Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

HỆ THỐNG KHO HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.8 KB, 43 trang )

Môn học: Logistics
Chương 13
Thực hiện: Nhóm 9 – K06402B
Phạm Nguyễn Quỳnh Anh K06402 0234 Đặng Thị Phương Thảo K06402 0326
Phạm Thị Thanh Hoa K06402 0263 Lê Thị Thanh Thảo K06402 0328
Phạm Hà Mi K06402 0287 Vũ Thị Thu Thủy K06402 0342
Nguyễn Ngọc Thúy Nga K06402 0295 Trần Minh Trang K06402 0355
Nguyễn Phượng Hoàng Oanh K06402 0311 Lê Nguyễn Thanh Trúc K06402 0360
Network Intergration

2
Network Intergration
LỜI MỞ ĐẦU
Trong phạm vi vai trò của mình, những nhà quản trị khi được yêu cầu lắp đặt lại hệ thống
logistics phải đối diện với sự phân công mới và đầy thử thách. Để đạt được tỉ lệ thay đổi nhanh
chóng trong hầu hết mọi mặt của việc tổ chức logistics, nhà quản trị mong đợi những bước nhảy to
lớn khi họ cố gắng sử dụng những kinh nghiệm trước đây để hướng đến sự sáng tạo và bổ sung
năng lực quản trị logistics. Chính vì vậy, thành công hay thất bại phụ thuộc vào nhóm hoạch định
có thể xác định số lượng nguồn lực trong công việc hợp lý hay không và những kế hoạch hành
động tốt như thế nào. Có được sự am hiểu toàn diện về lý thuyết tích hợp hệ thống logistics sẽ tạo
nên một bước tiến quan trọng nhằm phát triển chiến lược hợp nhất.
Trong chương trước, bản chất của chiến lược logistics đã được gắn với hoạt động tối thiểu hóa
chi phí đồng thời duy trì sự linh hoạt. Sự linh hoạt là chìa khóa cung cấp sự thỏa mãn cơ bản đối
với khách hàng ở mức cao, cùng lúc đó duy trì khả năng tổ chức hợp lý hiệu quả có thể giành được
sự mong đợi chính ở khách hàng. Để khai thác hết sự linh hoạt, công ty tích hợp quá trình logistics
ở mức độ cao. Sự hợp nhất đòi hỏi ở hai mức độ hoạt động:
- Đầu tiên, phạm vi hoạt động của logistics phải được hợp nhất qua hệ thống kho
hàng mang tính hỗ trợ cho việc đáp ứng khách hàng, sản xuất cũng như những đòi hỏi về thu mua.
Sự hợp nhất trong hệ thống rất cần thiết nếu công ty sử dụng những năng lực logistics nhằm đạt
được lợi thế cạnh tranh.
- Thứ hai, sự hợp nhất phải mở rộng xa hơn tầm công ty đơn lẻ, bằng cách hỗ trợ


mối quan hệ thông qua chuỗi cung ứng.
Chương này giới thiệu một khung sườn nhằm giúp nhà quản trị đạt được sự hợp nhất như trên.

3
Network Intergration
1. HỆ THỐNG KHO HÀNG CỦA DOANH NGHIỆP
Trước khi xuất hiện phương thức vận tải thủy bộ dựa vào chi phí thấp, phần lớn thương mại
thế giới phụ vận chuyển nguyên vật liệu và sản phẩm bằng đường biển. Trong suốt giai đoạn này,
hoạt động thương mại tập trung quanh những thành phố cảng. Vận chuyển hàng hóa bằng đường
bộ rất đắt và chậm. Ví dụ, thời gian từ lúc đặt hàng quần áo xuyên lục địa Hoa Kỳ có thể mất tới
chín tháng. Mặc dù nhu cầu về vận chuyển nhanh và hiệu quả luôn luôn được đặt ra, nhưng mãi tới
khi đầu máy xe lửa hơi nước được phát minh vào năm 1829 thì cuộc cách mạng về kỹ thuật vận tải
mới bắt đầu ở Mỹ. Ngày nay, hệ thống giao thông vận tải ở quốc gia này là một mạng lưới phát
triển mạnh với đường xe lửa, đường biển, đường bộ và đường ống. Mỗi phương thức vận tải cung
cấp một loại hình dịch vụ khác nhau trong một hệ thống logistics. Hình thức vận tải mang tính
kinh tế cao này đã tạo ra cơ hội xây dựng một hệ thống kho bãi có năng lực cạnh tranh đề phục vụ
khách hàng.
Tầm quan trọng của việc phân tích địa điểm kho hàng được cân nhắc tới từ giữa thế kỉ 19, khi
Joachim von Thunen, một nhà kinh tế học người Đức, viết cuốn sách The Isilate State. Theo ông
thì yếu tố quyết định để phát triển có lợi nhuận là giá đất đai và chi phí vận chuyển từ trang trại tới
thị trường. Giá đất được xem xét bằng cách liên hệ trực tiếp với chi phí vận chuyển và khả năng
của sản phẩm có thể kiểm soát một mức giá tương xứng để có thể bù đắp mọi chi phí và lợi nhuận.
Nguyên lý cơ bản của Von Thunen là: giá của một sản phẩm cụ thể nhờ vào việc phát triển địa
điểm sẽ giảm đi so với giá thị trường nếu quan tâm đến địa điểm kho hàng
Sau von Thunen, Alfred Weber đã khái quát nên lý thuyết về địa điểm từ ngành nông nghiệp
sang ngành công nghiệp. Hệ thống lý thuyết của Weber bao gồm rất nhiều địa điểm trải rộng trên
một vùng địa lý và được liên kết với nhau bằng các chuỗi chi phí vận chuyển. Weber đã phát triển
một sơ đồ để phân loại các nguyên liệu chính xem chúng có phổ biến ở khắp nơi hay chỉ có ở một
vài địa phương (bao gồm những khoáng thô sản chỉ có ở một số vùng nhất định). Dựa trên phân
tích của mình, Weber đã xây dựng nên một danh mục nguyên vật liệu (material index). Danh mục

