Tải bản đầy đủ (.pdf) (183 trang)

Phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 183 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH TUYT

PHụ Nữ LãNH ĐạO, QUảN Lý TRONG
Hệ THốNG CHíNH TRị ở VùNG ĐồNG BằNG SÔNG HồNG
THờI Kỳ ĐổI MớI

LUN N TIN S TRIT HC

H NI - 2015


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

NGUYN TH TUYT

PHụ Nữ LãNH ĐạO, QUảN Lý TRONG
Hệ THốNG CHíNH TRị ở VùNG ĐồNG BằNG SÔNG HồNG
THờI Kỳ ĐổI MớI

LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA X HI KHOA HC
Mó s: 62 22 85 01

NGI HNG DN KHOA HC:
PGS. TS. TH THCH

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Thị Tuyết


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Ch

ng 1: T NG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN C U LIÊN QUAN

1
N

TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu và những nội dung mới
luận án thực hiện

6
6

35

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ PHỤ NỮ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI

2.1. Một số vấn đề cơ bản về lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
2.2. Cơ sở lý luận về phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở vùng
đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới
2.3. Cơ sở thực tiễn về phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở
vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới
LÃNH
O, QU N LÝ TRONG H
TH NG CHÍNH TRỊ Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY

39
39
49
60

Chương 3: TH C TR NG PH N

3.1. Thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị ở vùng đồng
bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới
3.2. Nguyên nhân thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị
ở vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ đổi mới
3.3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay đối với phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ
thống chính trị ở vùng đồng bằng sông Hồng


76
76
92
103

Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHỤ NỮ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

4.1. Một số quan điểm cơ bản
4.2. Một số nhóm giải pháp chủ yếu
4.3. Một số kiến nghị

113
113
120
143

KẾT LUẬN

149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


PHỤ LỤC

165


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BCH

: Ban Chấp hành

BTV

: Ban Thường vụ

ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT:

: Hệ thống chính trị


LHPN

: Liên hiệp Phụ nữ

UBND

: Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN

Trang
Bảng 2.1: Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống cấp ủy Đảng

61

Bảng 2.2: Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong Quốc hội qua các nhiệm
kỳ gần đây

62

Bảng 2.3: Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong Hội đồng nhân dân các
cấp các nhiệm kỳ gần đây
Bảng 2.4: Tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý đoàn thể cấp tỉnh, huyện, xã

63
64

Bảng 3.1: So sánh tỷ lệ nữ ủy viên BCH Đảng bộ các cấp: tỉnh, huyện,

xã vùng đồng bằng sông Hồng nhiệm kỳ 2010-2015

81

Bảng 3.2: So sánh tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vùng
đồng bằng sông Hồng, nhiệm kỳ 2010-2015

86


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Các nhà tương lai học khi dự báo xu hướng phát triển của nhân loại ở thế
kỷ XXI đã nhận định rằng, yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển
chính là lao động trí tuệ, nguồn lực con người, trong đó có lao động nữ. Việc
giải phóng, phát huy tiềm năng của phụ nữ là đòi hỏi khách quan và bức thiết
của sự phát triển xã hội. Sự bình đẳng và tiến bộ về giới trong lãnh đạo chính
trị sẽ tạo điều kiện khai thác và phát huy một cách có hiệu quả lao động nữ, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Chiếm khoảng 50,54% dân số và 50,6% lực lượng lao động xã hội [11,
tr.61], phụ nữ Việt Nam không ngừng phát huy vai trò và khả năng, sức sáng tạo
của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, góp phần tích cực vào
sự phát triển chung của đất nước. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, trong những năm đổi mới vừa qua
vị thế của phụ nữ ngày càng được nâng cao, nhất là trong lĩnh vực lãnh đạo,
quản lý; số lượng nữ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị (HTCT)
ở Việt Nam ngày càng có xu hướng gia tăng. Tuy nhiên, so với tiềm năng của
phụ nữ và với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phụ nữ lãnh đạo, quản lý các cấp

trong HTCT còn ít về số lượng, hạn chế về chất lượng trong tương quan so sánh
với nam giới. Phụ nữ đảm nhiệm chức vụ “cấp phó” hay tham gia ở “lĩnh vực xã
hội” trong công tác lãnh đạo, quản lý đang trở thành phổ biến, có tính chất như
hiệu ứng xã hội từ cấp vi mô đến cấp vĩ mô.
Những hạn chế trên, ngoài nguyên nhân do sự chỉ đạo và thực hiện chính
sách chưa hiệu quả của các cấp, các ngành về công tác cán bộ nữ, còn do định
kiến giới, thiếu tin tưởng vào năng lực lãnh đạo, quản lý của phụ nữ. Sự tự ti,
an phận cùng với gánh nặng công việc gia đình mà người phụ nữ phải đảm
nhận càng làm trầm trọng thêm khoảng cách giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản
lý ở nước ta hiện nay.


2
Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) là địa bàn có quá trình phát triển lâu đời
về văn hóa và truyền thống cách mạng, có sự phát triển khá cao về kinh tế - xã
hội; đặc biệt, trình độ dân trí luôn đạt mức cao so với các vùng khác trong toàn
quốc. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT ở vùng ĐBSH chỉ
đạt 23,3% trong khi đó vùng Trung du và miền núi phía Bắc là 26,6%; vùng
Tây nguyên là 24,2%; vùng Đông Nam Bộ là 27,5% [Phụ lục 1].
Phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong các khối, các cấp của HTCT tuy có tăng
dần so với trước, nhưng mức tăng, giảm qua các nhiệm kỳ luôn có sự biến
động, thậm chí ở một số tỉnh trong vùng có sự sụt giảm rõ nét. Không chỉ thấp
về số lượng mà các vị trí lãnh đạo, quản lý của phụ nữ chủ yếu trong các tổ
chức chính trị - xã hội, khối đoàn thể và đa số là vị trí cấp phó. Ở vị trí càng
cao, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý càng thấp, nhất là ở các vị trí ra quyết định.
Rất ít phụ nữ tham gia những vị trí chủ chốt cấp tỉnh, huyện, thành phố, trong
khi đó, ở nhiều vùng khác trong cả nước, sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí
chủ chốt có xu hướng gia tăng.
Nguyên nhân của nghịch lý nêu trên xuất phát từ nhiều yếu tố, nhưng
theo tác giả luận án, định kiến giới vẫn là chủ yếu. Định kiến giới dường như

