Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tìm hiểu nội dungcủa chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dựng phương thức này ở Bộ tưpháp trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.48 KB, 14 trang )

Mục lục
Trang
Lời mở đầu

2

Nội dung

2

I.

Chế độ khoán chi hành chính

2

1. Nguồn gốc của chế độ khoán chi hành chính

2

2. Khái niệm

3

3. Nội dung

4

4. Ưu, nhược điểm

6



II.

7

III.

Khả năng áp dụng của Bộ Tư Pháp
Giải pháp

9

Kết thúc vấn đề

13

Danh mục tài liệu tham khảo

14

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nội dung cải cách tài chính công thì đổi mới cơ chế quản lý tài chính
đối với các cơ quan Nhà nước là một trong những bước đột phá quan trọng bằng
việc thực hiện chế độ khoán chi hành chính nhằm tạo thế chủ động cho các cơ quan
hành chính nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Để hiểu rõ hơn về chế độ
khoán chi hành chính nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu nội dung
của chế độ khoán chi hành chính và khả năng áp dựng phương thức này ở Bộ tư

pháp trong giai đoạn hiện nay”

NỘI DUNG
I.

Chế độ khoán chi hành chính

1 )Nguồn gốc chế độ khoán chi hành chính
Có nhiều phương thức quản lý chi ngân sách Nhà nước nhưng phổ biến hiện
nay là phương thức quản lý ngân sách theo yếu tố đầu vào và phương thức quản lý
ngân sách theo kết quả đầu ra.
Phương thức quản lý ngân sách theo yếu tố đầu vào:
Những năm đầu thế kỷ XX, mô hình quản lý ngân sách ở các nước trên thế
giới chủ yếu sử dụng mô hình quản lý theo yếu tố đầu vào. Theo phương thức
này, mỗi cơ quan, đơn vị thuộc bộ máy Nhà nước hoặc thuộc khu vực Nhà nước
nói chung, muốn tồn tại và hoạt động để thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của
mình, cần phải có nguồn lực nhất định như con người, cơ sở vật chất, tài chính
ngân sách,… Các nguồn lực này được gọi là yếu tố đầu vào. Hoạt động quản lý chi
ngân sách Nhà nước được phân loại bởi hình thức tổ chức và theo các mục chi cụ
thể để kiểm soát nguồn lực, các mục chi được phân loại chi tiết, cơ quan trung
ương phân định các khoản chi cụ thể cho hoạt động của các cơ quan địa phương,
đồng thời các khoản chi được phân định chi tiêu rõ ràng theo những nguyên tắc
nhất định và thường không có sự chuyển đổi các khoản chi với nhau. Do đó,
phương thức quản lý ngân sách theo yếu tố đầu vào cứng nhắc, kém linh hoạt nên
dễ gây ra tình trạng sử dụng nguồn lực không hiệu quả, thụ động, việc phân chia
các mục chi đôi khi không đáp ứng được nhu cầu thực tế của các địa phương, gây
khó khăn trong hoạt động quản lý ngân sách.
Phương thức quản lý ngân sách theo yếu tố đầu ra
1



Đầu những năm 80, lý thuyết quản lý đầu ra đã được nghiên cứu và có tác động
mạnh mẽ đến việc quản lý tài chính công ở các nước phát triển, nội dung cơ bản
của lý thuyết này là chuyển từ việc quản lý chặt chẽ đầu vào sang việc cố định
những gì được cung cấp ở đầu vào, tăng chủ động, linh hoạt trong việc vận hành
của bản thân hệ thống và chủ yếu tập trung quản lý sản phẩm đầu ra của hệ thống.
Để hệ thống có thể hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được giao, Nhà nước phải
cung cấp đầu vào cho các cơ quan, đơn vị. Hoạt động của hệ thống sẽ tạo ra các
sản phẩm đầu ra- các dịch vụ công. Đồng thời, hệ thống này cũng cung cấp thông
tin phản hồi trực tiếp về các sản phẩm đầu ra, là căn cứ để đánh giá về các sản
phẩm đó để có những điều chỉnh thích hợp nhằm đạt được các mục tiêu. Tuy
nhiên, đầu ra là yếu tố cơ bản, trực tiếp tác động đến đối tượng được hưởng và
quyết định việc có đạt được mục tiêu hay không. Chính vì vậy, lý thuyết này đưa
ra khuyến nghị là Nhà nước nên chuyển từ quản lý ngân sách theo đầu vào sang
quản lý ngân sách theo đầu ra trên cơ sở ấn định đầu vào. Phương thức quản lý
ngân sách theo đầu ra hiện nay đã được áp dụng ở nhiều nước phát triển và một số
nước đang phát triển.

