Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

ôn thi CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.92 KB, 44 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN BÁO CHÍ
Câu 3 : Các chức năng của báo chí
Chức năng là gì?
- Chức năng là vai trò, bổn phận nghĩa vụ của yếu tố đối với hệ thống. Do đó:
- Nghiên cứu chức năng xã hội của báo chí là nghiên cứu sự tồn tại của báo chí đối với xã

hội.
- Nghiên cứu chức năng xã hội của báo chí cũng là nghiên cứu tính mục đích hoạt động
của báo chí.
- Theo luận điểm của Mác: Xã hội phát triển càng cao, con người càng văn minh, chức
năng báo chí càng đa dạng vì giá trị sử dụng hàng hoá phụ thuộc vào sự văn minh của
con người.
Báo chí có 5 chức năng:
-

Chức năng thông tin
Chức năng công tác tư tưởng
Chức năng quản lý giám và phản biện xã hội
Chức năng văn hóa
Chức năng quảng cáo và dịch vụ kinh tế báo chí.

a. Chức năng thông tin:

Vai trò vị trí của chức năng thông tin:
- Thông tin là chức năng khởi nguồn, chức năng cơ bản nhất của truyền thông đại chúng.

Truyền thông đại chúng ra đời và phát triển trước hết là nhằm thoả mãn ngày càng cao
nhu cầu thông tin của con người và xã hội. Thông tin là nhu cầu sống còn, nhu cầu phát
triển của con người, đồng thời là động lực kích thích sự phát triển. Xã hội càng phát
triển, thì nhu cầu thông tin càng cao.
- Thông tin và tuyên truyền là hai mặt của 1 vấn đề bởi mục đích của thông tin chính


là tuyên truyền.
- Thông tin trên các kênh truyền thông đại chúng đã không chỉ trở thành sức mạnh chính trị

trong cuộc đấu tranh chính trị - tư tưởng, sức mạnh đột phá của sự phát triển kinh tế,
khoa học mà còn góp phần hình thành diện mạo văn hoá quốc gia cũng như nhân cách
mỗi con người.
- Từ thực tiến xã hội Việt Nam (Kinh tế thị trường), nền kinh tế thị trường phát triển thì
khối lượng và chất lượng thông tin càng cao.
- Về thông tin, báo chí phải đạt được yêu cầu gì? (5 yêu cầu)
+ Thông tin nhanh chóng, hợp thời: “hot” , hiểu được tính hợp thời, phù hợp với lợi ích
của công chúng. Nếu khái niệm nhanh chóng được hiểu là khoảng thời gian từ khi sự
kiện, vấn đề nảy sinh đến khi đông đảo công chúng biết được qua các phương tiện


truyền thông, thì hợp thời là việc công bố, việc xã hội hoá sự kiện, vấn đề ấy vào thời
điểm nào có lợi nhất cho chủ thể truyền thông cũng như cho công chúng xã hội.
+ Thông tin phải trung thực, đúng bản chất của sự kiện, đảm bảo lợi ích chính trị, dân
tộc và quan trọng với bản thân mình. Tính trung thực có thể biểu hiện ở các cấp độ sau:
• sự kiện phải được thông báo xác thực, đúng bản chất , quy mô của nó, không “có bé xé ra

to”, không thêm thắt các chi tiết làm cho sự kiện bị sai lệch.
• sự kiện thông tin được đặt trong tình hình, bối cảnh và tác động tích cực tới các mối quan
hệ hiện tại.
• Những sự kiện và vấn đề thông tin trên truyền thông đại chúng có ảnh hưởng tích cực đến
lợi ích của nhóm công chúng nào, có mang lại lợi ích cho đông đảo nhân dân, hay chỉ
một vài cá nhân, nhóm nhỏ. Mọi thông tin, thông điệp luôn luôn vì sự phồn thịnh của đất
nước, sự chấn hưng dân tộc.
+ Thông tin phong phú, đa dạng, tránh một chiều. Nhu cầu thông tin cũng như đời sống
tinh thần của con người, không chấp nhận sự đơn điệu, nghèo nàn. Một thông điệp dù
hấp dẫn đến mấy cũng có lúc trở nên nhàm chán. Một ấn phẩm truyền thông cần phải

thường xuyên được cải tiến, thường xuyên phải “làm tươi” để kích thích nhu cầu tiếp
nhận của công chúng.
+ Thông tin phải định hướng, hướng dẫn dư luận xã hội. Đây cũng chính là nhiệm vụ
hàng đầu của truyền thông đại chúng nhằm phục vụ tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
Bởi nó có khả năng vận động nhân dân tham gia thực hiện có hiệu quả các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; kêu gọi tập hợp nhân dân giải quyết các vấn đề liên
quan đến lợi ích cộng đồng, của đất nước, từ đó, bảo đảm sự phát triển bền vững, không
ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Thông tin báo chí phải phù hợp với văn hoá và phát triển, đảm báo tính nhân văn. Yêu
cầu này càng trở trên cấp thiết trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hóa đã và đang
diễn ra nhanh chóng trên mọi lĩnh vực.
- Trước những yêu cầu về thông tin đề cập trên, nhà báo - người cung cấp thông tin cần

đảm bảo các yêu cầu: (5 yêu cầu)
+ phong cách chuyên nghiệp
+ có nền tảng kiến thức
+ có đạo đức nghề nghiệp và nắm rõ pháp luật
+ thiết lập được mối quan hệ và mạng lưới săn tin
+ có khả năng sử dụng các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại.


b. Chức năng tư tưởng báo chí:

Vai trò vị trí của chức năng tư tưởng:
Đây là chức năng xuyên suốt của báo chí.
Báo chí đi đầu trong việc giáo dục tư tưởng, lý tưởng xã hội và con người.
Đặc thù chức năng tư tưởng của báo chí là tác động đối với mỗi con người.
Báo chí làm tư tưởng qua thông tin sự kiện. Nó không chỉ thông tin sự kiện mà nó còn
bình luận sự kiện đang diễn ra. ( hay cụ thể qua việc cung cấp thông tin, việc bình luận,
đánh giá…)