đã áp đặt những giá trị và vai trò khác nhau giữa nam và nữ theo hệ thống
chuẩn mực truyền thống, theo khuôn mẫu xã hội là rào cản khiến cho phụ nữ
phải đối mặt với nhiều thách thức khi nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý. Mặc
dù đây cũng là nguyên nhân chung về tình trạng bất bình đẳng giới trên cả
nước hiện nay, nhưng đối với ĐBSH, định kiến giới dường như có phần nặng
nề hơn; tính “thâm căn, cố đế” của nó sâu sắc hơn; sự biến đổi của nó chậm
chạp hơn rất nhiều so với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của vùng nói riêng
và trình độ nhận thức về bình đẳng giới của cả nước nói chung.
Đây là vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận lẫn trong hoạt động thực
tiễn mà cho đến nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện.
Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn vấn đề: “Phụ nữ lãnh đạ o, quả n lý trong hệ
thố ng chính trị ở vùng đồ ng bằ ng sông Hồ ng thờ i kỳ đổ i mớ i” làm đề tài luận


3
án tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, với mong muốn
góp phần làm rõ hơn thực trạng, nguyên nhân của vấn đề và từ đó đề xuất các
giải pháp khắc phục.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mụ c đích nghiên cứ u
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phụ nữ lãnh đạo, quản lý
trong HTCT, phân tích làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra, luận án đề
xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường số lượng, chất lượng phụ
nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT ở vùng ĐBSH hiện nay.
2.2. Nhiệ m vụ nghiên cứ u
Một là, khái quát cơ sở lý luận và thực tiễn về phụ nữ lãnh đạo, quản lý
trong HTCT;
Hai là, phân tích làm rõ thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT
ở vùng ĐBSH và những vấn đề đặt ra hiện nay;
Ba là, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường phụ nữ lãnh

đạo, quản lý trong HTCT ở vùng ĐBSH hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đố i tư ợ ng nghiên cứ u
Luận án nghiên cứu về số lượng, chất lượng, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản
lý trong HTCT ở ba khối cơ quan: Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội; các cấp tỉnh/thành phố, quận/huyện/thị xã và
xã/phường/thị trấn. Trong đó, luận án tập trung nghiên cứu về số lượng, tỷ lệ
phụ nữ lãnh đạo, quản lý khối cơ quan Đảng và Chính quyền vùng đồng bằng
sông Hồng hiện nay.
3.2. Phạ m vi nghiên cứ u
Về không gian: ĐBSH (gồm 11 tỉnh, thành phố); trong đó luận án chú
trọng phân tích một số tỉnh/thành phố có tính đại diện: Thành phố Hà Nội (đại
diện cho trung tâm); Hải Phòng, Vĩnh Phúc (đại diện cho các tỉnh phía Đông
Bắc); Nam Định, Hà Nam (đại diện cho các tỉnh phía Nam).


4
Về thời gian: Luận án nghiên cứu phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT
ở vùng ĐBSH thời kỳ đổi mới, trong đó chủ yếu tập trung khảo sát: cấp tỉnh
nhiệm kỳ 2011 - 2016; cấp huyện, xã nhiệm kỳ 2010 - 2015.
Về lĩnh vực: Tác giả tập trung nghiên cứu phụ nữ trong Ban Chấp hành
(BCH), Ban Thường vụ (BTV) Đảng ủy, đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND),
Chủ tịch, Phó Chủ tịch thường trực HĐND, Uỷ ban nhân dân (UBND),
trưởng/phó các Sở, Ban, Ngành, phòng chuyên môn, trưởng/phó Mặt trận Tổ
quốc, tổ chức chính trị - xã hội các cấp ở vùng ĐBSH hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luậ n
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về phụ nữ trong lĩnh vực

chính trị nói chung và công tác lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Luận án tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong
và ở ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án.
4.2. Phư ơ ng pháp nghiên cứ u
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh và một số phương pháp liên ngành.
Luận án sử dụng phương pháp điều tra xã hội học (gồm các cuộc phỏng
vấn sâu được kết hợp trong quá trình nghiên cứu, khảo sát. Đối tượng là cán bộ
lãnh đạo, quản lý trong HTCT các cấp, các tỉnh khác nhau. Bảng hỏi: gồm 9
câu hỏi, với dung lượng mẫu là 305, đối tượng hỏi là cán bộ lãnh đạo, quản lý
tại một số tỉnh/thành đại diện trong HTCT các cấp ở ĐBSH) [Phụ lục 2].
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án góp phần làm rõ thực trạng phụ nữ lãnh đạo, quản lý
trong HTCT ở vùng ĐBSH, chỉ ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với
phụ nữ lãnh đạo, quản lý trên phương diện chính trị - xã hội.