2)Khái niệm
a) Định nghĩa
Có nhiều khái niệm cũng như cách hiểu khác nhau về “Khoán chi”. Ở Việt
Nam, khoán chi được thực hiện trong giai đoạn 2000-2005 và có sự khác biệt với
các nước do chỉ thực hiện khoán chi đối với một số nội dung chi quản lý hành
chính Nhà nước . Do đó, có thể hiểu khoán chi ở Việt Nam là khoán chi đối với
một số nội dung chi quản lý hành chính Nhà nước trong một thời gian nhất định
(thường là một năm theo năm ngân sách) nhằm sử dụng nguồn lực ngân sách cho
hoạt động quản lý hành chính Nhà nước tiết kiệm, hiệu quả trên cơ sở hoàn thành
tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao. Phần kinh phí tiết kiệm được cơ quan
nhận khoán có thể được sử dụng vào các mục đích theo quy định mang tính chất
định hướng và có hướng dẫn phương thức phân chia, còn việc sử dụng cụ thể như

thế nào phải căn cứ vào quy chế phân phối do đơn vị sử dụng ngân sách xây dựng
trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc công khai, dân chủ.
Khoán chi hành chính thực chất là hoạt động chi ngân sách Nhà nước cho
các đơn vi hành chính theo phương thức giao khoán, cấp cho các đơn vi một khoản
kinh phí cụ thể và trao quyền chủ động sử dụng khoản kinh phí đó vào các mục
đích khác nhau phù hợp với các hoạt động của cơ quan đơn vị hành chính.

1


Chế độ khoán chi hành chính là tổng hợp các quy định của pháp luật về việc
cấp phát, sử dụng kinh phí từ nguồn ngân sách sách Nhà nước cho các đơn vị hành
chính.
b) Đặc điểm
Khoán chi ngân sách Nhà nước là một phương thức chi ngân sách Nhà nước
nhưng đồng thời cũng mang những đặc điểm riêng của phương thức khoán. Vì vậy
có thể thấy một số đặc điểm của khoán chi như sau:
Thứ nhất, thông qua hoạt động khoán chi mà Nhà nước có thể phân phối
nguồn lực quốc gia hiệu quả nhằm đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra mà các
cơ quan Nhà nước cần đảm nhận thực hiện trong một thời kỳ nhất định.
Thứ hai, hoạt động khoán chi ngân sách Nhà nước thực hiện theo hướng trao
quyền hạn và trách nhiệm nhiều hơn cho cơ quan Nhà nước các cấp. Vì vậy để sử
dụng ngân sách hiệu quả, các cơ quan Nhà nước cần có sự phân tích, tính toán cẩn
thận trên nhiều khía cạnh trước khi đưa ra các quyết định chi tiêu, tránh lãng phí
không cần thiết, nâng cao hiệu quả chi tiêu ngân sách Nhà nước.
Thứ ba, nội dung, cơ cấu và mức độ khoán chi gắn liền với cơ cấu tổ chức
bộ máy Nhà nước trong việc cung ứng hàng hóa công cộng. Việc tổ chức bộ máy
hành chính Nhà nước tinh giản, gọn nhẹ, linh hoạt cũng giúp thực hiện tốt các chức
năng, nhiệm vụ, đồng thời giúp cho việc sử dụng ngân sách hiệu quả và tiết kiệm,
nâng cao năng suất làm việc của cán bộ công nhân viên.


3) Nội dung
a. Theo Nghị định 43/2006:
Đối tượng: Nghị định quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công
lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định.
Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự toán
độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của
Luật Kế toán.
Đối với Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam, các đơn vị sự
nghiệp có quy trình hoạt động đặc thù và các đơn vị sự nghiệp trực thuộc: Bộ Quốc
phòng, Bộ Công an, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được áp dụng theo
quy định tại Nghị định này.