- Báo chí tuyên truyền lý luận Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng (Tư tưởng
tốt làm tiền đề cho đường lối chính sách tốt).
Nhờ đó mà kịp thời đấu tranh chống mọi thế lực thù đich, tư tưởng bảo thủ, lạc hậu. Nó
cũng chú trọng kích thích tích cực, đấu tranh chống hành động tiêu cực.
-

Hoặc phân tích theo hướng sau : 6 nội dung
+ Góp phần lựa chọn hệ tư tưởng ( báo Thanh niên 6/1925 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập là cơ quan ngôn luận của Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, truyền bá chủ
nghĩa Mac – Lenin và lựa chọn con đường CMVN - Cm Việt Nam muốn thành công
phải đi theo con đường CNXh)
+ Góp phần truyền bá hệ tư tưởng : Phát động Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí
Minh
+ Góp phần đấu tranh bảo vệ hệ tư tưởng: đấu tranh chống diễn biến hòa bình trong thời
đại hôm nay.
+ Biểu dương tư tưởng tiến bộ phù hợp, phê phán từ tưởng lạc hậu, không phù hợp
+ Nâng cao nhận thức chính trị
• Yêu cầu đối với nhà báo: Nhà báo phải sâu sát, nhạy bén, phải có linh cảm nghề nghiệp

và có lòng nhiệt thành. Lập trường tư tưởng vững vàng, nhạy cảm chính trị…
c. Chức năng văn hoá và giải trí:

Vị trí và vai trò của chức năng văn hóa giải trí:
- Các sản phẩm truyền thông góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và phát huy các
giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao lưu, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân
tộc trên thế giới, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc.


- Quá trình phát triển văn hoá Việt Nam: Việt Nam có nền văn minh phát triển từ rất
sớm, khoảng 10.000 năm văn minh thôn dã kéo dài. Nó có nhiều mặt tích cực và hạn

chế.
- Phương thức báo chí tham gia phát triển văn hoá:

+ Đại chúng hoá các giá trị văn hoá
+ Kích thích năng lực sáng tạo, giá trị mới của cộng đồng
+ Tiếp thu và biến đổi
+ báo chí phải trở thành bộ …., nhà báo trở thành nhà văn hoá. (?)
+ báo chí tham gia, giới thiệu, tổng kết kinh nghiệm.
+ Nhà báo cố gắng là nhà văn hoá, có phông văn hoá.
- Giải trí đối với báo chí: giúp công chúng, tạo điều kiện cho công chúng sử dụng thời gian

rỗi, cân bằng tâm sinh lý.
+ thông tin mới, hay …(văn nghệ)
+ trong bối cảnh kinh tế thị trường, nhu cầu giải trí càng lớn
+ truyền hình là kênh giải trí
d. Chức năng giám sát và phản biện xã hội:
- Với khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, báo chí tham gia quản lý để đảm bảo luồng

thông tin hai chiều. Từ Đảng và Nhà nước đến dân và từ dân đến Đảng và Nhà nước.
Nhờ đó, Nhà nước có thể nắm bắt hiệu quả của những chính sách và từ đó chỉnh sửa, bổ
sung và hiểu được tâm tư của người dân.
- Phản biện xã hội là một phương thức mới trong xã hội ta, thể hiện 1 tư duy mới. Phản
biện xã hội là nêu ra cái tiêu cực, không tốt để hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung. Phản biện xã
hội là phản biện chủ trương, chính sách, pháp luật, nêu ra cái tốt, cái hay, chỉ ra sự bất
cập. Việc giám sát là độc lập bởi nếu giám sát không độc lập thành đồng loã.
- Yêu cầu:
Điều kiện để tăng cường chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí nói chung:
+ đặc thù phản biện, giám sát xã hội của báo chí: đây là giám sát phản biện của nhân
dân, là tai mắt hay chính là sự giám sát của nhân dân. Do đó, tăng cường phản biện,
giám sát là phát huy quyền làm chủ của người dân. Muốn giám sát và phản biện tốt, phải

nâng cao dân trí, bởi dân trí là tiền đề của dân chủ.


+ bộ máy công quyền mạnh, thể chế nhà nước mạnh, hệ thống pháp luật phải minh bạch,
rõ ràng. Phải có thể chế quyền lực minh bạch dân chủ. Cán bộ công quyền trong bộ máy
phải có năng lực.
- Yêu cầu đối với nhà báo:

+ chất lượng đối với nhà báo: phẩm chất, năng lực và điều kiện làm việc
+ Mọi thông tin báo chí phải phục vụ bảo vệ đất nước.
e. Chức năng quảng cáo và dịch vụ kinh tế báo chí:
- Quảng cáo là gì? Quảng cáo tập trung nói về thuộc tính của hàng hóa. Nó rất mạnh mẽ.
- Cần chuyên nghiệp hoá lao động. Quảng cáo tự thân vận động không tốt, sống như tầm
-

-

gửi. Quảng cáo sống nhờ truyền thông đại chúng nhưng nó cũng nuôi lại truyền thông.
Thông điệp quảng cáo phải chú ý tới khía cạnh ảnh hưởng, đặc biệt là chính trị  hình
thành kinh tế báo chí truyền thông.
Không vì lợi ích kinh tế mà hạ thấp lợi ích chính trị
Đây là một loạt sản phẩm hàng hoá càng nhiều người dùng, gía trị trị sử dụng của nó
càng cao (khác với các loại sản phẩm khác). Đặc điểm này phản ánh nó gắn liền với
quần chúng, gắn liền với xã hội.
Yêu cầu:
+ Phải nhận thức được hoạt động kinh doanh vì công chúng
+ quan hệ công chúng sinh ra trong hoạt động báo chí truyền thông

- Cac loại dịch vụ đều tính đến chiến lược phát triển.