5
Hai là, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường số
lượng, tỷ lệ phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT vùng ĐBSH hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án cung cấp một số cơ sở lý luận góp phần cho việc hoạch định,
thực hiện chính sách về phụ nữ, bình đẳng giới, cán bộ nữ trong HTCT ở các
tỉnh vùng ĐBSH hiện nay.
Luận án là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề liên quan đến phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý, bình đẳng giới
trong tham gia chính trị, thuộc chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học và các
chuyên ngành liên quan.
7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Trong thời kỳ đổi mới, những công trình nghiên cứu liên quan đến phụ nữ,
tình hình lãnh đạo, quản lý của phụ nữ ở Việt Nam rất đa dạng, phong phú, luận
án phân loại thành các nhóm sau đây:
1.1.1.1. Nghiên cứ u về phụ nữ , giớ i và phát triể n, bình đẳ ng giớ i
Tác giả Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng trong công trình Phụ nữ giới và phát triển [1] đã phân tích mối quan hệ giữa bình đẳng giới và phát triển
xã hội. Trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ trong đổi mới kinh tế - xã
hội gắn với vấn đề việc làm, thu nhập, sức khỏe, học vấn... Các tác giả đã khẳng
định chính sách xã hội đối với phụ nữ có ảnh hưởng khá sâu sắc đến bình đẳng
giới và phát triển xã hội.
Trong công trình Nho giáo và phát triển ở Việt Nam [62] Giáo sư Vũ
Khiêu đã phân tích sự ra đời và phát triển của Nho giáo. Trong đó, vấn đề Nho
giáo với gia đình ngày nay được nghiên cứu khá toàn diện. Tuy tác giả chưa đề
cập cụ thể đến tác động của Nho giáo đối với phụ nữ khi tham gia lãnh đạo, quản
lý ở Việt Nam nhưng cuốn sách đã khẳng định rằng, cuộc cách mạng ở Việt Nam
phải gắn liền với cuộc cách mạng trong gia đình, gắn liền với việc giải phóng
mọi thành viên trong gia đình, nhất là người phụ nữ khỏi lễ giáo khắc nghiệt và
sự độc đoán của chế độ gia trưởng.
Tác giả Lê Thi trong công trình Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới

ở Việt Nam [117] đã làm rõ sự vận dụng quan điểm của Đảng và Nhà nước
cũng như quan điểm tiếp cận giới vào việc xem xét các vấn đề có liên quan đến
bình đẳng giới. Từ đó đã nêu lên những vấn đề đáng quan tâm và đề xuất ý
kiến về một số chính sách xã hội cần thiết nhằm thực hiện bình đẳng giới trong
tình hình mới.


7
Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới, Đưa vấn đề giới
vào phát triển, thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn lực và tiếng nói
[89]. Công trình đã đi sâu nghiên cứu một số nội dung cơ bản như: bất bình đẳng
giới trước thế kỷ XXI; bất bình đẳng giới cản bước tiến trình phát triển; chiến
lược ba phần để nâng cao sự bình đẳng giới. Trong đó, nhấn mạnh vấn đề thay
đổi thể chế nhằm tạo ra sự bình đẳng giới trong các quyền cơ bản. Có thể xem
đây là điểm nổi bật để đảm bảo sự bình đẳng giới lớn hơn trong tiếng nói và sự
tham gia hoạt động chính trị.
Phạm Minh Hạc (chủ biên), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [46]. Tác giả chỉ ra 5 đặc điểm trí tuệ quan trọng
nhất mà người Việt Nam trong đó có phụ nữ, cần phải có để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: năng lực tư duy sáng tạo; năng lực tiếp
thu nhanh và vận dụng linh hoạt; năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề; năng
lực quản lý; kiến thức rộng rãi và sâu sắc trong nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở tổng
hợp và khái quát các kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất mô hình nhân cách
con người Việt Nam thế kỷ XXI - một nhân cách được phát triển toàn diện.
Trong đó, nhu cầu và động cơ, hứng thú sở thích trí tuệ và tài năng, nhân sinh
quan và quan niệm giá trị, lý tưởng, niềm tin, tính cách và khí chất của họ đều
phát triển theo hướng lành mạnh. Đó là một mô hình gắn bó chặt chẽ giữa hai
mặt Đức và Tài.
Trần Hàn Giang, Về một số lý thuyết nữ quyền [42]. Tác giả đã nghiên cứu
nội dung chính của một số lý thuyết nữ quyền phổ biến có lịch sử tồn tại lâu dài

và có thể áp dụng để lý giải các vấn đề phụ nữ, vấn đề giới ở Việt Nam. Tiêu
biểu là lý thuyết nữ quyền tự do (Liberal Feminism) xuất hiện vào thế kỷ XVIII
với nội dung tranh luận chủ yếu về vấn đề bình đẳng nam nữ trong giáo dục. Vào
thế kỷ XIX, lý thuyết nữ quyền tự do có nội dung tranh luận chủ yếu là sự bình
đẳng về quyền công dân và cơ hội kinh tế giữa phụ nữ và nam giới. Trong thế kỷ
XX, tranh luận trung tâm của thuyết nữ quyền tự do là phụ nữ và nam giới phải
được đối xử bình đẳng như nhau. Nhiều lý luận gia nữ cho rằng, các vấn đề xã


8
hội nảy sinh có nguyên nhân đầu tiên là sự coi thường và hạn chế sự tự do của cá
nhân, sự phụ thuộc của phụ nữ có nguồn gốc trong tập quán và hạn chế của luật
pháp. Theo quan điểm của họ, nam nữ bình đẳng, có thể hợp tác và hòa nhập,
chia sẻ trách nhiệm trong gia đình và ngoài xã hội với nhau chứ không phải tự
do, bình đẳng, giành quyền cho phụ nữ bằng cách tước đoạt quyền và lợi ích của
phái nam.
Đỗ Thị Thạch, Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [110]. Tác giả đã làm rõ quan niệm về trí thức, trí
thức nữ; những cơ sở khẳng định phẩm chất trí tuệ cũng như những yếu tố tác
động đến sự phát triển trí tuệ của phụ nữ. Trên cơ sở đó, tác giả đã đi sâu phân
tích sự hình thành, đặc điểm của nguồn lực trí thức nữ Việt Nam, những đóng
góp của họ đối với sự phát triển của gia đình và đất nước, trong đó có đóng góp
vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý các cấp; đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy
nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Công trình đã nghiên cứu vấn đề trí thức nữ dưới một góc nhìn mới,
góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ định kiến giới, khẳng định vai trò to lớn
của người phụ nữ đối với sự phát triển của xã hội, nhất là lĩnh vực khoa học và
lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nhằm thực hiện bình đẳng giới ở nước ta hiện nay.
Cùng chủ đề trên, tác giả Lê Thị Quý trong công trình Phụ nữ trong đổi
mới: Thành tựu và thách thức [102] đã đưa ra nhận định: Việt Nam là một nước

đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về cơ bản, nhà nước ta đã
quan tâm và tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Giải phóng phụ nữ không thể
chỉ hiểu đơn giản là vấn đề chính sách mà còn ở cuộc sống thực tiễn. Theo tác
giả, nhiều nghiên cứu gần đây đã luận giải tỷ lệ chênh lệch giữa nam và nữ trong
bộ máy lãnh đạo các cấp, đồng thời bước đầu chỉ ra quan niệm, định kiến giới
của một số cán bộ chính quyền và người dân đối với việc phụ nữ tham gia lãnh
đạo. Sự hạn chế của phụ nữ trong giáo dục - đào tạo, việc bố trí sử dụng cán bộ
nữ và việc giữ gìn, phát triển tiềm năng của phụ nữ, tác động của phân công lao
động bất bình đẳng hiện nay đến việc nâng cao năng lực và trao quyền cho phụ


9
nữ được tác giả đánh giá là có nguyên nhân liên quan đến sự phân công lao
động. Do vậy, nghiên cứu này cung cấp cho đề tài một số cơ sở của việc phụ nữ
tham gia vào lĩnh vực lãnh đạo, quản lý.
Lê Ngọc Văn, Nghiên cứu gia đình - lý thuyết nữ quyền - quan điểm giới
[143]. Tác giả của cuốn sách đã nghiên cứu, bước đầu giới thiệu lịch sử hình
thành tư tưởng nữ quyền, một số quan điểm cơ bản, các trường phái lý thuyết,
những cống hiến và những hạn chế của lý thuyết nữ quyền. Qua đó, tác giả chỉ ra
rằng, nghiên cứu vấn đề này chính là cơ sở khoa học cho việc xây dựng chính
sách, chiến lược phát triển gia đình và bình đẳng giới.
Phan Thanh Khôi - Đỗ Thị Thạch (đồng chủ biên), Những vấn đề giới - từ
lịch sử đến hiện đại [65]. Đây là công trình của tập thể các nhà khoa học của
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Các tác giả đã nghiên cứu các vấn đề về giới thông qua việc tiếp cận những tác
phẩm kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Công trình khoa học
nêu trên đã mang lại những gợi ý cho tác giả luận án khi nghiên cứu về bản chất
và nguyên nhân của bất bình đẳng giới ở Việt Nam.
Trần Thị Vân Anh và Nguyễn Hữu Minh (đồng chủ biên), Bình đẳng giới

ở Việt Nam [2]. Với việc điều tra cơ bản về bình đẳng giới, các tác giả xác định
thực trạng bình đẳng giới về cơ hội và khả năng nắm bắt cơ hội của phụ nữ, của
nam giới; tương quan giữa hai giới trên lĩnh vực lao động - việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe và địa vị trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Công
trình nghiên cứu này giúp cho tác giả luận án thấy được vai trò của phụ nữ trong
giải quyết các vấn đề của xã hội nói chung và lãnh đạo, quản lý nói riêng.
Trên phương diện chính trị - xã hội, các tác giả Trịnh Quốc Tuấn và Đỗ
Thị Thạch trong công trình Khoa học giới - Những vấn đề lý luận và thực tiễn
[129] đã cung cấp một bức tranh về lịch sử phát triển của khoa học giới; đồng
thời nghiên cứu vấn đề giới dựa trên cách tiếp cận các lĩnh vực của đời sống gia
đình và xã hội. Vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý được các tác giả


10
phân tích với các nội dung cụ thể như: Mối liên hệ giữa bình đẳng giới với
công tác lãnh đạo, quản lý; thực trạng tham gia lãnh đạo, quản lý của nam giới
và nữ giới - thành tựu, hạn chế và nguyên nhân và một số giải pháp nhằm khắc
phục tình trạng bất bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý. Nghiên cứu này
được tác giả kế thừa trong quá trình thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
của luận án.
Tác giả Vũ Thị Cúc trong công trình Quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn
đề giới [18] đã phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên nhân của bất
bình đẳng giới như: tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, sự hạn chế trong nhận thức
người dân, và giải pháp đấu tranh cho bình đẳng giới trong xã hội: “Người đã chỉ
ra rằng để đạt được bình đẳng giới phải thực hiện đồng thời hai việc đó là giải
phóng người phụ nữ khỏi những ràng buộc của những lề thói, tập tục lạc hậu
trong xã hội đồng thời phải thay đổi, nâng cao nhận thức của người đàn ông
trong xã hội về phụ nữ và bản thân phụ nữ phải tự mình phấn đấu vươn lên để
giành quyền bình đẳng cho mình” [18, tr.57]. Đây là một trong những cơ sở lý
luận quan trọng cho tác giả luận án tham khảo trong quá trình nghiên cứu, triển
khai đề tài của mình.