1


Các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện theo quy định tại Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính: chia các đơn vị sự nghiệp công lập
thành 3 nhóm, với các mức độ tự chủ khác nhau: đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo chi
phí hoạt động; đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động và đơn vị
sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động.
Tự chủ thu: các đơn vị sự nghiệp được tự chủ về các khoản thu và mức thu,
trường hợp quy định khung mức thu thì đơn vị căn cứ vào nhu cầu chi phục vụ
hoạt động, khả năng đóng góp của xã hội để quyết định mức thu cụ thể.
Tự chủ chi: tự chủ về sử dụng nguồn tài chính, căn cứ vào nhiệm vụ được giao
và khả năng nguồn tài chính để quyết định một số mức chi quản lí, chi hoạt động
nghiệp vụ, quyết định phương thức khoán chi, đầu tư xây dựng, mua sắm mới và

sửa chữa tài sản.
Sử dụng khoản tiết kiệm: kinh phí tiết kiệm được từ khoản chênh lệch thu lớn
hơn chi được dùng để chi trả thu nhập tăng thêm cho người lao động, chi khen
thưởng cho tập thể cá nhân trong và ngoài đơn vị, chi phúc lợi trợ cấp khó khăn
đột xuất cho người lao động, chi tăng cường cơ sở vật chất của đơn vị, hoặc có thể
lập quỹ dự phòng ổn định thu nhập.
b. Theo Nghị định 130/2005:
Đối tượng: Nghị định quy định chế độ tự chủ tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí quản lí hành chính đối với các cơ quan nhà nước có tài khoản
và con dấu riêng.
Tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính : Khi sử dụng nguồn kinh phí mà
được sử dụng theo chế độ tự chủ, Căn cứ vào tình hình thực hiện nhiệm vụ được
giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự quyết định bố trí số kinh phí
được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều chỉnh giữa các mục chi
nếu xét thấy cần thiết. Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng các chế độ
chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt quá mức chi tối
đa do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Khi có phát sinh các yếu tố làm thay đổi mức kinh phí đã giao, cơ quan thực
hiện chế độ tự chủ có văn bản đề nghị bổ sung, điều chỉnh dự toán kinh phí, giải
trình chi tiết các yếu tố làm tăng, giảm dự toán kinh phí gửi cơ quan quản lý cấp trên
1


trực tiếp. Cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp (trường hợp không phải là đơn vị dự
toán cấp I) xem xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị
dự toán cấp I. Cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương (đơn vị dự toán cấp I)
xem xét dự toán do các đơn vị trực thuộc lập, tổng hợp và lập dự toán chi ngân sách
thuộc phạm vi quản lý gửi cơ quan tài chính cùng cấp để trình cấp có thẩm quyền
quyết định.
Các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ phải có trách nhiệm trong hoạt động của

mình, trong đó Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các quyết định của mình trong việc quản lý, sử dụng biên chế và kinh
phí quản lý hành chính được giao. Các cơ quan quản lý cấp trên, cụ thể là Bộ tài
chính, Bộ nội vụ có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với nhau để hướng dẫn thực hiện
cho các đơn vị tự chủ, thường xuyên tổ chức chỉ đạo, kiểm tra giám sát việc thực
hiện chế độ tự chủ tại các đơn vị, quy định cụ thể tại Điều 12, 13 Nghị định này.
Ngoài ra các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ,
chủ tịch uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương cũng có trách
nhiệm liên quan đến việc thực hiện tự chủ của các đơn vị (quy định cụ thể tại Điều
11 Nghị định này) thường xuyên chỉ đạo hướng dẫn cho các đơn vị thực hiện chế
độ, ban hành các tiêu chí đánh giá cho các đơn vị, tổ chức kiểm tra giám sát việc
thực hiện, hàng năm có tổ chức báo cáo đánh giá việc thực hiện của các đơn vị, đánh
giá kiến nghị đề xuất tháo gỡ các khó khăn trong việc thực hiện.
Sử dụng khoản tiết kiệm: Kinh phí quản lí hành chính tiết kiệm được sẽ dùng
để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ quyết
định phương án chi trả thu nhập tăng thêm cho từng cán bô, công chức gắn với
hiệu quả, kết quả công việc của từng người; chi khen thưởng và phúc lợi; ngoài ra
còn trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức; cũng có thể
chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng.
4) Ưu, nhược điểm của chế độ khoán chi hành chính
a. Ưu điểm
+ Tạo ra tính chủ động, sáng tạo trong việc sử dụng ngân sách ở các cấp địa
phương : Giảm gánh nặng cho ngân sách trung ương. Điều tiết vấn đề chi tiêu, các
cơ quan sẽ phải tự sắp xếp nguồn nhân lực sao cho hợp lí. Tạo ra tính năng động
trong việc tìm kiếm nguồn thu đảm bảo cho quỹ tiền của cơ quan, chủ động đi tìm
kiếm những khoản thu sao cho một phần nào đó có thể đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
địa phương mình. đơn vị đó.