này là tỉ lệ giữa nguyên liệu thô chỉ có tại một vài địa điểm trên tổng khối lượng thành phẩm.
Nhiều ngành công nghiệp áp dụng một khối lượng nguồn nguyên liệu tại địa phương dựa trên danh
mục này. Tận dụng hai cách đo lường này, Weber đã khái quát rằng các ngành công nghiệp sẽ có
vị trí thuận tiện nếu được đặt tại nơi tiêu thụ khi quá trình sản xuất đang tăng và được đặt tại nơi
4
Network Intergration
gần với nguồn nguyên liệu thô khi quá trình sản xuất đang giảm xuống. Cuối cùng, nếu quá trình
sản xuất không tăng cũng không giảm thì công ty nên lựa chọn địa điểm trung gian.
Chỉ một vài nhà lý luận đồng ý với quan điểm của von Thunen và Weber. Lý thuyết về địa
điểm đáng chú ý nhất được phát triển bởi August Losch, Edgar Hoover, Walter Isard và Michael
Webber. Những tác phẩm của họ đã nêu bật được tầm quan trọng của chuyên môn hóa về địa điểm
của ngành công nghiệp, bao gồm cả xác định tầm quan trọng của sự vận tải.
1.1. Hàng loạt quyết định về địa điểm
Đối với việc hoạch định logistics, vận tải đòi hỏi sự lên kết về mặt địa lý của việc sản xuất,
kho bãi, và địa điểm thị trường để hình thành một hệ thống tích hợp. Những kho hàng của hệ
thống logistics gồm tất cả các địa điểm mà tại đó nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang hay hàng tồn
kho đều được trung chuyển và tích trữ. Vì vậy, các cửa hàng bán lẻ, kho thành phẩm, nhà máy sản
xuất và kho nguyên vật liệu đóng vai trò là các địa điểm của mạng lưới logistics. Điều đó có nghĩa
rằng, việc lựa chọn các địa điểm riêng lẻ, cũng như hệ thống các địa điểm được ghép lại, tạo ra
được những quyết định logistics quan trọng dựa trên chi phí và có sức cạnh tranh.
Việc định vị một nhà máy sản xất có thể cần nhiều năm để hoàn thành. Ví dụ, quyết định xây
dựng một nhà máy lắp ráp xe Cadillac mới của General Motors mất tới 5 năm (để đi từ giấy tờ
thành hiện thực). Ngược lại, sự sắp xếp kho bãi sử dụng trong một thời gian nhất định lại rất linh
động. Việc lựa chọn địa điểm bán lẻ thì phụ thuộc vào marketing và các năng lực cạnh tranh. Các
vấn đề thảo luận sau đây sẽ tập trung vào việc lựa chọn địa điểm kho bãi. Trong tất cả các quyết
định về địa điểm mà các các nhà quản lý logistics thường gặp phải thì hệ thống kho bãi là cái
thường xuyên được quan tâm nhất.
1.2. Local presence: Một kiểu mẫu lỗi thời
Một điều được tin tưởng lâu đời trong kinh doanh là một công ty phải có nhiều phương tiện ở
những thị trường trong nước thì mới kinh doanh thành công. Trong suốt quá trình phát triển kinh tế