Trong đề tài khoa học: Lồng ghép giới hướng tới bình đẳng và phát triển
bền vững ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay [50] tác giả Phạm Thu Hiền đã
phân tích lồng ghép giới trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế và lao động việc
làm, văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế và gia đình; đồng thời đề xuất một số giải
pháp và kiến nghị lồng ghép giới nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới, phát
triển bền vững. Nghiên cứu này là gợi ý cho việc hiện thực hóa mục tiêu phụ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý của luận án.
Ngân hàng Thế giới, Đánh giá Giới tại Việt Nam [90]. Báo cáo là sản
phẩm cuối cùng của nhiều hoạt động hợp tác của một số đối tác phát triển nhằm
phân tích các vấn đề giới, tạo cơ sở để đối thoại chính sách với Chính phủ Việt
Nam. Báo cáo được cấu trúc thành 5 chương, trong đó Chương 4 đề cập đến vấn
đề tỷ lệ tham gia của nữ giới vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Trên cơ sở đó Báo


11
cáo đưa ra các khuyến nghị liên quan. Các khuyến nghị là căn cứ để tác giả có
thể kế thừa và phát triển trong luận án của mình.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Về Công ước CEDAW và sự tham
gia của phụ nữ vào vị trí quản lý, lãnh đạo (Hội thảo) [13]. Hội thảo là diễn đàn
để các tỉnh, thành phố chia sẻ kinh nghiệm về thực hiện Công ước CEDAW và
phát luật bình đẳng giới về bảo đảm quyền cho phụ nữ trên lĩnh vực chính trị;
đặc biệt là trao đổi về giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về
bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 và Chương trình quốc gia về bình đẳng giới
giai đoạn 2011-2015 về các hoạt động tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào
các vị trí lãnh đạo, quản lý. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong
quá trình nghiên cứu, đánh giá về công tác cán bộ nữ ở vùng ĐBSH.
Ngô Thị Tuấn Dung, Nghị sự toàn cầu về vấn đề phụ nữ và bình đẳng giới
- Lịch sử và hiện tại [24]. Bài viết tập trung phân tích, khái quát về bối cảnh, đặc
điểm chương trình nghị sự toàn cầu về vấn đề phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới,
nêu những vấn đề và thách thức đặt ra trong khoảng ba thập kỷ vừa qua. Tác giả

bài báo cho rằng, trong khoảng ba thập kỷ gần đây, nhận thức, cam kết chính trị
và định hướng chương trình hành động nhằm mục tiêu bình đẳng giới, tạo quyền
phụ nữ đã trở thành tiền đề đảm bảo ổn định chính trị, hòa bình, an ninh và phát
triển bền vững ở các cộng đồng, quốc gia đã được tăng cường ở cấp độ toàn cầu.
Đỗ Thị Thạch, Tác động của toàn cầu hóa đối với thực hiện bình đẳng
giới ở Việt Nam hiện nay [111]. Trên cơ sở tiếp cận quá trình toàn cầu hóa như là
một tất yếu khách quan tác động đến mọi quốc gia trên các mặt của đời sống xã
hội, tác giả đã phân tích khá rõ sự tác động của toàn cầu hóa đến việc thực hiện
bình đẳng giới trong các mặt đời sống xã hội và gia đình; đề xuất một số giải
pháp để phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của toàn cầu hóa
tới thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
Chương trình hợp tác chung giữa Chính phủ Việt Nam và Liên hợp quốc
về Bình đẳng giới, Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về bình đẳng giới
và phòng, chống bạo lực gia đình [16]. Cuốn sách hệ thống hóa các văn bản


12
chính sách pháp luật về Bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình. Nội
dung cuốn sách gồm có 5 phần: 1. Văn bản chỉ đạo của Đảng; 2. Các văn bản
quy định hiện hành về bình đẳng giới; 3. Các văn bản hiện hành về tổ chức bộ
máy về bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ và phòng, chống bạo lực gia
đình; và 5. Một số trích đoạn của các văn kiện quốc tế có liên quan.
Phạm Ngọc Tiến, Chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011 - 2015 và mục tiêu tăng tỷ lệ lãnh đạo nữ, Hội thảo quốc tế: “Nhu cầu về
nguồn nhân lực - tăng cán bộ quản lý nữ ở Việt Nam” [124]. Tác giả đã thống kê
cụ thể các mục tiêu và chỉ tiêu trong lĩnh vực chính trị của chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2015, đó là: Tăng cường sự tham gia của phụ
nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới
trong lĩnh vực chính trị. Với một số hoạt động chính nhằm giúp phụ nữ nâng cao
năng lực tham gia vào các vị trí quản lý, lãnh đạo như: nghiên cứu, đánh giá tác

động của hệ thống thể chế, chính sách đối với cán bộ nữ; tổ chức các hoạt động
nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, lãnh đạo chính trị - xã hội.
Một trong những giải pháp quan trọng mà tác giả đề ra nhằm giúp phụ nữ nâng
cao năng lực tham chính đó là đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc
tế. Bài viết là gợi ý khoa học quan trọng cho tác giả luận án khi triển khai đề tài
nghiên cứu.
Phạm Minh Anh, Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong
việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam [4]. Tác giả đã trình bày cơ sở
lý luận và thực tiễn về cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và bình đẳng giới.
Đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng vai trò, các yếu tố tác động đến cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở nước
ta hiện nay. Từ đó, tác giả cuốn sách đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm
góp phần nâng cao vai trò cũng như hiệu quả thực hiện mục tiêu bình đẳng giới
của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trước mắt cũng như lâu dài.
Bùi Thế Cường, Phụ nữ Việt Nam trong kỷ nguyên biến đổi xã hội nhanh
[20]. Theo tác giả:“đổi mới là một thời đoạn mới trong lịch sử Việt Nam, diễn ra


13
trong bối cảnh một khuôn khổ phát triển chung mang tính toàn cầu... giới là một
chủ đề then chốt, xuyên suốt mọi chủ đề khác” [20, tr.9]. Cuốn sách bao gồm
nhiều mảng vấn đề như: Vận dụng tiếp cận giới vào nghiên cứu ở Việt Nam
trong thập niên 2000; Giới trong Giáo dục đào tạo; Phụ nữ và gia đình; Phụ nữ
vươn lên vượt khó; Từ nhận thức đến hành động: những câu chyện thành công.
Trong đó, đặc biệt có chuyên đề: Phụ nữ quản lý và lãnh đạo trong khu vực công
ở Việt Nam, tác giả Vũ Mạnh Lợi đã nhấn mạnh:“Tình trạng bình đẳng giới
trong Đảng được thể hiện ở tình hình về giới trong hệ thống chính quyền các
cấp” [20, tr.266]. Tuy chưa đưa ra giải pháp nào cho tình hình này nhưng tác giả
đã có những phân tích cho thấy trên thực tế, phụ nữ có rất ít đại diện trong mọi vị
trí lãnh đạo ở mọi ngành trong khu vực công.