1



+ Tinh giản bộ máy để nâng cao chất lượng công tác chuyên môn, hiệu quả công
việc: Thông qua đó để phát huy tiềm năng về cơ sở vật chất, lao động sáng tạo của
mỗi cán bộ, công chức, viên chức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, giảm những
khoản chi không cần thiết, tăng thu nhập chính đáng cho cán bộ, công chức, viên
chức.
+ Xóa bỏ sự bình quân chủ nghĩa, thiên vị trong quá trình phân bổ ngân sách.
Các cơ quan được giao quyền tự chủ trong công tác điều hành tổ chức công việc,
tự chủ trong việc sử dụng ngân sách nhà nước dành cho đơn vị mình, đồng thời tự chịu
trách nhiệm đối với các quyết định chi tiêu của mình. Thực hiện khoán chi hành chính
còn có tác dụng sắp xếp lại cơ cấu tổ chức theo hướng tinh gọn, đa ngành, đa lĩnh vực
gắn với cải cách thủ tục hành chính, do đó, không chỉ tinh giản biên chế mà còn nâng
cao chất lượng và hiệu quả công việc.
b. Hạn chế:
Thứ nhất: Nếu trong các đơn vị không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn thu từ
ngân sách nhà nước cấp hoặc nguồn các thu đó không đủ, thì vấn đề đặt ra các đơn vị
đành phải tự chủ. Vậy tự chủ phải được thực hiện như thế nào cho hợp lý, vấn đề này
gây khó khăn cho các đơn vị, có thể dẫn đến chi trả không đủ gây nhiều khó khăn.
Thứ hai: Nếu trong các đơn vị người đứng đầu kém sáng tạo, thì khoán chi cho rồi
mà lại không phân bổ đúng, phân bổ vào những khoản không cần thiết, không hợp lý
thì cũng dẫn đến tình trạng ngân sách chi trả trong đơn vị thiếu thốn, lãng phí.

II. Khả năng áp dụng của Bộ Tư Pháp
Trong quá trình thực hiện tự chủ tài chính thì Bộ tư pháp phải tuân theo các
nguyên tắc nhất định. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 Nghị định 130
như sau:
“1. Bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
2. Không tăng biên chế và kinh phí quản lý hành chính được giao, trừ trường hợp
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 9 của Nghị định này.
3. Thực hiện công khai, dân chủ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của cán bộ, công

chức.”
Bộ Tư pháp thể hiện rõ việc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của mình diễn ra trên
tất cả các mặt liên quan đến hoạt độn, biên chế, sử dụng các nguồn kinh phí từ các
nguồn, cũng như trong các khoản chi tiêu của Bộ…

