghệ thông tin để cải tiến tổ chức quản lý, mở rộng thị
trường, nâng cao năng lực cạnh tranh...
Đến năm 2008, tổng doanh thu ngành công nghệ thông tin đạt 5.22 tỷ
USD trong đó phần cứng đạt 4.1 tỷ USD , phần mềm đạt 680 triệu USD, công
nghiệp nội dung số đạt 440 triệu USD. Tổng nhân lực trong ngành công nghiệp
công nghệ thông tin ước trên 200.000 người, trong đó lao động thuộc lĩnh vực
phần cứng là 110.000 người, phần mềm 57.000 người, lĩnh vực nội dung số là
33.000 người. Tuy nhiên nếu tính theo tỷ lệ dân truy cập internet thì hiện nay
Việt Nam vẫn đang ở thứ hạng khá khiêm tốn: xếp thứ 9 trong khu vực châu Á
và thứ 93 trên thế giới.
Về tình trạng vi phạm bản quyền, tháng 5/2008, tỷ lệ vi phạm của Việt
Nam là 85%, giảm 3% so với năm trước.
Về chỉ số sẵn sàng kết nối Networked Readiness Index – NRI, năm 2008,
Việt Nam xếp thứ 73 trên thế giới với 3.67 điểm.
Về chỉ số sẵn sàng cho kinh tế điện tử, năm 2008, Việt Nam xếp hạng thứ
65 trên thế giới.
Về mức độ chính phủ điện tử, đã tăng lên đáng kể từ 0.364 điểm (2005)
lên 0.4558 điểm (2008) vươn lên xếp hạng thứ 91 trên thế giới, tăng 16 bậc so

Page 13



Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
với năm 2005. Điểm số web của Việt Nam năm 2008 là 0.4448, trong khi năm
2005 là 0.2231.
Công nghệ thông tin ở Việt Nam tuy đã đạt được những tiến bộ bước đầu
và phát triển khá nhanh, nhưng đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề như thu
nhập của người dân còn thấp trong khi chi phí cho công nghệ thông tin còn khá
cao, năng lực chính sách còn yếu so với yêu cầu về quản lý thông tin, quản lý tri
thức, và nhất là đội ngũ nhân lực chưa sẵn sàng.
Nhìn chung, bức tranh về công nghệ thông tin của Việt Nam là sáng so
với những khu vực khác, tuy nhiên, chỉ số ICT của Việt Nam tính về tổng thể
vẫn ở mức trung bình yếu, xếp hạng 78 trên thế giới (2009).
Bảng 2.3 – Xếp hạng ICT Việt Nam và một số quốc gia, vùng lãnh thổ năm
2009
Xếp
hạng

Quốc gia

Chỉ số KEI

Đào tạo

2000

2009

2000


2009

Singapore

8.66

8.44

9.29

9.22

Mỹ

9.32

9.02

9.52

8.83

Hàn Quốc

8.23

7.82

9.28


8.60

Việt Nam

2.90

3.51

2.95

4.85

...
8
...
14
...
19
...
78

Page 14


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
...

2.2.4. Về hệ thống đổi mới quốc gia
Trước hết phải nói đến mạng lưới cơ sở khoa học và công nghệ: nước ta
có 49 tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc Viện Khoa