Những chức năng của báo chí có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo thành những
mắt xích của một hệ thống hoàn chỉnh, chặt chẽ. Nằm trong sự tác động qua lại thường
xuyên, các chức năng này được thực hiện bằng những hình thức khác nhau. Do đó, vai
trò thực tế của báo chí trong xã hội chỉ được hình dung đầy đủ khi hoạt động của nó được
xem xét như một quá trình tập thể, hệ thống tổng hợp, khi các kết luận và những kết quả
hoạt động của nó là kết luận và hoạt động của các loại hình và phương thức củ hệ thống
báo chí thống nhất. Việc tách ra và phân tích các chức năng báo chí về mặt lý luận chỉ có
ý nghĩa khi người ta hiểu đầy đủ hơn về mối quan hệ thống nhất giữa chúng và từ đó sử
dụng có hiệu quả hơn mối quan hệ đó vào hoạt động thực tiễn báo chí.
Câu 2: Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động báo chí ?
Tại sao báo chí cần nguyên tắc?
- Trình độ nhà báo và dân trí ngày càng cao. Do vậy yêu cầu báo chí ngày càng khắt khe và

hoạt động chuyên nghiệp hơn.
- Các quy tăc, chuẩn mực chung giúp cho báo chí hoạt động thực hiện đúng chức
năng của mình gọi là nguyên tắc báo chí. Nguyên tắc hoạt động báo chí là yêu cầu
khách quan, có tính phổ biến. Trong xã hội, hoạt động của mọi con người đều có mục


đích: mưu sinh, nghệ thuật, chính trị. Mỗi mục đích lại yêu cầu mọi người tuân thủ cách
thức hoạt động, bị chi phối bởi những yếu tố khách quan và do con người đặt ra. Nguyên
tắc sinh ra để đảm bảo lợi ích của con người và chủ thể. Nguyên tắc đặt ra là để đảm bảo
thực hiện tốt chức năng của báo chí.
Nguyên tắc cơ bản: (5 nguyên tắc)
1. Tính khách quan, chân thật. Đây là nguyên tắc gốc của hoạt động báo chí. Uy tín và
hiệu quả của báo chí phụ thuộc vào tinh chất khách quan, chân thật của những thông tin
mà nó đem đến cho công chúng. Một tờ báo đưa tin sai, dù sau đó đính chính, sẽ tự hạ
thấo vị trí của mình trong lòng độc giả. Một nhà báo viết sai sự thật, chẳng những vi
phạm đạo đức nghề nghiệp mà còn gây tổn hại rất nhiều cho xã hội, do đó, sẽ bị xã hội
tẩy chay, lên án.

2. Tính Đảng
+ Về khía cạnh xã hội, tính Đảng quy định các mặt hoạt động của báo chí trong toàn bộ
quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình. Nhà báo nhìn nhận, đánh giá các
sự kiện theo quan điểm đường lối của Đảng. Điều đó không hạn chế khả năng hoạt động
sáng tạo và phát triển chính kiến của người làm báo. Trái lại, đường lối quan điểm của
Đảng là căn cứ xuất phát để nhà báo phát huy trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân
to lớn của mình trong quá trình thông tin và lý giải những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
+ Về mặt tổ chức, báo chí là một ngành hoạt động chính trị - tư tưởng trong toàn bộ hệ
thống xã hội. Xã hội đó được quản lý bằng một nhà nước pháp quyền, mọi ngành, mọi
người đều phải sống và hoạt động tuân theo pháp luật. Tính Đảng đòi hỏi báo chí phải
hoạt động theo đúng pháp luật, trong khuôn khổ pháp luật.
+ Về mặt tư tưởng tinh thần, tính Đảng đòi hỏi báo chí tham gia tích cực vào việc tuyên
truyền, phổ biến và hình thành dòng tư tưởng chủ lưu tích cực và tiến bộ trong xã hội.
Nền tảng khoa học của dòng tư tưởng đó là học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Với tư cách là một vũ khí tư tưởng sắc bén, bằng những lợi thế và đặc trưng nghề
nghiệp của mình, báo chí là một kênh hết sức quan trọng trong toàn bộ các kênh của
công tác tư tưởng. Báo chí phải bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ nhà nước XHCN Việt Nam.
3. Tính nhân đạo của báo chí:
+ Bản chất nhân đoạ của báo chí cách mạng được thể hiện ngay trong nguyên tắc cao
nhất của nó là nguyên tắc tính Đảng.
+ Nguyên tắc nhân đạo thể hiện ở chỗ nhiệt tình phản ánh và tham gia cuộc đấu tranh
nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi cho người về kinh tế - xã hội và văn hoá-tinh


thần, đấu tranh bảo vệ quyền con người, quyền dân chủ của con người, bảo vệ những giá
trị nhân đạo chân chính.
+ Báo chí thể hiện tính nhân đạo của mình ở chỗ đấu tranh chống lại các hành vi làm tổ
hại đến quyền con người, quyền dân chủ, quyền được sống độc lập tự do của con người.
Báo chí tham gia tích cực vào việc xây dựng một chế độ xã hội tất cả vì con người, cho
con người, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng cũng như mối quan hệ cá

nhân với cộng đồng và ngược lại.
4. Nguyên tắc có tầm nhìn xa, rộng và nhân văn hơn
+ Loài người đang bước vào nền văn minh thứ ba với tất cả những thành tựu kỳ diệu của
cách mạng khoa học và công nghê. Mặt khác, loài người cũng đang đứng trước những
hiểm hoạ khác, đe doạ tàn phá môi trường sống, huỷ hoại nhân tính con người, chàn đạp
các giá trị văn hoá, tinh thần xã hội. Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo của báo chí, nhiều
nhà báo đã lo lắng, lên tiếng cảnh tỉnh nhân loại về những hiểm hoạ đó. Báo chí đang
bước vào một cuộc chiến đấu mới, bảo vệ văn minh của loài người, xứng đáng là tiếng
nói của lương tâm nhân loại.
5. Tính dân tộc và quốc tế:
+ Baó chí phải tham gia phản ánh và giải quyết toàn bộ, nhất là những vấn đề trọng đại,
bức xúc của dân tộc.
+ Báo chí góp phần đắc lực vào việc gìn giữu và phát huy bản sắc dân tộc, văn hoá dân
tộc và các giá trị cao quý khác của dân tộc.
+ Tinh thần đoàn kết và hợp tác quốc tế trong hoạt động báo chí còn được quy định bởi
nhu cầu mở rộng thông tin của công chúng, bởi phạm vi và tính chất nghề nghiệp của
bản thân nhà báo, và đặc việt xu thế quốc tế hoá mọi mặt hoạt động của đời sống nhân
loại, do trình độ phát triển của xã hội, sự biến động của tình hình và tác động của cách
mạng khoa học và công nghệ. Tinh thân quốc tế chân chính thể hiện ở chỗ, báo chí bày
tỏ thái độ ủng hộ các phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc và tiến bộ xã hội
của nhân dân các dân tộc trên thế giới, trực tiếp tham gia các phong trào có quy mô toàn
cầu bảo vệ môi trường, đấu tranh vì một trật tự thế giới bình đẳng