1


Thứ nhất : Về biên chế : Theo Điều 4 Nghị đinh 130 thì việc sắp xếp điều
động cán bộ, công chức của Bộ tư pháp là chính do Bộ tự điều chỉnh phù hợp với
cơ cấu của Bộ. Để đảm bảo cho hoạt động của Bộ được hoạt động bình thường, và
khoa học thì trong Bộ cũng có những hợp đồng thuê khoán công việc và hợp đồng
lao động với một số chức danh theo quy định của pháp luật nhưng cũng phải trong
phạm vi nguồn kinh phí quản lí hành chính được giao.
Thứ hai : Nguồn kinh phí được giao cho Bộ : Theo Điều 5 Nghị định 130 và
căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, Bộ tư pháp được
quyết định một số mức chi cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nàh nước có
thẩm quyền quy định. Căn cứ vào tính chất công việc, Bộ trưởng bộ tư pháp được
quyết định phương thức khoán chi phí cho từng bộ phận, tổ chức trực thuộc. quyết
định đầu tư mua sắm mới, và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp
luật.
Nội dung chi của những khoản kinh phí được giao chi vào những nội dung
sau:
+ Quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức
chi tiêu áp dụng thống nhất trong đơn vị, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị,
duy trì hoạt động thường xuyên và tăng cường hiệu quả của công tác quản lí trên
nguyên tắc công bằng, công khai, dân chủ.
+ Ngoài các tiêu chuẩn, định mức và nội dung chi đối với nguồn kinh phí từ ngân
sách nhà nước, Bộ tư pháp được xây dựng định mức chi cao hơn mức quy định của
Nhà nước cho từng nội dung hoạt động trong phạm vi nguồn thu từ các hoạt động

của Bộ.
Khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu, ngạch, bậc lương và các khoản
trích theo lương, Bộ tư pháp phải sử dụng các nguồn kinh phí của đơn vị để trả
lương và các khoản trích theo lương cho cán bộ, công chức và người lao động của
đơn vị theo chính sách của Nhà nước. Nếu như chi vào các khoản này mà còn thiếu
nguồn kinh phí thì ngân sách nhà nước cấp bổ sung phần kinh phí còn thiếu.
Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép chi trên đây, cơ quan thực hiện chế
độ tự chủ quyết định phương án chi trả thu nhập tăng thêm cho từng cán bộ, công
chức (hoặc cho từng bộ phận trực thuộc) theo nguyên tắc phải gắn với hiệu quả,
kết quả công việc của từng người (hoặc của từng bộ phận trực thuộc);
Khi xét thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định, cơ quan thực hiện chế
độ tự chủ có thể trích lập quỹ dự phòng để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức.
Số kinh phí tiết kiệm được, cuối năm chưa sử dụng hết được chuyển sang năm sau
tiếp tục sử dụng.
Bộ trưởng bộ tư pháp thực hiện chế độ tự chủ quyết định phương án sử dụng
kinh phí tiết kiệm nêu trên sau khi thống nhất ý kiến bằng văn bản với tổ chức
1


Công đoàn cơ quan. Kết thúc năm ngân sách, sau khi đã hoàn thành các nhiệm vụ
được giao, bộ Tư pháp thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực tế thấp hơn dự toán
kinh phí quản lý hành chính được giao để thực hiện chế độ tự chủ thì phần chênh
lệch này được xác định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được.
Qua đây ta thấy đối với bất cứ khoản chi nào thì Bộ tư pháp cũng phải đảm bảo
tính công khai, minh bạch, đúng mục đích và dân chủ. Mức độ tự chủ của Bộ phụ
thuộc vào nội dung chi, tùy thuộc vào từng khoản chi mà Bộ tư pháp tự chủ được
đến đâu.

III. Giải pháp
a. Các giải pháp chung

Thứ nhất, hoàn thiện khuôn khổ và cơ chế phân cấp ngân sách
Các cấp chính quyền trong bộ máy hành chính đều có trách nhiệm và quyền
hạn có ý nghĩa quyết định trong quản lý tài chính công ở phạm vi quản lý của
mình. Theo đó, việc phân cấp quản lý hành chính phải tương ứng với sự phân cấp
quản lý ngân sách Nhà nước để đảm bảo nâng cao được sự tự chủ, tự chịu trách
nhiệm ở mỗi cấp. Để việc quản lý ngân sách và các nguồn lực khác của quốc gia
một cách hiệu quả, thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cũng như ở nước ta thời
gian qua cho thấy cần phải có các cơ chế để tăng cường phân cấp, nâng cao tính tự
chủ và tự chịu trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan đơn vị trong việc sử
dụng nguồn lực được giao. Tuy nhiên, việc phân cấp cần phải được thực hiện phù
hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn; thực hiện phân cấp cần
gắn với cơ chế giám sát hiệu quả.
Thứ hai, thực hiện đổi mới hoạt động lập và phân bổ dự toán ngân sách
Nhà nước
Phương pháp và cách thức quản lý chi tiêu ngân sách Nhà nước là một trong
những nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả và chất lượng quản lý hành
chính Nhà nước. Phân tích ở phần trên đã chỉ ra nhiều tồn tại trong công tác phân
bổ dự toán ngân sách cho các hoạt động hành chính. Tuy cơ chế tự chủ tài chính
bước đầu đã được triển khai áp dụng song hệ thống định mức, tiêu chuẩn hiện hành
chưa gắn kết được giữa số lượng nguồn lực cần phân bổ với các kết quả đầu ra dự
kiến đạt được. Theo đó, cần nghiên cứu xây dựng cơ chế mới về phương thức lập
dự toán và phân bổ dự toán ngân sách, từng bước chuyển từ việc lập dự toán ngân
sách và phân bổ dự toán ngân sách cho các cơ quan, đơn vị theo yếu tố đầu vào
sang lập dự toán và phân bổ dự toán ngân sách gắn với kết quả và hiệu quả công