ở Bắc Mỹ, dịch vụ vận chuyển thất thường đã gây ra mối nghi ngờ về khả năng giao hàng đúng
giờ và ổn định. Tóm lại, khách hàng nghĩ rằng một nhà cung cấp phải duy trì hàng tồn kho trong
địa phương, nếu không sẽ rất khó khăn thậm chí không thể giao hàng một cách ổn định. Quan
điểm này thường được nhắc đến như là một khuôn mẫu “sự hiện diện của địa phương” (Local
presence), điều này dẫn đến việc đưa ra các chiến lược logistics về phân phối hàng tồn kho.Vào
5
Network Intergration
đầu những năm 1960, việc các nhà sản xuất có nhiều hơn 20 nhà kho đề phục vụ riêng cho đại lục
Hoa Kì là chuyện bình thường; thậm chí có nhiều công ty có nguyên một chuỗi nhà kho đặt gần tất
cả cả các thị trường chính.
Khi một mô hình truyền thống mang lại thành công, như việc tồn kho tại địa phương, thì rất
khó để thay đổi nó. Tuy nhiên, vài thập kỉ gần đây, chi phí và rủi ro đòi hỏi phải xem xét lại điều
này. Dịch vụ vận tải đã phát triển mạnh, độ tin cậy tăng lên khi mà thời gian hàng đến nơi có căn
cứ và thể dự đoán được. Sự tiến bộ vượt bậc về công nghệ thông tin đã rút ngắn thời gian nhận
biết và truyền tải nhu cầu khách hàng. Công nghệ xuất hiện để liên kết các phương tiện vận tải,
bằng cách ấy, thông tin về việc giao nhận được cung cấp một cách chính xác. Việc giao hàng cho
ngày hôm sau từ 1 nhà kho nằm cách đó 800 đến 1000 dặm là chuyện bình thường.
Nhờ có sự tiến bộ về giao thông vận tải, công nghệ thông tin và hệ thống kho bãi mà chỉ cần
một số ít nhà kho hơn để phục vụ tốt khách hàng trong một khu vực địa lý. Trong nhiều trường
hợp, việc khách hàng còn bận tâm về “local presense” vẫn ảnh hưởng tới việc phân tán hàng tồn
kho. Việc trả lời cho câu hỏi “bao nhiêu phần “local presense” thì thỏa đáng?” tốt nhất là khi xem
xét kĩ càng những mối quan hệ mà điều hành hệ thống logistics.
2. SỰ CẦN THIẾT CỦA KHO LƯU HÀNG HÓA
Kho hàng là một phần trong một chuỗi Logistics để giảm chi phí hoặc tăng các dịch vụ đối với
khách hàng. Trong một vài trường hợp khác, lợi ích mà nó đem lại vừa giảm được chi phí vừa tăng
được dịch vụ cho khách hàng.
Kho hàng tạo giá trị cho những quá trình mà nó hỗ trợ.
- Việc sản xuất cần kho để lưu trữ, phân loại và quay vòng các nguyên liệu và linh
kiện. Các kho hàng sử dụng để lưu nguyên vật liệu, linh kiện đầu vào của công ty thì thường được
gọi là kho hàng để cung ứng.

- Kho hàng cũng sử dụng để lưu trữ, quay vòng sản phẩm và kết nối hàng lưu kho
cho việc giao nhận tới tay các khách hàng tiếp theo trong chuỗi cung ứng. Kho lưu hàng mà đáp
ứng cho việc đặt hàng của các khách hàng thì thường được gọi là kho hàng để đáp ứng. Sự cần
thiết của kho hàng để đáp ứng thì liên quan trực tiếp với việc sản xuất và các chiến lược
marketing.
6
Network Intergration
Vì lý do vận chuyển nguyên vật liệu chuyên biệt và sự cần thiết của quá trình lưu hàng, kho
lưu thường được phân loại về hoạt động, thành kho cung cấp dịch vụ cung ứng và kho cung cấp
dịch vụ đáp ứng. Các kho hàng hỗ trợ cho việc sản xuất thường được đặt gần các nhà máy mà nó
hỗ trợ; ngược lại, các kho hàng hỗ trợ cho việc đặt hàng thì thường được đặt một cách chiến lược
tại khắp các khu vực địa lý là thị trường tiêu thụ mà nó phục vụ.
Sự kết nối của công nghệ thông tin, sự hoàn thiện của thương mại điện tử, và các chiến lược
kinh doanh đáp ứng nhu cầu đã kết hợp lại để thay đổi một cách triệt để việc sử dụng các kho lưu
trữ hàng như thế nào và tại sao lại sử dụng nó.
2.1. Quản trị thu mua
Công việc thu mua, như đã được đề cập ở chương 4, tập trung vào việc sắp xếp kho hàng giúp
cho việc mua bán nguyên vật liệu và linh kiện với tổng chi phí đầu vào thấp nhất. Quy trình phức
tạp của việc mua bán, được nhìn nhận là sự kết hợp của giá cả mua bán, khấu hao số lượng,
phương thức thanh toán và sự hỗ trợ của logistics; nó đòi hỏi phải đạt được chi phí phân phối thấp
nhất. Với nỗ lực để phát triển và hỗ trợ mối quan hệ chuyên môn và thân thiết với các nhà cung
ứng, hầu hết doanh nghiệp đều giảm bớt số lượng nhà cung cấp của họ. Tính logic ở đây là sự phát
triển số lượng hạn chế mối quan hệ đối với nhà cung cấp, có thể được hợp nhất một cách có hiệu
lực vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp. Mục đích của việc mua bán liên quan chính là loại bỏ
phế phẩm, sự trùng lắp, và sự dư thừa không nằm trong kế hoạch.
Để nâng cao hiệu quả toàn bộ hoạt động, sự tính toán chu kì vòng quay trở nên đáng chú ý
trong quyết định mua bán. Động lực liên quan của công việc với nhà cung cấp được giới hạn phụ
thuộc vào triết lý “cradle – to – grave” (chuỗi cung ứng không khép kín từ khâu nguyên vật liệu tới
người sử dụng cuối cùng), kéo dài từ việc phát triển sản phẩm mới tới cải tạo và loại bỏ nguyên
vật liệu không sử dụng đến và hàng tồn kho không bán được. Ví dụ như trọng tâm vòng khép kín