TÁC PHẨM BÁO CHÍ


Câu 1: Tác phẩm báo chí – các yếu tố nội dung và hình thức
Tác phẩm báo chí là một chỉnh thể, trong đó mối quan hệ hữu cơ giữa nội dung và
hình thức là quan hệ bên trong cơ bản của nó. Tính chất chỉnh thể của tác phẩm báo
chí mang ý nghĩa tương đối trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí hoàn chỉnh.

Trong thông tin báo chí, sản phẩm báo chí hoàn chỉnh ( tờ báo, bản tin, chương
trình phát thanh truyền hình) giữ vai trò phương tiện giao tiếp giữa chủ thể và khách
thể thông tin. Một tác phẩm báo chí dù hay đến đâu, chất lượng thông tin cao thế
nào cũng không có ý nghĩa nếu nó không được chuyển tải đến công chúng qua sản
phẩm báo chí hoàn chỉnh. Tuy nhiên, trong các sản phẩm báo chí hoàn chỉnh, tác
phẩm báo chí lại mang tính đối lập tương đối. Công chúng tiếp nhận, đánh giá nó
như một chỉnh thể tương đối độc lập và tác phẩm báo chí sẽ tác động vào xã hôi tùy
theo tính chất, ý nghĩa của những thông điệp được chuyển tải trong đó. Chính mối
quan hệ giữa tác phẩm và sản phẩm báo chí là một trong những yếu tố chi phối tính
chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể trong hoạt động báo chí.
Khi xem xét một tác phẩm báo chí, người ta thường quan tâm đến hai phương diện
chủ yếu của nó là nội dung và hình thức. Hai phương diện này gắn bó hữu cơ, chi
phối lẫn nhau để tạo nên chất lượng chung của tác phẩm báo chí.
Nội dung tác phẩm báo chí là một phạm vi, một bộ phận cuộc sống hiện thực được
phản ánh qua sự lựa chọn, nhận thức sáng tạo của nhà báo. Những tiêu chí về nội
dung có ý nghĩa quyết định trong việc đánh giá chất lượng tác phẩm báo chí. Trong
tác phẩm báo chí có thể phân biệt các yếu tố nội dung chính sau đây: Sự kiện, chi
tiết, chính kiến, vấn đề, đề tài và tư tưởng.
Hình thức bao gồm: Kết cấu, thể loại, ngôn ngữ, các biện pháp sáng tạo tác phẩm
báo chí.
Các yếu tố nội dung của tác phẩm báo chí
a. Sự kiện
Sự kiện (event)có vị trí quan trọng nhất trong các yếu tố nội dung. Nó là chất
liệu cơ bản nhất để sáng tạo nên tác phẩm báo chí, là tiêu chí đầu tiên, quan trọng
nhất để đánh giá chất lượng thông tin; là trạng thái tồn tại khác thường của hiện
thực trong một giới hạn không gian và thời gian nhất định được nhà báo quan tâm,
phản ánh trong tác phẩm.
Giới nghiên cứu báo chí và truyền thông phân định làm 2 loại sự kiện: sự
kiện bản thể và sự kiện nhận thức
Sự kiện bản thể: là sự kiện khách quan tồn tại độc lập ngoài ý thức của con

người. Nó là đề tài chung cho mọi phóng viên khai thác


Sự kiện nhận thức: là sự kiện đã được tái hiện trong đầu óc của phóng viên
và được trình bày, lý giải trong tác phẩm báo chí.
Nói một cách khác sự kiện bản thể là đối tượng của tác phẩm báo chí còn sự
kiện nhận thức là nội dung của tác phẩm báo chí.
Sự kiện bản thể chỉ có một nhưng sự kiện nhận thức có thể khác nhau, thậm
chí là đối lập nhau. Sở dĩ xảy ra hiện tượng này là do có sự khác nhau về lập trường
xã hội, nhãn quan chính trị, phương pháp, phương tiện và kỹ năng tiếp cận, đánh
giá sự kiện khách quan của từng tòa báo, từng nhà báo.
Công chúng, Luật báo chí cũng như Quy ước đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo luôn đặt ra yêu cầu hàng đầu đối với các tòa báo và nhà báo là phải phản ánh
chính xác, trung thực về các sự kiện trong cuộc sống. Còn các nhà lý luận truyền
thông thì đòi hỏi trong tác phẩm báo chí phải có sự thống nhất giữa sự kiện bản thể
và sự kiện nhận thức; sự kiện nhận thức càng tiệm cận với sự kiện bản thể bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và đó được coi là dấu hiệu tiên quyết để đánh giá chất
lượng, hiệu quả thông tin của tác phẩm báo chí.
Chi tiết
Chi tiết còn được gọi là tình tiết. Đó là bộ phận nhỏ nhất của sự kiện. Đó có
thể là một hành vi, cử chỉ, lời nói, điệu bộ của con người hoặc màu sắc, đáng vẻ,
trạng thái, hoàn cảnh của sự kiện. Chi tiết có vai trò rất quan trọng trong tác phẩm
báo chí, đặc biệt là các tác phẩm thuộc thể loại phóng sự, điều tra, ký sự, ký chân
dung, tiểu phẩm… bởi chi tiết vừa làm cho sự kiện trở nên cụ thể, trực quan vừa
khắc họa được nét chân dung, tính cách con người đồng thời nó cũng góp phần bộc
lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
Tài năng, bản lĩnh của nhà báo không chỉ thể hiện ở chỗ biết ngửi thấy và
nắm bắt nhiều chi tiết về sự kiện mà còn là ở chỗ biết chọn lọc những chi tiết điển
hình, giàu tính biểu hiện nhất để đưa vào. Một tác phẩm báo chí hay không hẳn là
tác phẩm có nhiều chi tiết mà là tác phẩm có những chi tiết được chọn lọc một cách