1


việc trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh phân cấp và trao quyền tự chủ cho người đứng
đầu các cơ quan, đơn vị cùng với việc hình thành các cơ chế giám sát phù hợp. Tuy

nhiên, việc chuyển sang thực hiện theo phương pháp này cần phải được thực hiện
theo lộ trình từng bước, phù hợp với tình hình thực tế và năng lực của các cơ quan
Nhà nước.
Đồng thời hoàn thiện hệ thống định mức làm căn cứ cho việc phân bổ và lập
dự toán. Căn cứ xây dựng dự toán và phân bổ ngân sách của các cơ quan Nhà nước
cần được xác định trên cơ sở các nhiệm vụ của năm kế hoạch, số thực hiện của các
năm trước liền kề... Hiện nay, căn cứ phân bổ dự toán của Nhà nước chủ yếu theo
biên chế, trong khi đó đối với các cơ quan nhà nước vẫn chưa có một căn cứ xác
đáng để quy định tỉ lệ giữa khối lượng công việc chuyên môn của mỗi cơ quan so
với số lượng biên chế. Trên cơ sở thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với cơ quan
nhà nước trong giai đoạn vừa qua cần đánh giá, tổng kết định mức phân bổ ngân
sách và chi tiêu ngân sách ở từng cơ quan trên cơ sở mức ngân sách tự chủ để hình
thành hệ thống định mức phân bổ và lập dự toán ngân sách nhà nước.
Thứ ba, nghiên cứu áp dụng phương thức lập dự toán ngân sách theo
khuôn khổ tài khoá trung hạn và kế hoạch chi tiêu trung hạn
Việc lập ngân sách theo khuôn khổ trung hạn sẽ tạo điều kiện cho các cơ
quan đơn vị có được các thông tin sơ bộ về các nguồn lực tài chính của cơ quan
đơn vị mình trong một giai đoạn nhiều năm. Lợi ích của phương pháp này là cho
phép người đứng đầu các cơ quan đơn vị trong việc đưa ra các quyết định chi tiêu
của mình theo một trình tự ưu tiên gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Thực hiện theo cách này sẽ tạo điều kiện mở rộng diện áp dụng cơ chế tự chủ tài
chính trong các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước, ví dụ như vấn đề mua sắm
tài sản cố định.
Thứ tư, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong quản lý tài
chính các cơ quan đơn vị hành chính
Công khai thông tin và minh bạch tài chính đóng vai trò quan trọng để đảm
bảo bền vững tài chính. Thực hiện công khai minh bạch trong quản lý sẽ tạo điều
kiện cho cộng đồng có thể giám sát, kiểm soát các quyết định về thu, chi tài chính,
hạn chế những thất thoát và bảo đảm tính hiệu quả. Minh bạch tài chính sẽ góp
phần nâng cao trách nhiệm giải trình của những cơ quan đơn vị thụ hưởng ngân

sách. Nâng cao minh bạch tài chính sẽ tạo điều kiện cho công tác giám sát của các
cơ quan Chính phủ, các tổ chức xã hội và cộng đồng nhân dân về việc phân bổ và
chi tiêu các nguồn lực công của quốc gia và chính quyền địa phương. Do đó, minh
bạch tài chính không chỉ giúp củng cố bền vững tài chính mà còn góp phần nâng
cao hiệu quả quản lý tài chính công, hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính quốc
1