học và Công nghệ Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 55 tổ chức
nghiên cứu phát triển thuộc các bộ và cơ quan ngang bộ, trên 50 tổ chức nghiên
cứu phát triển thuộc các doanh nghiệp, và gần 1000 tổ chức nghiên cứu phát
triển khác thuộc các trường Đại học, Cao đẳng và Liên hiệp các Hội Khoa học
và Kỹ thuật Việt Nam. Đồng thời, đầu tư cho khoa học và công nghệ trong tổng
chi ngân sách nhà nước không ngừng tăng lên. Năm 2003, tổng chi cho khoa
học và công nghệ từ ngân sách nhà nước đạt trên 3.150 tỷ đồng (gần 200 triệu
USD), chiếm tới 60% tổng đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ.
Đối với việc đổi mới, chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp – chỉ số
quan trọng phản ánh tiềm năng phát triển kinh tế tri thức chỉ vào khoảng 0.2 –
0.3% doanh thu, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%. Trong số công
nghệ áp dụng ở Việt Nam thì hơn 90% là công nghệ nhập khẩu (2003). Theo
xếp hạng chuyển giao công nghệ của Diễn đàn kinh tế thế giới – WEF năm
2004, Việt Nam xếp hạng thứ 66/104 quốc gia.
Ngoài ra, cơ sở vật chất cho khoa học và công nghệ trong những năm gần
đây đã được chú trọng đầu tư chiều sâu từ ngân sách nhà nước, đã có 1/3 thiết bị
khoa học của các tổ chức nghiên cứu phát triển là những thiết bị thế hệ mới. Đội
ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong những năm qua cũng không ngừng
được đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước, trình độ chuyên môn của cán bộ
khoa học và công nghệ nước ta cũng được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên bên cạnh

Page 15


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
đó, công tác quản lý hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém và
vẫn mang nặng tính hành chính, bao cấp. Chưa tạo được cơ chế để phát huy
mạnh mẽ khả năng sáng tạo của các nhà khoa học và gắn kết chặt chẽ hoạt động
khoa học – công nghệ với giáo dục – đào tạo và sản xuất – kinh doanh.
Xét về các chỉ số liên quan đến hệ thống đổi mới quốc gia, so sánh với

các nước thuộc khối G7, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan,... thì chất
lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam còn rất thấp, và nhìn chung đang
thụt hậu khá xa so với nhiều quốc gia khác.
Bảng 2.4 – So sánh hệ thống đổi mới của Việt Nam và một số nước
năm 2009
Xếp
hạng

Quốc gia

Chỉ số KEI

Đào tạo

2000

2009

2000

2009

Singapore

8.66

8.44

9.28


9.58

Mỹ

9.32

9.02

9.55

9.47

Trung Quốc

3.92

4.47

4.35

5.44

Việt Nam

2.90

3.51

2.38


2.72

...
4
...
6
...
63
...
115
...

Page 16


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
CHƯƠNG III – QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1 Những quan điểm chủ yếu
Từ thực tiễn của Việt Nam, thông qua những nghiên cứu, phân tích lý
thuyết, để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế
có thể đề xuất hệ quan điểm dưới đây:
Thứ nhất, phát triển kinh tế tri thức phải bền vững và đạt được sự đồng
thuận: Quan điểm hệ thống; Quan điểm cân đối mới; Quan điểm mới về tăng
trưởng; Quan điểm mới về công bằng.
Thứ hai, tận dụng thời cơ hội nhập quốc tế, phát huy năng lực nội tại kết
hợp với nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế tri thức.
Thứ ba, phát triển kinh tế tri thức để tạo đột phá ở những vùng, miền và
ngành nghề trọng điểm có sức ảnh hưởng lớn làm động lực phát triển cho toàn

ngành và lĩnh vực.
Thứ tư, phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai
mục tiêu không tách rời trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ năm, mô hình học hỏi là vận dụng là phát triển vùng như Bangalore
của Ấn độ, chiến lược quốc gia như của Singgapore trên cơ sở kết hợp những
thuận lợi và đánh giá bất lợi từ chiến lược phát triển của các quốc gia đi trước.
Đường lối phát triển chủ yếu là: dịch vụ văn hóa, du lịch, các dịch vụ hạ tầng
mềm như tài chính, ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm…; công nghiệp - công
nghệ cao; nông nghiệp phát triển dựa vào tri thức ở mức độ cao; gắn chặt chẽ
với trục cơ cấu kinh tế trọng điểm Bắc – Trung – Nam.