(closed-loop) là kết quả từ việc mua nguyên vật liệu, mà quá trình này tác động trực tiếp đến
những yêu cầu và chức năng của kho hàng để cung ứng. Những dịch vụ giá trị gia tăng liên quan
đến việc thu mua ngày càng bị debundled với giá cả buôn bán. Cái việc debundling tạo điều kiện
gắn kết công việc và lợi ích giữa nhà sản xuất và nhà cung ứng của họ. Đồng thời, cũng có một xu
hướng chiến lược kinh doanh dựa vào sự đáp lại, xu hướng này xác định lại mong đợi liên quan
đến sự hỗ trợ của nhà cung ứng và sự tham gia của họ vào quá trình tạo ra giá trị gia tăng. Kết quả
chính là những mối quan hệ được hình thành, giữa những nhà phân phối và người hỗ trợ chính.
7
Network Intergration
Cuối cùng, nguồn cung ứng được chọn đúng thời kỳ, cơ hội mua hàng giảm giá và nhu cầu đáp
ứng cho việc sản xuất nhanh chóng sẽ giúp việc ra quyết định đúng đắn về vấn đề tồn kho nguyên
vật liệu.
Theo như kết quả của xu hướng này, chức năng của phân phối kho hàng tiếp tục thay đổi. Kho
hàng trước đây sử dụng dự trữ nguyên vật liệu thô và linh kiện. Ngày nay, vị trí những kho hàng
nhấn mạnh hơn vào việc phân loại, quay vòng nguyên vật liệu và linh kiện khi chúng được đưa
vào quá trình sản xuất. Mục đích là sắp xếp hợp lý hóa nguồn nguyên vật liệu và linh kiện bằng
cách loại bỏ những hoạt động lặp lại trong quá trình mua và dự trữ nguyên vật liệu tồn kho chính
tại nhiều địa điểm thông qua hệ thống cung cấp nguyên vật liệu.
2.2. Vai trò trong sản xuất
Kho lưu hàng hỗ trợ cho việc sản xuất thường được sử dụng để giao nhận các sản phẩm đã
hoàn thành cho các đơn đặt đầu ra của công ty. Khả năng giao nhận một loạt các mặt hàng đa dạng
trái ngược với việc giao nhận một lô hàng đơn lẻ. Lợi ích chủ yếu của kho lưu hàng để cung ứng là
có thể cung cấp cho các khách hàng một lô các mặt hàng đầy đủ chỉ trong một hóa đơn với một
mức trọng tải xác định. Thật ra, khả năng cung cấp của nhà sản xuất như người giao nhận là lý do
chính cho việc chọn người cung ứng thích hợp.
Ví dụ điển hình cho các kho hàng đáp ứng là hệ thống được các hãng sử dụng như: General
Mills, Johnson & Johnson, Kraft và Kimble-Clark. Tại Johnson & Johnson, kho hàng được sử
dụng để cung cấp cho lĩnh vực y tế và tiêu dùng bằng việc đóng vai trò như là người giao nhận
hàng tồn kho một lượng lớn các doanh nghiệp khác nhau. Kết quả là, khách hàng có thể mua đầy
đủ các mặt hàng được phân hạng từ những doanh nghiệp khác nhau trên một hóa đơn duy nhất với