đặc địa nhất.
Chính kiến
Chính kiến là những ý kiến, quan điểm, thái độ lớn hơn là lập trường, tư
tưởng của nhà báo được thể hiện trong tác phẩm. Nó còn thể hiện ở sự đánh giá,
kiến nghị của một nhà báo trước một sự kiện, vấn đề nào đó đặt ra trong tác phẩm.
Chính kiến có vai trò quan trọng trong tác phẩm báo chí nói riêng và hoạt
động báo chí nói chung. Bởi vì thể hiện chính kiến tức là bộc lộ quan điểm chủ
quan của nhà báo ( người viết). Có thể nói chính kiến là sự chi phối của nhà báo
trước sự kiện. Thể hiện chính kiến, nhà báo làm được nhiệm vụ quan trọng của báo
chí của sứ mệnh người làm báo, là định hướng cho dư luận. Nếu nói hoạt động báo
chí là hoạt động chính trị- xã hội thì chính kiến là nơi thể hiện đặc điểm này rõ rệt
nhất.


Chính kiến là yếu tố quan trọng của nội dung nhưng thể hiện nó trong tác
phẩm tùy thuộc vào nhiều mối quan hệ khác nhau.
Sự kiện bao giờ cũng chiếm vị trí thứ nhất trong mối quan hệ với chính kiến
của tác giả; sự kiện là điều kiện cơ sở, tiên quyết để nhà báo dựa vào đó thể hiện
chính kiến của mình. Ngược lại, thể hiện được chính kiến, tác phẩm báo chí được
đặt trong mối liên hệ sự kiện này với sự kiện khác. Hơn nữa chính kiến được thể
hiện tăng cường khả năng định hướng, tăng cường khả năng tác động của báo chí
với xã hội. Điều quan trọng khi thể hiện chính kiến là tùy thuộc khả năng từng nhà
báo, tùy thuộc vào từng thể loại báo chí ( chẳng hạn như các thể loại thông tấn thì
sự thể hiện chính kiến của nhà báo không trực tiếp như các tác phẩm chính luận.
Bởi vì các tác phẩm thông tấn mục đích của chúng là thông tin sự kiện cho nên cái
tôi của nhà báo nhiều khi lùi laị hoặc ẩn đi nhường cho sự kiện được thể hiện khách
quan hơn. Chính kiến là loại thông tin thuộc lĩnh vực chủ quan nhà báo. Trong lúc
đó thì sự kiện tiềm tàng trong bản thân nó là khách quan. Vì thế, sự kiện có nhiều
ưu thế hơn về mặt tâm lý khi công chúng tiếp nhận thông tin. Ngược lại, công
chúng có tâm lý cảnh giác khi tiếp nhận những thông tin về chính kiến của nhà báo.

Bởi vì, thông tin đó bị chi phối bởi những quan điểm, thái độ và khả năng nhận thức
của một cá nhân. Chính vì thế, những chính kiến trong các tác phẩm báo chí phải có
tính thuyết phục. Tính thuyết phục ấy dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn đúng
đắn, khách quan. Toàn bộ sự lý giải, phân tích để đi đến những nhận định, đánh giá,
kiến nghị phải dựa trên những tài liệu, chứng cứ hợp lý.
Vấn đề
Vấn đề là một trong những thành tố nội dung trong tác phẩm báo chí nhằm
phản ánh hiện thực đời sống xã hội một cách khái quát. Vấn đề được hình thành từ
tình huống có vấn đề. Có thể hiểu, tình huống có vấn đề là tình huống trong đó xuất
hiện mâu thuẫn giữa thực trạng và yêu cầu, giữa những chiều hướng vận động khác
nhau của các tiến trình xã hội hoặc mâu thuẫn giữa qui mô, tính chất khách quan
của sự kiện, hiện tượng với nhận thức hiện thời về chúng. Vần đề là kết quả của
tình huống có vấn đề và biểu hiện dưới hình thức lô gích là một câu hỏi. Việc tìm
ra câu hỏi cho vấn đề đặt ra là yêu cầu của xã hội.Ví dụ người ta nói vấn đề môi
trường ở địa phương A được đặt ra bức xúc bởi nó chính là kết quả của quá trình
vận động của địa phương đó, sự vận động dẫn đến vấn đề, người ta gọi là vấn đề
hôm nay.
So với sự kiện, vấn đề có kết cấu nội dung phức tạp hơn. Vấn đề không phản
ánh một mối quan hệ mà là tổng hợp nhiều mối quan hệ, mâu thuẫn giữa các đối
tượng. Việc phát hiện và phản ánh vào tác phẩm những vấn đề có ý nghĩa đối với
đời sống xã hội là một biểu hiện về chất lượng của tác phẩm báo chí. Để có thể phát
hiện vấn đề, yêu cầu đặt ra đối với nhà báo là phải có những tri thức đầy đủ về lĩnh
vực mình quan tâm, bám sát thực tiễn, hiểu biết rõ những mối quan hệ khác nhau
giữa các yếu tố, các bộ phận trong lĩnh vực đó.