Page 17


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
3.2 Phương hướng và mục tiêu phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2011 –
2020 và tầm nhìn 2030
3.2.1. Phương hướng phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Thứ nhất, đối với công nghiệp và dịch vụ, chúng ta phát triển theo hướng
tuần tự và nhẩy vọt.
Thứ hai, đối với cơ khí chế tạo, chúng ta ưu tiên sử dụng công nghệ vât
liệu mới, công nghệ kỹ thuật số, chế tạo máy công cụ điều khiển theo chương
trình, các dây chuyền thiết bị tự động.
Thứ ba, đối với những ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, bưu chính
viễn thông, ngân hàng, tài chính,…
Thứ tư, đối với xây dựng và kết cấu hạ tầng, phải đảm bảo vận dụng tri
thức, công nghệ, phương pháp tổ chức quản lý mới nhất đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
kết cấu hạ tầng cao, nhất là hạ tầng ICT.
Thứ năm, chuyển trọng tâm phát triển những lĩnh vực quan trọng sang
chủ yếu dựa vào tri thức.

3.2.2. Những mục tiêu trên con đường phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam đến 2020 và tầm nhìn 2030
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ, để phấn đấu đạt
được mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn 2010 - 2020, thì phải đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy, phát triển
kinh tế tri thức như là một chiến lược tạo lập, rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển đất nước cũng tạo tiền đề cho
kinh tế tri thức phát triển. Hai mệnh đề này hòa quyện và không thể tách rời của
phát triển kinh tế nước ta.

Page 18


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Tầm nhìn kinh tế tri thức Việt Nam 2030: xét trên bình diện phát triển
kinh tế Việt Nam cứ 5 năm thì GDP bình quân đầu người tăng trên gấp đôi,
2004 là 561USD, năm 2009 là 1100 USD, 2010 là 1200 USD. Theo chiến lược
phát triển 2010-2020 của chúng ta thì GDP đầu người 2015 là 2100USD, 2020
là 3500 USD. Với đà phát triển như vậy, thêm vào đó là nền tảng phát triển kinh
tế tri thức giai đoạn 2011-2020 đã được thiết lập, điều đó cho ta một cái nhìn lạc
quan rằng năm 2030, chúng ta sẽ có trình độ phát triển kinh tế tri thức theo kịp
Malaysia và Thái Lan, tỷ trọng TFP trong GDP đạt trên 50%, GDP đầu người
đạt trên 10.000 USD. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào
công nghệ cao nhất là công nghiệp ICT, Nano, công nghệ vật liệu mới. Mục tiêu
tiến tới của chúng ta là đuổi kịp và vượt trình độ phát triển kinh tế tri thức của
những nước trong khu vực như Thái Lan và Malaysia. Bước tiếp theo là đuổi
kịp và vượt Singapore. Đó là những mục tiêu khó khăn nhưng chúng ta quyết
tâm sẽ đạt được nếu chúng ta bắt tay ngay lập tức và quyết liệt thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2011-2020 làm động lực phát triển
mạnh cho giai đoạn 2020-2030.

3.3 Giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong giai
đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn 2030
Để thực hiện hiệu quả những quan điểm đã trình bày ở trên, chúng ta cần
tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp cụ thể như dưới đây:
Thứ nhất, về môi trường kinh doanh và hệ thống đổi mới: phát triển môi
trường kinh doanh lành mạnh, đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện và môi
trường phát triển cho nền kinh tế tri thức; cần triệt để đổi mới doanh nghiệp –
khâu then chốt sản xuất ra sản phẩm của nền kinh tế tri thức trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.