một lần đặt hàng. Kimbly-Clark sản xuất một lượng lớn các sản phẩm đơn lẻ trên một dây chuyền
riêng biệt trong những nhà máy khác nhau. Những sản phẩm tã, giấy dùng một lần như Kleenex,
Scott Tissue, and Huggies được sản xuất trong tại sản lượng hiệu quả kinh tế theo quy mô, sau
đó nó được lưu trong các kho hàng đáp ứng. Đơn đặt hàng những sản phẩm đã được phân hạng
của mỗi khách hàng sẽ được sắp xếp tại kho này. Tại Nabisco Division của Kraft những chi nhánh
kho lưu trữ được đặt gần cửa hàng bán bánh. Hàng tồn kho của những sản phẩm chính ở mỗi chi
nhánh sẽ làm cho việc thực hiện các lô hàng với đầy đủ dịch vụ dễ dàng hơn nhiều.
Yếu tố quyết định chính của các kho hàng đáp ứng cho việc sản xuất là chiến lược đa dạng hóa
các sản phẩm phải được thực hiện. Trong chương 4, ba chiến lược sản xuất chính là sản xuất theo
8
Network Intergration
kế hoạch (Make To Plan MTP), sản xuất theo đơn đặt hàng (Make To Order MTO), và lắp ráp
theo đơn đặt hàng (Assemble To Order ATO) đã được đề cập tới. Sự mở rộng các kho hàng đáp
ứng phải được kết nối trực tiếp với những yêu cầu của mỗi chiến lược sản xuất. Theo cách hiểu
thông thường, chiến lược sản xuất MTO cần kho hàng cung ứng hỗ trợ nhiều hơn là sự hỗ trợ của
kho hàng đáp ứng, có thể là không cần. Ngược lại, chiến lược sản xuất MTP mà nó hướng tới
nguồn lực để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô một cách tối đa thực sự cần sức chứa của một
kho hàng cung ứng.
2.3. Quản trị đáp ứng khách hàng
Kho hàng đáp ứng tạo ra giá trị bằng cách cung cấp hàng tồn kho phân loại theo yêu cầu của
khách hàng đến những nhà bán sỉ và bán lẻ. Một kho hàng được đặt ở vị trí gần khách hàng để tối
thiểu hóa chi phí vận chuyển nguyên vật liệu đầu vào bằng cách tối đa hóa khối lượng hàng hóa
giao nhận và quãng đường từ nơi sản xuất tiếp theo đó là các tuyến đuờng ngắn cung cấp hàng hóa
cho khách hàng. Độ lớn về mặt địa lý của một thị trường tiêu thụ mà được phục vụ bởi một kho
hàng thì phụ thuộc vào số lượng nhà cung cấp, tốc độ phục vụ mong đợi, độ lớn trung bình của
đơn hàng và chi phí phân phối một đơn vị hàng hóa tại địa phương. Kho hàng tồn tại để cung cấp
đến khách hàng sựà phân loại và bổ sung. Một kho hàng được công nhận nếu nó đưa ra được cách
để có được dịch vụ cạnh tranh hoặc lợi thế chi phí.
2.3.1. Sự bổ sung nhanh chóng
Hệ thống kho hàng đáp ứng với nhu cầu của khách hàng theo cách truyền thống mang lại cách

sắp xếp sản phẩm từ nhiều nhà sản xuất và phân phối khác nhau cho người bán lẻ. Một kho hàng
bán lẻ tiêu biểu không thể yêu cầu một cách hiệu quả để đòi hỏi hàng tồn kho với số lượng lớn
trực tiếp từ nhà bán sĩ hoặc nhà sản xuất. Yêu cầu bổ sung kho hàng bán lẻ tiêu biểu, bị thay thế
bằng việc nhà bán sĩ sẽ bán sản phẩm khác của nhà sản xuất khác.
Hệ thống kho hàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng thông thường là thực phẩm và hỗn hợp
hàng hóa công nghiệp. Kho hàng thực phẩm hiện đại thường có vị trí địa lý gần với kho hàng bán
lẻ mà nó cung cấp. Từ kho hàng trung tâm, phân loại những sản phẩm được hợp nhất, có thể bổ
sung nhanh chóng những loại hàng tồn kho bán lẻ, nhờ khu vực gần nhau. Kho hàng bán lẻ lớn có
thể nhận trọng lượng nhiều, đa dạng hơn từ kho hàng hàng ngày. Vị trí của kho hàng ở trong thị
trường cung cấp được xem là cách mang lại chi phí thấp nhất để bổ sung nhanh chóng hàng tồn
kho phân loại, đến khách hàng cuối cùng hoặc cho người bán lẻ.
9
Network Intergration
2.3.2. ATO dựa trên thị trường tiêu thụ
Thiết kế một hệ thống kho hàng đáp ứng với nhu cầu khách hàng có liên hệ trực tiếp đến chiến
lược phát triển hàng tồn kho. Thiết lập kho hàng là kết quả của việc mở rộng hàng tồn kho trước
đó từ yêu cầu được đóan trước trong tương lai. Điều đó có nghĩa rằng những công ty sản xuất đang
tận dụng hệ thống phân phối, mức độ phụ thuộc vào việc dự đoán trước yêu cầu về hàng tồn kho
để bù đắp thời gian hao phí, để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Ở bài thảo luận trước đã
chỉ ra rằng hàng tồn kho mở rộng trong tương lai sau khi sản xuất là điển hình trong trường hợp,
nơi công ty sản xuất để thực hiện kế hoạch hoặc khi họ được cam kết trong hợp thể phân quyền để
đưa ra yêu cầu. Đối với chiến lược lắp ráp để yêu cầu (Assemble To Order - ATO), thành phần
thông thường hoặc không định hình được được dự trữ trong kho hàng tồn kho như mong đợi sản
xuất đóng vai trò đặc biệt hoặc tập hợp tại kho hàng dựa trên những yêu cầu được thu lại từ khách
hàng.
Khối lượng hoạt động ATO đang ngày càng tăng lên đóng vai trò trong địa điểm đặt kho hàng,
gần với khách hàng, ngược lại địa điểm sản xuất là ở trung tâm. Tập trung gần với thị trường tiêu
thụ chính cho phép lợi nhuận hoãn lại trong khi tránh được chi phí cao và thời gian liên quan đến
việc vận chuyển trực tiếp với khoảng cách dài.
2.4. Sự tồn xác đáng của các kho lưu trữ hàng