gia. Để hỗ trợ công tác minh bạch tài chính cần hoàn thiện các mẫu biểu và cơ chế
thực hiện hệ thống báo cáo tài khóa theo các tiêu chí thống nhất.
Thứ năm, tăng cường giám sát, nâng cao hiệu quả của công tác thanh
tra, kiểm tra
Để đảm bảo việc sử dụng nguồn lực ngân sách được hiệu quả, cần phải tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, thúc đẩy trách nhiệm giải trình. Việc
thực hiện tốt các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán sẽ bảo đảm cho
sự hoạt động có hiệu quả và công bằng của các tổ chức Nhà nước. Bên cạnh đó,
cần hình thành khuôn khổ pháp lý phù hợp để nâng cao trách nhiệm giải trình. Ở
Việt Nam hiện nay trách nhiệm giải trình dự toán, thực hiện phân bổ và quyết toán
ngân sách chỉ tập trung vào cơ quan tổng hợp các cấp (chủ yếu là cơ quan tài
chính, kế hoạch), chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm giải trình của các bộ, các
cơ quan, đơn vị và địa phương được giao dự toán, theo đó chưa đề cao được trách
nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc quản lý sử dụng nguồn lực
ngân sách Nhà nước. Do đó, cần có quy định về trách nhiệm giải trình của các Bộ,
các cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương trong việc lập, phân bổ và thực
hiện dự toán ngân sách. Người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải có trách nhiệm
giải trình đối với việc sử dụng nguồn lực ở cơ quan mình.

b. Một số giải pháp cụ thể
Một là, xác định rõ và mở rộng nội dung chi thực hiện cõ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về kinh phí quản lý hành chính

Xuất phát từ những bất cập trong việc phân định chưa rõ ràng kinh phí quản
lý hành chính thực hiện cơ chế tự chủ và kinh phí quản lý hành chính không thực
hiện tự chủ, cùng với giới hạn về nội dung chi kinh phí thực hiện cơ chế tự chủ đã
dẫn tới những khó khăn trong thực hiện và quản lý kinh phí của đơn vị thực hiện
cơ chế tự chủ. Do đó, cần xác định rõ và mở rộng nội dung chi thực hiện cơ chế tự
chủ.
Hai là, đổi mới các căn cứ xác định kinh phí để giao thực hiện chế độ tự
chủ
Căn cứ để xác định mức kinh phí thực hiện cơ chế tự chủ cần dựa vào quy
mô, số lượng và chất lượng từng loại dịch vụ công mà đơn vị thực hiện cơ chế tự
chủ cung cấp trong một thời gian nhất định chứ không chỉ dựa vào biên chế và
định mức phân bổ ngân sách. Số lượng biên chế của đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ
được tính toán và xác định một cách khoa học, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ

1


của đơn vị, yêu cầu về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ công mà đơn vị
phải đảm nhận để từ đó xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng cán bộ phù hợp.
Ba là, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quản lý tài chính
đối với thủ trưởng đơn vị
Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan Nhà nước là thực hiện
quyền tự chủ đồng thời gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên thực
tế thực hiện ở Việt Nam vẫn không đem lại kết quả như kỳ vọng. Các nguyên nhân
có thể chỉ ra là: việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan vẫn phải căn cứ
chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
ban hành và không được vượt quá chế độ, định mức, tiêu chuẩn do cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền ban hành. Trong sử dụng, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ
được vận dụng các chế độ chi tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng lại bị

khống chế không được vượt quá mức chi tối đa do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền quy định. Nguồn kinh phí tiết kiệm được khi bổ sung thu nhập cho cán bộ
còn bị khống chế ở mức hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần so
với mức tiền lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định. Với các rang buộc
này, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn
khá bị động trong công tác tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của cơ quan
Nhà nước.
Bốn là, thiết lập cơ chế đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ là quá trình xác định xem đơn vị/người
lao động thực hiện công việc, nhiệm vụ của mình như thế nào so với các tiêu chuẩn
thực hiện và thông đạt những thông tin đó tới đơn vị/người lao động. Trong việc
thực hiện cơ chế tự chủ, cơ quan chủ quản cấp trên phải ban hành các tiêu chí cơ
bản để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc
khi thực hiện chế độ tự chủ, trong đó phải có các tiêu chí đánh giá về khối lượng,
chất lượng công việc cần thực hiện, thời gian và các quy định về tài chính. Tuy
nhiên, đến nay hầu như các cơ quan chủ quản đều chưa ban hành được tiêu chí cơ
bản, nên chưa có căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan
trực thuộc. Theo đó, giải pháp đặt ra trong thời gian tới là Nhà nước cần ban hành
các tiêu chí khung về đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ kèm với đó là bảng
chấm điểm để các cơ quan quản lý có cơ sở ban hành các tiêu chí đánh giá kết quả
thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc.
Năm là, xây dựng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động