Page 19


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
Thứ hai, về giáo dục và đào tạo: đổi mới trong quản lý giáo dục phù hợp
nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức; xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo cho phù hợp với nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức; tái cấu trúc
hệ thống giáo dục và mở rộng mạng lưới giáo dục phù hợp với nhu cầu phát
triển của kinh tế tri thức; đổi mới chương trình và tài liệu đào tạo; đổi mới
phương pháp dạy, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục; xã hội hóa giáo
dục, tận dụng mọi nguồn lực xã hội cho đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho
nhu cầu của nền kinh tế tri thức; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nền giáo dục tri thức; gắn đào tạo với nhu cầu xã hội, nhằm thực hiện
có hiệu quả việc cung cấp nhân lực trực tiếp cho các doanh nghiệp,
tạo điều kiện để các doanh nghiệp tham gia vào quá trình xây dựng và thực
hiện chương trình đào tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học công nghệ
trong các cơ sở đào tạo và nghiên cứu.
Thứ ba, xây dựng cơ sở hạ tầng ICT phát triển và ứng dụng rộng rãi
trong các lĩnh vực kinh tế xã hội: chúng ta phải xây dựng một loạt các giải pháp
nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của ICT của toàn xã hội từ lãnh đạo cho đến

người dân, trong mọi ngành kinh tế quốc dân; không ngừng nâng cao năng lực
phát triển và ứng dụng vể ICT; tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà
nước về công nghệ thông tin và truyền thông; thực hiện chiến lược huy động các
nguồn vốn trong nước và ngoài nước để thực hiện từng phần các chương trình
trọng điểm; phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và
truyền thông; nâng cao năng lực của hệ thống nghiên cứu triển khai của các cơ
sở nghiên cứu về công nghệ thông tin và truyền thông; hoàn thiện môi trường
pháp lý hỗ trợ phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông; tăng
cường hợp tác, liên kết trong nước và quốc tế, tranh thủ sự hỗ trợ, chia sẻ thông
tin và tri thức, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực nghiên

Page 20


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
cứu, quản lý, sản xuất...; phát triển mạnh mẽ thị trường ICT, thực hiện mở cửa
thị trường viễn thông và Internet, chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ tư, phát triển nền khoa học và công nghệ, đổi mới quản lý đối với
khoa học và công nghệ của quốc gia, tạo động lực phát triển kinh tế tri thức, ưu
tiên phát triển những ngành khoa học công nghệ mũi nhọn mang tính đột phá
bên cạnh ICT đó là: Công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, sức
khỏe cộng đồng, xử lý ô nhiễm môi trường; Công nghệ tự động hóa tập trung ở
những lĩnh vực như điều khiển điện tử công suất, mô hình hóa và điểu khiển rô
bốt công nghiệp, điều khiển các hệ sinh học, giao diện người - máy, tự
động hóa trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, khai khoáng, chế tạo
máy....; Công nghệ vật liệu mới: như vật liệu polyme và composite; vật liệu
phục vụ công nghiệp, năng lượng và xây dựng; vật liệu môi trường; vật liệu vô
cơ, kim loại và hợp kim; vật liệu nano và submicro; vật liệu mới cho công
nghiệp dược; Công nghệ năng lượng mới như công nghệ nhiệt mặt trời tập
trung, công nghệ thủy điện Hydrokinetic Power, sản xuất nhiên liệu diezel sinh

học từ tảo, công nghệ nhiên liệu hóa thạch sạch; Phát triển cơ khí chính xác
phục vụ các ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn.
Thứ năm, tăng cường khai thác tri thức của thế giới để tận dùng tối ưu cơ
hội “đi xe miễn phí”. Đó là chiến lược hướng tới kinh tế tri thức của Việt Nam
trong giai đoạn tới cần bao hàm một số nội dung sau: cải thiện môi trường kinh
doanh chung, tăng cường thu hút đầu tư vào những lĩnh vực có triển vọng và có
sức lan tỏa mạnh nhất; năng động hơn và định hướng có chọn lọc hơn nữa, quản
lý tri thức theo hướng đổi mới hơn nữa trong quá trình tìm kiếm công nghệ thể
hiện thông qua việc chuyển giao công nghệ, nhập khẩu các máy móc, thiết bị kỹ
thuật…; mở rộng cánh cửa ICT cho sự tiếp cận của đông đảo dân cư, cho sự

Page 21


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế theo hướng “tích
cực”.