Mặt khác, nhà báo phải nhanh nhạy nắm bắt kịp thời các chiều hướng vận
động cũng như những yêu cầu, đòi hỏi đang đặt ra.
Phạm vi của một vấn đề trong báo chí có thể chỉ được hạn chế bởi quan niệm
về đề tài. Đó là những vấn đề trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, chính trị, an

ninh- quốc phòng, văn hóa, khoa học… Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, vấn đề
phản ánh mối quan hệ giữa một số lĩnh vực khác nhau, là biểu hiện tập trung, khái
quát của một cụm các vấn đề liên quan với nhau. Đó thường là những vấn đề lớn,
có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội. Việc phản ánh và giải quyết
chúng đòi hỏi có sự tập trung đầu tư thích đáng của nhiều nhà báo, nhiều cơ quan
báo chí. Về tâm lý, việc phản ánh những vấn đề cụ thể, đưa ra câu trả lời xác đáng
và kịp thời thường thu hút sự tập trung chú ý của công chúng khi tiếp nhận thông
tin.
Đề tài
Là phạm vi hiện thực đời sống được nhà báo phản ánh trực tiếp trong tác
phẩm. Đề tài là một khái niệm rất rộng và thường co giãn tùy theo góc độ nhìn nhận
và phương pháp của người nghiên cứu.
Xét trên mối quan hệ con người với khách thể thì có thể nói đến hai đề tài
bao quát, đó là đề tài tự nhiên và đề tài xã hội.( Trong báo giới thường gọi là các
vấn đề tư nhiên và vấn đề xã hội.)
Xét trên mối quan hệ giữa dân tộc với quốc tế, có thể nói đến đề tài quốc nội
(trong nước) và đề tài thế giới. (Trong báo giới thường gọi là thông tin trong nước
và thông tin quốc tế, hoặc vấn đề quốc nội và vấn đề quốc ngoại).
Xét ở phạm vi xã hội, đề tài được hiểu là các lĩnh vực hoạt động khác nhau
của con người. Trong đời sống có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động thì cũng có bấy
nhiêu đề tài tương ứng cho báo chí. Chẳng hạn các đề tài: kinh tế, chính trị, văn
hóa, giáo dục, y tế, thể thao, giải trí, khoa học, công nghệ, nông nghiệp, công
nghiệp…
Xét trên bình diện con người có thể chia đề tài theo giới tính và độ tuổi hoặc
nghề nghiệp như: phụ nữ, thanh niên, sinh viên, học sinh, nhi đồng, người cao tuổi,
giới trẻ…
Đề tài vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Đề tào do đời
sống cung cấp nhưng việc chọn đề tài nào lại phụ thuộc vào lập trường, quan điểm,
mục đích, tôn chỉ của tòa báo và của phóng viên. Do vậy, mức độ quan tâm khai
thác về cùng một đề tài giữa các tờ báo và các phóng viên thường rất khác nhau.

Từ góc độ đề tài, người nghiên cứu có thể đưa ra những phán đoán về vị trí,
vai trò cũng như đóng góp của một tờ báo, một nhà báo thậm chí là cả một giai
đoạn phát triển báo chí cụ thể. Thông thường, một tờ báo lớn, một nhà báo tài năng,
một giai đoạn báo chí sôi động luôn chiếm lĩnh và thể hiện được nhiều loại đề tài
khác nhau, bao quát được các sự kiện và tiến trình cơ bản của đời sống xã hội và
lịch sử.


Ngày nay, cuộc sống xã hội đang mở rộng về mọi phía, khoảng cách không
gian, thời gian đều rút ngắn tối đa nhờ các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã cung
cấp cho báo chí biết bao nhiêu đề tài phong phú. Vì vậy, xu hướng chung của các tờ
báo, đặc biệt là các nhật báo, các đài phát thanh truyền hình đều phân chia đề tài
nhỏ hơn hoặc chuyên sâu hơn cho độ ngũ phóng viên của mình với tham vọng
không bỏ sót điều gì mới lạ đã và đang xảy ra trong cuộc sống. Chẳng hạn, đề tài
văn hóa nghệ thuật có thể phân chia ra làm mấy đề tài cụ thể hơn: văn học, sân
khấu, điện ảnh, âm nhạc, lễ hội… Đề tài giáo dục có thể chia làm các đề tài nhỏ hơn
như: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại
học và sau đại học….
Đề tài có vị trí đầu tiên, có vai trò tiền tố trong mối quan hệ với các yếu tố
khác trong tác phẩm. Nó có thể là yếu tố đầu tiên nhà báo tiếp cận hiện thực cuộc
sống. Đến với đời sống xã hội nhà báo đến với một đề tài nhất định. Vì thế, về một
mặt nào đó đề tài gần với khái niệm đối tượng phản ánh. Việc phân chia đề tài được
coi như là cơ sở để tổ chức hoạt động của cơ quan báo chí, đội ngũ phóng viên
nhằm khai thác được thế mạnh của từng người trong vốn học vấn, vốn tri thức nghề
nghiệp và vốn sống của họ. Từ đó, định hướng nghề nghiệp có tính chất chuyên sâu
để tích lũy lâu dài.
Tất nhiên hạn chế của việc phân chia đề tài theo kiểu chuyên môn cũng sẽ
làm cho phóng viên lúng túng khi tiếp cận đề tài mới. Tính trơ mòn khi chỉ vẫy
vùng trong một vương quốc của mình sẽ làm ảnh hưởng đến đề tài rộng mà cuộc
sống đặt ra.