1


Để xây dựng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động đòi hỏi phải có các tiêu
chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công và các tiêu chí này phải
phản ánh được các yếu tố mục tiêu, đầu vào, quá trình đầu ra và kết quả đầu ra
được lượng hóa. Do đó phải bao gồm tiêu chí về mục tiêu hoạt động của cơ quan

nhà nước, tiêu chí phản ánh các yếu tố cấu thành đầu vào của cơ quan hành chính
(hạ tầng cơ sở, nhân sự hành chính, yêu cầu của khách hàng,..), tiêu chí về giải
quyết công việc cho người dân (như vấn đề dân chủ và công bằng trong tiếp cận
thông tin, sự cư xử thân thiện, thời gian giải quyết công việc,…), tiêu chí phản ánh
đầu ra của dịch vụ hành chính (kết quả trả cho người dân có kịp thời không,
khoảng thời gian giải quyết công việc, các văn bản giấy tờ giải quyết công việc cho
người dân có chính xác không,…), tiêu chí đánh giá kết quả của đầu ra (có đạt
được mục tiêu của quản lý không, kết quả dịch vụ có tác dụng gì đối với người
dân,..)
Sáu là, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình
Thực hiện đổi mới các cơ chế liên quan để tăng quyền hạn và trách nhiệm
trong công tác quản lý ngân sách ở các cấp, các đơn vị sử dụng NSNN, đi đôi với
việc tăng cường kiểm tra, kiểm soát thực hiện, hoàn chỉnh hệ thống báo cáo, các
chỉ tiêu đánh giá về kết quả thực hiện công việc. Có cơ chế để nâng cao tính minh
bạch, trách nhiệm giải trình trong công tác quản lý ngân sách Nhà nước, từng bước
xoá bỏ cơ chế cơ quan tài chính phải giải trình thay các cơ quan khác trong việc sử
dụng nguồn lực ngân sách. Các cơ quan, đơn vị phải có trách nhiệm giải trình với
Quốc hội, với người dân đối với các quyết định chi tiêu ngân sách của mình, đảm
bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ đặt ra trên cơ sở quy mô nguồn lực được phân bổ

KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính công nói chung, cơ chế quản
lý tài chính của các cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương trong hơn một
thập kỷ qua đã có nhiều bước thay đổi quan trọng. Khởi đầu bởi cơ chế khoán chi
hành chính thực hiện thí điểm ở thành phố Hồ Chí Minh những năm 1999-2000,
sau đó được mở rộng thí điểm ở nhiều bộ, ngành trung ương và địa phương khác
và đến năm 2005 khái niệm “khoán chi” hành chính đã được thay thế bởi “cơ chế
tự chủ” tài chính có phạm vi bao quát hơn.

1



Danh mục tài liệu tham khảo:
1.
Bộ giáo dục và đào tạo, bộ tư pháp, trường đại học luật hà nội, Đoàn thị Hải
Yến, chế độ pháp lí về tự chủ tài chính của tổ chức khoa học- công nghệ công lập
và các biện pháp bảo đảm thực hiện., luận văn thạc sỹ luật học, hà nội 2007;
2.
Nghị định 130/2005/NĐ-CP quy định chế độ tự chủ , tự chịu trách nhiệm về
sử dụng biên chế và kinh phí quản lí hành chính đối với các cơ quan nhà nước;
3.
Dự án “Tăng cường năng lực quyết định và giám sát ngân sách của các cơ
quan dân cử Việt Nam” – Bộ Tài Chính, Ngân sách của Quốc hội.
4. Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập.

1



×