Page 22


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
C – KẾT LUẬN
Nghiên cứu về nền kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam là thực sự cần thiết đối với định hướng phát triển của Việt Nam
trong tương lai. Quan niệm đúng đắn về kinh tế tri thức cũng như nhận thức được
những nhân tố tác động đến sự ra đời của nền kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri
thức, việc lượng hóa mức độ phát triển kinh tế tri thức thông qua các hệ thống các chỉ
tiêu đánh giá kinh tế tri thức cho chúng ta cơ sở để phục vụ cho các bước nghiên cứu
tiếp theo để nhìn nhận, đánh giá sự phát triển của nền kinh tế dưới góc độ của kinh tế

tri thức.
Trong vài thập kỷ trở lại đây xu thế toàn cầu hoá gia tăng ngày càng mạnh mẽ
và thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu, các nhà khoa học, chính trị gia, những tập
đoàn doanh nghiệp trên thế giới. Khái quát hóa về toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
trong bối cảnh thực tế hội nhập kinh tế quốc tế trên toàn thế giới ngày càng sâu và rộng
như hiện nay, những tác động của hội nhập kinh tế đối với mỗi quốc gia cho ta một cái
nhìn sâu sắc hơn về kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển
kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội; đến cơ cấu lao động xã hội nhất là tầng lớp công nhân tri thức. Tuy
nhiên đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì tất yếu của việc cần thiết
của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế tri thức rút ngắn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa chứ không thể chờ đợi công nghiệp hóa kiểu cổ điển.
Từ việc phân tích thực trạng phát triển kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn của nền
kinh tế tri thức trong những năm qua. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì nền kinh
tế Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nếu nhìn dưới các tiêu chuẩn của nền
kinh tế tri thức. Do đó cần xác định phương hướng tiếp cận, mục tiêu và các nhóm giải
pháp phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2020 và tầm nhìn 2030.

Page 23


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam, GS. Đặng
Hữu, Kỷ yếu Hội thảo Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam, 6/2000.
2. Kinh tế tri thức – thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt
Nam, GS. Đặng Hữu, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
3. Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Ngô Quý Tùng,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001.

4. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế tri thức, Wesbsite Đảng
Cộng sản Việt Nam, 25/11/2004.
5. Nguồn số liệu từ Ngân hàng thế giới – WB năm 2010,

6. Nguồn số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam năm 2003 và 2008,

7. Xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức và tác động của nó đến sự
phát triển và sự lựa chọn chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam, GS. Đặng Hữu, Chương trình khoa học xã hội cấp nhà
nước “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng xã hội chủ nghĩa:
con đường và bước đi”, Hà Nội, 2006
8. Xu thế kinh tế tri thức, Ngô Quang Tùng, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000.

Page 24


Chuyên đề kinh tế chính trị 2013
MỤC LỤC
A – LỜI NÓI ĐẦU

3

B – NỘI DUNG

5

I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ TRI THỨC

5


1.3 Kinh tế tri thức và quá trình phát triển kinh tế tri thức

5

1.1.1. Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức

5

1.1.2. Khái niệm về kinh tế tri thức

6

1.1.3. Đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức

7

1.4 Phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế

8

1.2.1. Đo lường mức độ phát triển kinh tế tri thức

8

1.2.2. Tác động của hội nhập đến phát triển kinh tế tri thức

9


II – THỰC TRẠNG KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM TRÊN
CON ĐƯỜNG TIẾN ĐẾN NỀN KINH TẾ TRI THỨC

10

2.1 Những chỉ số phát triển kinh tế - xã hội cơ bản của Việt Nam

10

2.2 Tình hình phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam qua
một số chỉ tiêu cơ bản của Ngân hàng Thế giới

11

2.2.1. Về môi trường kinh doanh và thể chế chính sách

11

2.2.2. Về nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, đội ngũ
cán bộ khoa học – kỹ thuật

13

2.2.3. Về công nghệ thông tin và truyền thông

15

Page 25



×