Các kho lưu trữ hàng tồn tại hiệu quả trong một chuỗi logistics, với các dịch vụ và lợi ích chi
phí, do vị trí trung tâm của nó giữa người cung cấp, nhà sản xuất và khách hàng. Lợi ích cạnh
tranh bắt nguồn từ việc thành lập một hệ thống kho lưu hàng là có thể đem lại lợi ích giảm tổng
chi phí và giao hàng nhanh chóng hơn. Đứng từ khía cạnh vận chuyển một cách kinh tế, việc giảm
chi phí có được là bằng cách tiến tới sử dụng kho hàng lưu trữ như là một trung tâm giao nhận.
Tuy nhiên, trung tâm giao nhận thường cần hàng tồn kho để lắp ráp các đơn theo yêu cầu khách
hàng. Thay vào đó, sự củng cố hay phân hạng có thể đạt tới bằng cách thực hiện chuỗi dịch vụ
xuyên suốt hay phân loại chéo, việc này có thể thực hiện mà không cần hàng tồn kho. Vì vậy mà
có sự chuyển đổi hiệu quả kho lưu hàng hóa từ hàng tồn kho sang các dịch vụ hỗn hợp. Tất
nhiên,vài doanh nghiệp sẽ cân nhắc sự kết hợp của hàng tồn kho và dòng hàng xuyên suốt liên tục
hay tổ chức chéo để tiến tới dịch vụ cho khách hàng hiệu quả và tiết kiệm hơn. Từ khía cạnh quản
trị tích hợp, câu hỏi chìa khóa của thiết kế chuỗi logistics trở thành: Bao nhiêu và loại kho lưu trử
hàng nào mà một hãng nên thành lập? Nên đặt nó ở đâu? Nên cung cấp dịch vụ nào? Hàng nào nên
10
Network Intergration
giữ làm hàng tồn? khách hàng nào nên cung cấp dịch vụ? Sự lặp lại của các câu hỏi tương hỗ trên
đóng vai trò như là thách thức cho việc thiết kế chuỗi logistic cổ. Với những hãng sản xuất, thiết
kế chuỗi từ chiến lược marketing và tiếp tục với sản xuất và kế hoạch thu mua. Còn trong những
hãng bán sỉ và lẻ, các nhà máy sẽ bắc cầu từ thu mua cho tới chiến lược đặt hàng của khách hàng.
3. SỰ TÍCH HỢP TỔNG CHI PHÍ
Các nhân tố như vận tải và hàng tồn kho có thể xác định hệ thống kho vận ban đầu của một
công ty. Thảo luận sau đây xem xét chi phí mậu dịch liên quan đến vận tải và hàng tồn kho, và sự
tích hợp của chúng, để xác định tổng chi phí tối thiểu của hệ thống thiết bị.
3.1. Nguyên lý kinh tế của việc vận tải
Giải pháp để tiết kiệm chi phí vận tải được tổng kết trong hai nguyên tắc cơ bản sau. Nguyên
tắc thứ nhất còn được gọi là nguyên tắc số lượng, nó đề cập đến việc khi vận chuyển những hàng
hoá riêng lẽ bằng một phương tiện vận chuyển bất kỳ thì số lượng hàng hoá được gửi phải đủ lớn
đến mức có thể chuyên chở một cách hợp pháp. Thứ hai là nguyên tắc thu nhỏ , theo như nguyên
tắc này thì những chuyến hàng lớn nên được vận chuyển xa miễn là có thể. Cả hai nguyên tắc trên
đều được triển khai trong chương 8. Nếu được kết hợp sử dụng , những nguyên tắc này sẽ giúp