Lưu Song Hà, Phan Thị Thu Hà, Chất lượng nguồn nhân lực nữ qua lăng
kính giới [45]. Bài viết đã phân tích chất lượng nguồn nhân lực nữ ở nước ta hiện
nay ở những khía cạnh như: thể lực (chỉ số về nhân trắc của nhân lực nữ ở nước
ta thường thấp, bé, nhẹ cân và biểu hiện sức khỏe như mất ngủ, căng thẳng tâm
lý, hay quên, suy giảm thị lực, chóng già... phổ biến hơn nam giới); trí lực (trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ và tin học, kỹ năng
nghề nghiệp như kỹ năng hợp tác với người khác, kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin trong công việc, kỹ năng thuyết phục người khác và kỹ năng sử dụng,
vận hành những phương tiện kỹ thuật, công nghệ thì nhân lực nữ đều sử dụng
kém hơn lao động nam) và tâm lực (đối với lao động nữ, phẩm chất nổi bật nhất
là tính hợp tác và hạn chế nhất là tính năng động, linh hoạt, sáng tạo; còn với
nam giới, phẩm chất được đánh giá tốt là ý thức kỷ luật lao động và hạn chế ở
tinh thần trách nhiệm). Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề ra một số giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ và bình đẳng giới. Tác
giả nhấn mạnh:“Vấn đề giới cần được xem xét một cách có hệ thống trong việc
lập kế hoạch, xây dựng thể chế, chính sách và luật pháp” [45, tr.50]. Các giải
pháp còn mang tính sơ lược, nhưng đã gợi mở cho tác giả hướng đánh giá về vấn
đề giới khi nghiên cứu về các giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, quản
lý cho phụ nữ.


14
Lê Thị Quý, Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay [103]. Tác giả đã phân
tích quan niệm về bình đẳng giới và nhấn mạnh:“Thực tế cuộc sống Việt Nam
cho thấy, có sự khác biệt về bình đẳng giới thực chất và bình đẳng giới hình
thức” [103, tr.76]. Bài viết đã chỉ ra quá trình phát triển nhận thức giới ở Việt
Nam và nhận định: Phụ nữ ngày nay đã được độc lập về kinh tế, được tham gia
và thừa nhận trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, gia
đình, thậm chí ở nhiều nơi, họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp. Đây là những
biểu hiện của bình đẳng giới thực chất ở Việt Nam [dẫn theo 103, tr.77]. Về luật

pháp và chính sách bình đẳng giới, Việt Nam đã có những tiến bộ về giới, công
nhận quyền bình đẳng nam và nữ ở trong xã hội và gia đình. Tác giả đã bước đầu
chỉ ra những thách thức hay bình đẳng giới hình thức ở nước ta như: luật thì có
nhưng không được thực hiện, sự vất vả của phụ nữ trong vai trò “kép”, nhất là
chính sách quy định độ tuổi về hưu của phụ nữ là 55 tuổi, nam giới là 60 tuổi,
chính sách này đã hạn chế các đóng góp và đề bạt đối với phụ nữ trí thức, nhất là
khi tỷ lệ phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý vốn đã nhỏ bé, chênh lệch so với
nam giới, do đó, họ lại càng không có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển.
Đỗ Thị Thạch, Nữ trí thức Việt Nam trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế [112]. Theo tác giả thì đội ngũ nữ trí thức Việt Nam
nói chung phải đảm bảo ba phẩm chất cơ bản là phẩm chất chính trị vững vàng;
có trí tuệ cao; có trách nhiệm xã hội. Để phát huy vai trò của nữ trí thức đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp: Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cá nhân, cộng đồng về
vai trò của nữ trí thức trong phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng gia đình; xây
dựng chính sách hợp lý trong đào tạo đội ngũ nữ trí thức; có chính sách sử dụng,
đãi ngộ đội ngũ nữ trí thức hợp lý, xây dựng nữ trí thức chuyên gia, đầu đàn;
quan tâm, tạo điều kiện để nữ trí thức kết hợp tốt chức năng “kép” gia đình và xã
hội; xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, nhất là Hội Nữ trí thức
đại diện cho quyền lợi của trí thức nữ. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến vấn đề
nữ cán bộ lãnh đạo, quản lý.