Tư tưởng
Tư tưởng là nhận thức, lý giải và thái độ của nhà báo đối với toàn bộ nội
dung cụ thể của tác phẩm cũng như những vấn đề triết lý, nhân sinh đặt ra trong đó.
Tư tưởng là phần nội dung trừu tượng khái quát của tác phẩm.
Tư tưởng trong tác phẩm báo chí nói lên ý đồ, mục đích, chính kiến của tòa
báo và nhà báo bày tỏ thái độ khen hay chê, ủng hộ hay đả phá, đồng cảm hay phản
đối, khẳng định hay phủ định mặt nào đó của đời sống xã hội. Hơn thế, nhiều bài
báo còn hướng người đọc đến một tư tưởng khoa học, triết học hay tôn giáo nào đó
mà mình đang theo đuổi và muốn nó trở nên đại chúng hóa.
Tư tưởng là linh hồn làm nên sức sống và giá trị nội dung của tác phẩm, nó
thường biểu hiện ở các động từ, tính từ trong nhan đề; ở sự kiện và chi tiết của tác
phẩm. Xác định tư tưởng của tác phẩm báo chí là việc tương đối khó. Bởi vì tư
tưởng trong tác phẩm báo chí là một phức hợp, nó vừa có phần chủ quan vừa có
phần khách quan.
Tư tưởng chủ quan là điều nhà báo muốn thông điệp đến công chúng qua
việc chọn lựa, sắp xếp, trình bày, thể hiện các sự kiện và chi tiết trong tác phẩm.
Còn tư tưởng khách quan là tư tưởng của công chúng có được sau khi đọc và lĩnh
hội nội dung cụ thể của tác phẩm. Tư tưởng khách quan thường phong phú và rộng


lớn hơn tư tưởng chủ quan. Bởi vì, thực tế có những điều công chúng thu hoạch
được hoàn toàn không nằm trong dự kiến của tác giả và tòa báo.
Tuy nhiên, cũng cần phân biệt tư tưởng chủ quan và tư tưởng khách quan của
tác phẩm báo chí. Vì công chúng là số đông người thuộc nhiều thành phần, lứa tuổi
có lập trường, quan điểm và thị hiếu khác nhau. Hơn nữa, trong quá trình chuyển tải
nội dung thông tin từ tờ báo đến công chúng thường xảy ra hiện tượng nhiễu (noise)
nên tư tưởng khách quan không chỉ khác mà đôi khi còn đối lập với tư tưởng chủ
quan. Đó là trường hợp tác phẩm gây ra những tư tưởng và hiệu ứng ngược, chống
lại tác giả và tòa báo của nó.
Tóm lại, nội dung tác phẩm báo chí tuy phân định thành nhiều yếu tố, nhưng

ranh giới giữa chúng chỉ có tính ước lệ và tương đối. Các yếu tố cũng không tồn tại
một cách biệt lập mà chúng gắn kết hữu cơ cùng tạo nên năng lượng và giá trị của
nội dung nói riêng và cả chỉnh thể tác phẩm báo chí nói chung.
Các yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí
Khái niệm hình thức của tác phẩm báo chí
Hình thức là biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. Không có
hình thức thì nội dung không có cơ sở tồn tại. Trong tác phẩm báo chí, hình thức
chính là tác động hợp thành của nhiều yếu tố gồm nghệ thuật sử dụng ngôn từ, các
quy định của thể loại, những biện pháp kết cấu và kỹ thuật trình bày. Tất cả nhằm
để biểu hiện nội dung của tác phẩm, tạo nên dạng tồn tại mang tính chỉnh thể, tính
thống nhất của tác phẩm.
Nói ngắn gọn, hình thức của tác phẩm báo chí là toàn bộ các yếu tố chứa
đựng, biểu hiện và chuyển tải nội dung của tác phẩm báo chí.
Các yếu tố hình thức của tác phẩm báo chí
Hình thức của tác phẩm báo chí thường được xem xét trên 3 yếu tố chính là
kết cấu, ngôn ngữ và thể loại.
Kết cấu
Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là
sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu làm nên nội dung của tác phẩm trên cơ
sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.
Nói dung dị là cách sắp xếp các yếu tố bên trong tác phẩm như sự kiện, tình
tiết, quan hệ và sự tổ chức các yếu tố bên ngoài tác phẩm như phân đoạn, phân chia
kỳ, bố trí ảnh theo một trật tự nào đó được gọi là kết cấu.
Kết cấu vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan. Khách quan vì khi
miêu tả, tái hiện các sự kiện, hiện tượng trong đời sống nhà báo phải tuân thủ trật tự
các chi tiết và kết cấu của đối tượng. Chẳng hạn tường thuật một trận bóng đá, một
kỳ họp Quốc hội, một phiên tòa…
Còn chủ quan là vì việc chọn lựa và sử dụng lối kết cấu nào trong tác phẩm
còn phụ thuộc vào tư tưởng, ý đồ nghệ thuật, sở trường và phong cách của nhà báo.



Ngoài nhiệm vụ nối kết các yếu tố, chi tiết thành một chỉnh thể thống nhất,
kết cấu còn giúp tác giả thể hiện mâu thuẫn, xung đột trong tác phẩm. Nhưng quan
trọng hơn là nó góp phần làm sâu sắc chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Kết cấu rất đa dạng, có thể nói có bao nhiêu tác phẩm thì có bấy nhiêu kết
cấu. Tuy nhiên bằng khả năng trừu tượng và sự tổng kết lịch sử báo chí, người ta đã
khái quát thành 6 kiểu kết cấu phổ biến.
Kiểu kết cấu theo trình tự thời gian
Tác phẩm có kết cấu này sẽ tái hiện sự kiện, hiện tượng theo trật tự thời gian
tuyến tính. Chi tiết nào xảy ra trước trình bày trước, chi tiết nào xảy ra sau thì trình
bày sau. Kiểu kết cấu này thường được sử dụng trong thể loại tường thuật, ghi
nhanh, đặc biệt là trong thể loại tường thuật trực tiếp trên sóng PTTH, báo trực
tuyến.
Kiểu kết cấu theo quan hệ trực tiếp
Tác phẩm có kết cấu này sẽ tái hiện sự kiện, hiện tượng theo thứ tự quan hệ
giữa các chi tiết vốn có trong hiện thực khách quan. Đó là các trật tự: trước – sau,
trên – dưới, xa – gần, trong – ngoài, khách – chủ… Kiểu kết cấu này thường được
sử dụng trong các thể loại ký chân dung, phóng sự, điều tra, tường thuật…
Kiểu kết cấu theo logic hình thức tư duy
Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày sự kiện, hiện tượng, vấn đề quy luật tư
duy, nhận thức của con người, theo phương pháp tam đoạn, quy nạp hoặc diễn dịch.
Kiểu kết cấu này thường được dùng trong các thể loại bình luận, xã luận, chuyên
luận, sổ tay phóng viên…
Kiểu kết cấu đối lập so sánh
Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày các sự kiện, chi tiết theo hai hướng đối
lập nhau như: ta – địch, tốt – xấu, thiện – ác, tích cực – tiêu cực, giàu – nghèo, cũ –
mới, già – trẻ… Kiểu kết cấu này thường được sử dụng trong các thể loại phóng sự,
bình luận, tiểu phẩm…
Kiểu kết cấu hình tháp ngược
Tác phẩm có kết cấu này sẽ trình bày các chi tiết, thông tin theo thứ giảm