dàn trải chi phí cố định liên quan đến việc vận tải vượt quá số lượng hay với khoản cách xa.
3.1.1. Chứng minh dựa trên chi phí
Nguyên lý kinh tế cơ bản chứng minh cho việc thành lập kho hàng chính là việc kết hợp vận
tải . Các nhà sản xuất thường mong muốn và có xu hướng bán hàng hoá sang thị trường nước
ngoài. Nếu những đơn hàng của khách hàng có xu hướng nhỏ lẻ, khi đó chi phí tiết kiệm được từ
việc kết hợp vận tải có thể minh chứng cho việc thảnh lập kho hàng.
Để minh hoạ, giả sử khối lượng vận chuyển trung bình của nhà sản xuất là 500 pounds và phí
vận tải áp dụng cho khách hàng là 7.28 / 100 pounds. Mỗi chuyến hàng từ nơi sản xuất vận chuyển
trực tiếp ra thị trường tốn chi phí vận tải là 36.40. Phí vận chuyển áp dụng cho những chuyến
hàng có khối lượng từ 20,000 pounds trở lên (phí số lượng) là 2.40/ 100pounds. Cuối cùng, phí
giao hàng trong thị trường nội địa là 1.35/ 100 pounds. Trong trường hợp này, sản phẩm vận
chuyển ra thị trường với phí số lượng và phí phân phối nội địa sẽ tốn chi phí là 3.75/100 pounds,
hay 18.75 / 500 pounds. Nếu như kho hàng được thành lập, tích trữ hàng tồn kho, và vận hành với
tổng chi phí thấp hơn 17.65/ 500 pounds (36.4- 18.75), hay 3.53/ 100 pounds. Khi đó tổng chi phí
11
Network Intergration
cho việc phân phối hàng hoá ra thị trường bằng việc sử dụng kho hàng sẽ được giảm. Như vậy
thành lập kho hàng sẽ tạo ra tiềm lực để giúp giảm tổng chi phí kho vận
Bảng số liệu 13.1 minh hoạ nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng kho hàng. Ta kí hiệu PL là
địa điểm sản xuất, WL là vị trí kho hàng trong khu vực thị trường xác định. Đoạn thẳng đứng tại
vị trí của PL , kí hiệu P
c
phản ánh chi phí giao hàng và làm hàng liên quan đến việc chuẩn bị
500pounds hàng hoá LTL (C) và 20,000 hàng hoá vận chuyển bằng xe tải (A). Đường thẳng dốc
lên AB phản ánh chi phí vận chuyển bằng xe tải từ xí nghiệp đến WL, giả sử đường thẳng này coi
như là tuyến tính với khoảng cách từ nơi sản xuất đến kho hành. Đường thẳng đứng ký hiệu WC
tại điểm WL tượng trưng cho chi phí vận hành kho hàng và duy trì, bảo trì hàng tồn kho. Đường
thẳng D phản ánh chi phí phân phối hàng từ nhà kho đến khách hàng trong khu vực thị trường từ
Ma đến Ma’. Đường dốc CD phản ánh chi phí LTL từ xí nghiệp đến khách hàng nằm trong khu
vực từ nhà máy đến vị trí Ma. Phần được tô đậm tượng trưng cho vị trí mà tại đó tổng chi phí cho

vận chuyển 500 pounds hàng hoá cho khách hàng bằng việc sử dụng kho hàng thấp hơn chi phí
vận chuyển trực tiếp từ xí nghiệp đến nơi sản xuất.
Nếu chỉ xét trong mối tương quan với chi phí, thì không có sự khác biệt giữa những khách
hàng hưởng dịch vụ từ xí nghiệp sản xuất tại điểm Ma và Ma’ hay được hưởng dịch vụ từ kho
hàng.
12
Network Intergration
Hình 13.1: Chứng minh tính kinh tế của kho hàng dựa trên chi phí vận tải
3.1.2 Tối thiểu hoá chi phí của hệ thống vận tải
Tổng quát, kho hàng sẽ được thêm vào hệ thống với điều kiện
Với
P
v
= Chi phí gia công khối lượng hàng hoá lớn
T
v
= Chi phí vận chuyển khối lượng hàng hoá lớn
W
x
= Chi phí lưu kho của khối lượng hàng hoá trung bình
13
Network Intergration
L
x
= Phí phân phối hàng hoá nội địa của khối lượng hàng hoá trung bình
N
x
= Số hàng hoá trung bình trên khối lượng hàng lớn
P
x

= Phí gia công khối lượng hàng hoá trung bình
T
x
= Phí vận chuyển trực tiếp của khối lượng háng hoá trung bình
Hạn chế duy nhất cho việc khái quát hoá công thức này chính là khối lượng hàng hoá hiệu quả
có thể bao hàm cả chi phí cố định của mỗi phương tiện kho hàng. Miễn là chi phí tổng hợp của
việc lưu kho và vận tải trong địa phương bằng hoặc thấp hơn chi phí tổng hợp của việc chuyển
hàng trực tiếp cho khách hàng thì khi đó việc thành lập và vận hành thêm kho hàng sẽ hiệu quả.
Mối liên hệ tổng quát của chi phí vận tải và số lượng kho hàng trong hệ thống được minh hoạ
trong bảng số liệu 13.2. Tổng chi phí vận tải ban đầu sẽ giảm khi ta tăng thêm số lượng kho hàng
trong hệ thống kho vận. Trong quá trình vận hành thực tế, vị trí tích hợp có thể là kho hàng hoặc
nơi tàu neo đậu để đóng gói hàng. Thực tế không cần thiết phải trữ hàng tồn kho trong kho hàng
để đạt được chi phí vận tải thấp nhất. Việc giảm chi phí vận tải là kết quả của việc tích hợp khối
lượng hàng vận chuyển tại địa điểm đóng gói hàng, với những chuyến hàng nhỏ cự ly ngắn đến
nơi cuối cùng. Chi phí vận tải trực tiếp những đơn hàng nhỏ từ nơi sản xuất đến khách hàng được
phản ánh tại điểm dốc lên phía bên trái của đường cong chi phí được minh hoạ tại hình 13.2 tại
điểm thấp hơn gần vị trí chính giữa của đường cong chi phí vận tải, sẽ xác định số lượng thiết bị
cần thiết để đạt được sự tích hợp hàng hoá vận tải tối đa. Chi phí vận tải được tối thiểu hoá tại
điểm tích hợp hàng hoá
14
Network Intergration
Hình 13.2: Chi phí vận tải là yếu tố xác định số lượng nhà kho.
Nếu tiếp tục mở rộng thiết bị vượt qua điểm tích hợp tối đa, tổng chi phí vận tải sẽ gia tăng, do
chi phí đầu vào tích hợp cho mỗi thiết bị sẽ tăng . Việc gia tăng tần số chi phí đầu vào mỗi chuyến
hàng nhỏ của dẫn đến việc làm tăng chi phí đầu vào tính trên 100 pound hàng hoá vận chuyển. Nói
15
Network locations
Total
Transpotation
cost