15
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chương trình lãnh đạo nữ lớp
Bồi dưỡng Dự nguồn Cán bộ Cao cấp Khóa III [54]. Tác giả PipPa Norris đã
phân tích chuyên đề: “Xây dựng kế hoạch hành động bình đẳng giới trong cơ
quan dân cử ở Việt Nam” thông qua việc giới thiệu các nội dung về các xu
hướng trong khu vực và toàn cầu; những rào cản đối với bình đẳng giới và
khung kế hoạch hành động gồm 6 bước. Đặc biệt, nghiên cứu đã đặt ra một loạt

các gợi ý mở về những rào cản đối với bình đẳng giới như: Tại sao lại có sự đối
lập giữa các quốc gia? Tại sao không phải là sự tăng trưởng kinh tế? Không phải
là sự dân chủ hóa? Thái độ văn hóa có ý nghĩa quan trọng nhưng rất khó để thay
đổi? Mục tiêu của tác giả nhằm nhấn mạnh việc:“Thúc đẩy và tăng cường vai trò
lãnh đạo của phụ nữ trong chính trị và bình đẳng giới là một vấn đề phát triển,
vấn đề nhân quyền và cũng là đạo lý” [54, tr.4]. Đây là tài liệu nghiên cứu có giá
trị để tác giả luận án tham khảo trong quá trình triển khai đề tài của mình.
Chu Thị Thoa, Bình đẳng giới trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông
Hồng hiện nay [119]. Trên cơ sở phân tích những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội ảnh hưởng đến bình đẳng giới trong gia đình nông thôn ĐBSH, tác giả đã chỉ
ra những thành tựu cũng như hạn chế của việc thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình ở địa bàn nghiên cứu trong công cuộc đổi mới; đồng thời, đề xuất phương
hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm từng bước xóa bỏ bất bình đẳng
giới trong gia đình nông thôn ĐBSH hiện nay.
Hoàng Bá Thịnh, Về làn sóng nữ quyền và ảnh hưởng của nữ quyền đến
địa vị của phụ nữ Việt Nam [118]. Tác giả đã trao đổi về sự phân chia các làn
sóng nữ quyền cũng như ảnh hưởng của phong trào nữ quyền đến địa vị của phụ
nữ Việt Nam và tiến trình bình đẳng giới. Qua đó, tác giả đi đến kết luận: ở Việt
Nam không có phong trào nữ quyền như các nước phương Tây, mà chỉ có phong
trào phụ nữ, do Hội LHPN Việt Nam đứng đầu, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực hiện các mục tiêu của cách mạng, trong đó có mục tiêu
quan trọng là tiến tới bình đẳng nam nữ/bình đẳng giới. Ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới, nhân tố quyết định bình đẳng giới là chính sách, đường lối của Đảng
“có sự nhạy cảm giới”.


16
1.1.1.2. Nghiên cứ u về công tác cán bộ , phụ nữ lãnh đạ o, quả n lý trong
hệ thố ng chính trị ở Việ t Nam và ở vùng đồ ng bằ ng sông Hồ ng
Về công tác cán bộ và phụ nữ lãnh đạo, quản lý trong HTCT ở Việt Nam

có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan:
Vương Thị Hanh, Phụ nữ Việt Nam và sự tham gia chính trị [47]. Công
trình nghiên cứu đã chỉ ra một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đang
làm cản trở quá trình thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam có liên quan
đến vai trò của cán bộ trong HTCT. Đó là sự thiếu quyết tâm và cam kết có trách
nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành. Lãnh đạo các ngành, các cấp thiếu sự
chỉ đạo sát sao việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nữ như tạo nguồn,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt phụ nữ; chưa mạnh dạn sử dụng, đề bạt cán
bộ nữ trẻ. Thiếu quan tâm trong việc thực hiện biện pháp đặc biệt về chỉ tiêu phụ
nữ tham gia lãnh đạo, ra quyết định, dẫn đến các chỉ tiêu đưa ra không đạt hoặc
thực hiện chỉ tiêu theo cơ cấu hình thức mà không quan tâm đến chất lượng cán
bộ nữ. Thiếu kiểm tra, đôn đốc và định kỳ đánh giá việc thực hiện chính sách
cán bộ nữ, thiếu biện pháp thưởng, phạt cần thiết đối với các đơn vị, ban ngành
trong việc xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ nữ.
Trung tâm nghiên cứu Khoa học về lao động nữ, Phụ nữ tham gia lãnh
đạo quản lý [128]. Cuốn sách có chủ đề phụ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý
nhưng mới phân tích và bàn luận sơ lược về địa vị của phụ nữ Việt Nam trong bộ
máy chính trị hiện tại.
Nguyễn Thị Tuyết Nga, Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa đến sự tham gia
chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay [86]. Nghiên cứu cụ thể của tác giả là
ở địa bàn Hà Giang với nội dung chính là chỉ ra ảnh hưởng của các giá trị truyền
thống và các giá trị hiện đại có sự khác nhau ở các nhóm tuổi và dân tộc. Hệ quả
ảnh hưởng của nó tới phụ nữ là phụ nữ có xu hướng lựa chọn cân bằng công việc
xã hội và trách nhiệm gia đình trong trường hợp cụ thể ở mức cao nhất và với sự
phân công lao động trong gia đình thì những quyết định quan trọng vẫn thuộc về
nam giới. Bài viết có giá trị tham khảo cho luận án trong quá trình so sánh về
công tác phụ nữ giữa các vùng, miền ở nước ta hiện nay.