Network Intergration
cách khác, khi tần số chi phí đầu vào của hàng hoá vận chuyển nhỏ tăng thì tổng chi phí vận tải sẽ
tăng .
3.2. Tính kinh tế của hàng tồn kho
Mức độ tồn kho trong hệ thống Logistic chủ yếu dựa vào số lượng kho hàng. Người ta dựa vào
chu kì hoạt động để lên kế hoạch triển khai hàng tồn kho. Mặc dù phương tiện vận tải là một nhân
tố của chu kì hoạt động nhưng yếu tố quan trọng của tính kinh tế hàng tồn kho là thời gian. Việc
triển khai hiệu quả trước kế hoạch hàng tồn kho là cải thiện thời gian đáp ứng dịch vụ cho khách
hàng. Điều này lại làm tăng chi phi và rủi ro vì tăng số lượng nhà kho.
3.2.1. Chứng minh dựa trên nền tảng dịch vụ
- Hàng tồn kho liên quan đến hệ thống nhà kho bao gồm: tồn kho cơ sở, tồn kho trong quá
trình vận chuyển và tồn kho an toàn.
• Tồn kho cơ sở là lượng hàng tồn kho tối thiểu cần thiết để duy trì hoạt động sản
xuất cho toàn hệ thống.
• Tồn kho trong quá trình vận chuyển là hàng hóa đang trong quá trình vận
chuyển từ khu vực sản xuất đến khu vực dự trữ hoặc giữa các kho với nhau .
• Tồn kho an toàn là lượng tồn kho mà một công ty cần duy trì nhiều hơn so với
nhu cầu bình thường để đề phòng trong trường hợp nhà cung cấp giao hàng chậm trễ hoặc do
khách hàng thay đổi nhu cầu.
- Xét trong toàn hệ thống, hàng tồn kho trung bình được tính:
2
n
s
i
i j
Q
I SS IT
=
= + +



I
: Hàng tồn kho trung bình trong toàn hệ thống
n: Số vòng quay hoạt động
Q
s
: Số lượng đơn đặt hàng
SS
i
: Dự trữ an toàn
16
Network Intergration
IT: Hàng tồn kho trong quá trình vận chuyển
- Khi ta tăng số lượng nhà kho thì số vòng quay hoạt động sẽ tăng lên, và nó ảnh hưởng đến
lượng hàng tồn kho được yêu cầu cho toàn hệ thống.
• Đối với dự trữ cơ sở:
Dự trữ cơ sở không bị ảnh hưởng khi số lượng nhà kho tăng lên. Mức độ dự trữ cơ sở trong hệ
thống được xác định dựa vào quy mô sản xuất và phương tiện vận tải, hai yếu tố không bị thay đổi
khi có sự thay đổi của số lượng nhà kho cung ứng. Sự kết hợp của chi phí bảo quản và chi phí đặt
mua hàng, đã được điều chỉnh sẽ góp phần xem xét giá vận chuyển, giá chiết khấu mua hàng, xác
định EOQ (là số lượng hàng hóa tối thiểu cung cấp ra thị trường) bổ sung và tổng dự trữ cơ sở.
Trong trường hợp thu mua đúng lúc, dự trữ cơ sở, được xác định bằng số lượng đơn đặt hàng, sẽ
hỗ trợ hoạt động sản xuất và lắp ráp theo kế hoạch. Trong những trường hợp khác, dự trữ cơ sở
không phụ thuộc vào số lượng nhà kho cung ứng trong hệ thống.
• Dự trữ trong quá trình vận chuyển
Trong lúc vận chuyển, lượng hàng tồn kho chắc chắn sẽ đến tay khách hàng sẵn sàng để giao
cho khách hàng nhưng không phải giao bằng cách thông thường mà bằng cách sử dụng một giấy
xác nhận đã nhận đơn đặt hàng của khách hàng hoặc là dựa vào khả năng cầm cố hàng tồn kho
trong hệ thống quản lý đơn đặt hàng. Khi số vòng quay hoạt động được dự đoán đúng tăng lên thì
số lượng hàng tồn kho trong quá trình vận chuyển giảm xuống. Nguyên nhân là do tổng số ngày

vận chuyển trong hệ thống Logistics, và tính không chắc chắn giảm xuống. Để minh họa, giả sử
như chỉ có một sản phẩm duy nhất được bán ở thị trường A và thị trường B, hàng hóa cung cấp
cho hai thị trường đều lấy từ nhà kho X, như minh họa ở Hình 13. Giả sử như dự đoán doanh số
trung bình hàng ngày của thị trường A là 6 đơn vị, thị trường B là 7 đơn vị. Vòng quay hoạt động
ở A là 6 ngày, ở B là 10 ngày.
17

×