17

Võ Thị Mai, Vai trò của nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa [77]. Cuốn sách đã phần nào làm rõ thực trạng
và xu hướng biến đổi vai trò nữ cán bộ quản lý nhà nước trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước trong giai đoạn
hiện nay. Tuy nhiên, ở góc độ tiếp cận xã hội học, cuốn sách là kết quả nghiên
cứu về giới trong phạm vi khảo sát, điều tra tại tỉnh Quảng Ngãi thuộc vùng
Duyên hải miền Trung.
Nguyễn Thị Kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện công tác
cán bộ nữ từ năm 1986 đến năm 2001 [68]. Tác giả đã cung cấp một số tư liệu
về các hoạt động của Đảng trong việc khuyến khích và thúc đẩy sự tham gia lãnh
đạo chính trị của phụ nữ. Trên cơ sở sử dụng các số liệu thống kê và báo cáo
hoạt động của một số bộ ngành, tác giả đã phân tích những vấn đề thuộc về thể
chế chính trị nhưng thiếu vắng sự phân tích chi tiết về tác động của yếu tố chính
sách trong lĩnh vực này.
Nguyễn Đức Hạt (chủ biên), Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ
trong hệ thống chính trị [48]. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của Đề tài độc
lập cấp Nhà nước của Ban Tổ chức Trung ương. Các tác giả đã góp phần làm
sáng tỏ những luận cứ khoa học, thực tiễn về việc nâng cao vị trí, vai trò, năng
lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ
chức đoàn thể ở nước ta, đồng thời, nhấn mạnh việc giải quyết các vấn đề liên
quan tới nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong HTCT; đa dạng hóa
giá trị, tăng quyền và mở rộng cơ hội lựa chọn cho nam - nữ một cách hợp lý
nhằm phát huy mọi tiềm năng, sức lực của cả hai giới đối với sự phát triển bền
vững của đất nước.
Nguyễn Thị Thu Hà, Định kiến giới đối với nữ trong lãnh đạo, quản lý
[43]. Tác giả làm rõ khái niệm định kiến giới, biểu hiện định kiến giới đối với
phụ nữ: tiềm năng lãnh đạo, đặc điểm tính cách, hành vi lãnh đạo thực tế. Bài



18
viết nhấn mạnh, đó chính là một trong những yếu tố trực tiếp cản trở phụ nữ
tham gia bình đẳng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Tuy nhiên, những
luận giải về tác động của định kiến giới đối với phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý
ở Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục về các vấn đề liên quan của luận án
nghiên cứu.
Đinh Thị Hà, Sự tham gia của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong đời
sống chính trị - xã hội [44]. Đề tài đã hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý
luận cơ bản về sự hình thành và phát triển của Hội LHPN; khái quát vị trí, vai trò
của Hội LHPN trong HTCT Việt Nam; phân tích, đánh giá thực trạng tham gia
của Hội LHPN trên các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội, đặc biệt là thực tiễn
tham gia hoạt động chính trị: hoạt động của các hội viên trong bộ máy Đảng và
chính quyền các cấp, việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội;
những khó khăn và thuận lợi khi tham gia hoạt động chính trị - xã hội của Hội
LHPN, những mặt mạnh cần phát huy và những hạn chế cần khắc phục. Từ đó,
tác giả đã nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy và nâng cao
hiệu quả tham gia đời sống chính trị - xã hội của Hội LHPN trong HTCT Việt
Nam hiện nay.
Trần Đình Hoan (chủ biên), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ
lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [53]. Cuốn
sách đã khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như cơ sở khoa học;
chỉ ra những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đối
với công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ. Đặc biệt, các tác giả đã
phân tích quá trình thực hiện công tác này từ năm 1986 đến nay; nêu ra một số
quan điểm, giải pháp đổi mới, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguyễn Thị Phương, Một số yếu tố tác động đến tỷ lệ nữ trúng cử đại
biểu Quốc hội khóa XII [96]. Bài viết đã phân tích một số yếu tố ảnh hưởng
đến tỷ lệ nữ trúng cử đại biểu Quốc hội khóa XII và chỉ ra những yếu tố khách



19
quan có sự tác động đến kết quả tăng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội như sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, công tác quy hoạch tạo nguồn cán bộ nữ,
việc sắp xếp danh sách bầu cử, công tác tuyên truyền và việc nâng cao nhận
thức giới của cử tri. Bên cạnh đó, bài viết còn cho rằng, các yếu tố khách quan
như học vấn, nghề nghiệp, lĩnh vực, vị trí công tác và uy tín của bản thân các
nữ ứng cử viên cũng là những điều kiện quan trọng quyết định sự thành công
của họ trong quá trình bầu cử.
Lê Thị Thục, “Tính nữ và tính nam: Nan đề của phụ nữ Việt Nam trong
lãnh đạo chính trị” [122]. Tác giả đã bước đầu khái quát những vấn đề mang
tính hệ thống, đóng vai trò rào cản đối với việc nắm giữ quyền lực chính trị của
phụ nữ Việt Nam trong bộ máy chính trị hiện đại. Tuy nhiên, do khuôn khổ của
nghiên cứu chủ yếu phục vụ mục đích học tập nên chưa bao quát được toàn bộ
các vấn đề nghiên cứu về lĩnh vực này, nhưng luận án đã đóng vai trò gợi mở
cho những nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu hơn cho các nghiên cứu khác về
lĩnh vực này.
Trần Thị Vân Anh, Những trở ngại đối với sự phấn đấu của nữ lãnh đạo
[3]. Tác giả đã trình bày những bằng chứng khá thuyết phục về những trở ngại
chính đối với sự phấn đấu của cán bộ nữ lãnh đạo. Đó là: ảnh hưởng, tác động
của những người có trách nhiệm, việc tạo nguồn và kiểm tra, đánh giá công tác
cán bộ nữ; trở ngại từ các quy định chính sách; sự ảnh hưởng của định kiến và
chuẩn mực cũ ở gia đình, cộng đồng và cơ quan. Chẳng hạn như chuẩn mực, sự
mặc định về năng lực của nam giới cao hơn so với nữ giới: “Nếu một người phụ
nữ về năng lực làm việc như một người nam giới thì chắc chắn người ta bỏ phiếu
cho nam giới. Không phải chỉ người nam bỏ phiếu cho người nam đâu mà tâm lý
chung là nữ giới cũng bỏ cho người nam giới. Có thể nhiều người không thích bị
một người phụ nữ lãnh đạo, đặc biệt là nam. Có thể họ cũng nghĩ là phụ nữ ít có
thời gian dành cho công việc hơn, vì phụ nữ còn có công việc gia đình” (Nữ,

lãnh đạo sở, thành phố). “Người ta không nói ra nhưng lúc nào người ta cũng
nghĩ là nam giới làm tốt hơn”. Người có trách nhiệm thường mong muốn ở nam


×