dần tính chất quan trọng và trực tiếp. Kiểu kết cấu này thường dùng trong các tác
phẩm thông tấn (tin, phỏng vấn, tường thuật…)
Kiểu kết cấu liên tưởng
Tác phẩm có kết cấu này nhà báo thường trình bày các sự kiện, vấn đề, chi
tiết xung quanh một “trục” trung tâm- một quan niệm, một nhận định nào đó.
Những sự kiện, vấn đề liên quan gắn bó với “ trục” trung tâm thông qua những mối
quan hệ phong phú mà đôi khi đó chỉ là một liên tưởng bất ngờ. Mỗi một chi tiết
trong kiểu kết cấu này góp phần khẳng định, làm tôn giá trị của quan điểm, nhận
định trung tâm từ một bình diện rộng. Người ta thường gặp kiểu kết cấu này trong
một số bài ghi nhanh, chuyên luận hay ký báo chí.


Thực ra, kết cấu có vai trò rất quan trọng trong việc chuyển tải nội dung
thông tin cũng như bố cục hình thức của tác phẩm.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm báo chí. Ngôn ngữ
là phương tiện chuyển tải toàn bộ nội dung tác phẩm báo chí. Vì thế tài năng hay
hiệu quả của báo chí không thể tách rời khả năng sử dụng ngôn ngữ.
Các nhà ngôn ngữ học hiện đại, bắt đầu từ Ferdinand De Saussure, đã phân biệt khá
rõ 3 khái niệm: ngôn ngữ, lời nói và ngôn từ.
Ngôn ngữ: là tổng thể các đơn vị, các phương tiện, các kết hợp mà lời nói sử
dụng gồm các phần ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và các biện pháp tu từ. Nó là phần
khái quát và trừu tượng nhất của lời nói.
Lời nói: Là hình thức tồn tại thực tế của ngôn ngữ. Nó phong phú, đa dạng
và sinh động hơn ngôn ngữ. cái mà người ta sử dụng trong giao tiếp hằng ngày là
lời nói chứ không phải là ngôn ngữ.
Ngôn từ: là lời nói viết mà người ta dùng làm chất liệu để sáng tác văn học.
Ngôn từ chính là lời nói được sử dụng với tất cả phẩm chất thẩm mỹ và khả năng
nghệ thuật của nó vào mục đích sáng tác văn học.
Ngôn ngữ báo chí là một khái niệm tương đối rộng dùng để chỉ tất cả các

chất liệu làm nên tác phẩm báo chí, gồm lời nói, viết, âm thanh, hình ảnh, màu
sắc… Trong đó, lời nói viết là yếu tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định các yếu
tố khác. Do vậy, khi nói đến ngôn ngữ báo chí, các nhà ngôn ngữ học và các nhà
nghiên cứu truyền thông chủ yếu xem xét lời nói viết được sử dụng trong tác phẩm
báo chí như thế nào và khu biệt với lời nói viết trong tác phẩm thuộc các hình thái ý
thức xã hội khác (văn chương, triết học, chính trị, tôn giáo, pháp luật…)
Thực ra ngôn ngữ báo chí là ngôn từ được sử dụng trong tác phẩm báo chí là
một cách hiểu hạn hẹp và thiếu chặt chẽ về mặt khoa học. Nhưng đây là một tập
quán khó thay đổi. Theo cách hiểu ấy, ngôn ngữ báo chí có 3 đặc trưng nổi bật sau:
Ngôn ngữ báo chí có tính chính xác, khách quan
Đặc trưng này được quy định bởi chức năng quan yếu của báo chí là chức
năng thông tin – giao tiếp. Nhà báo có nhiệm vụ phản ánh trung thực từ những sự
kiện, hiện tượng vốn có như chúng đã và đang diễn ra trong hiện thực đời sống.
Ngôn ngữ báo chí phải tái hiện được sự kiện hiện tượng với những chi tiết cụ
thể, chính xác. Trong tác phẩm báo chí, các câu hỏi cơ bản 5W + 1H được trả lời rõ
ràng, khúc chiết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nói một cách khác, ngôn ngữ báo chí
trước hết là ngôn ngữ của sự kiện, nhằm tái hiện sự kiện khách quan.
Tính chính xác, khách quan của ngôn ngữ báo chí đặt ra yêu cầu tối quan
trọng ở nhà báo là phải luôn hết sức thận trọng khi lấy tư liệu, đồng thời cũng phải
cân nhắc, chọn lựa trong việc sử dụng từ ngữ, chi tiết, cách diễn đạt nhằm mang lại
nội dung rõ ràng, xác định cho tác phẩm. Về nguyên tắc những từ ngữ nước đôi,
không rõ nghĩa đều bị loại bỏ không thương tiếc trong tác phẩm báo chí.


Tuy nhiên, tính chính xác và khách quan của ngôn ngữ báo chí không có
nghĩa phóng viên đưa tất cả sự thật nghe thấy và ghi chép được vào tác phẩm. Chỉ
những sự thật có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tư tưởng mới được ưu tiên chọn lựa.
Hơn nữa, có nhiều chi tiết có thật nhưng vì lý do kiểm duyệt, hoặc vì lý do bảo vệ
người cung cấp thông tin, hoặc vì lý do nhân đạo mà không thể đưa ra một cách
“chính xác, khách quan” trên mặt báo. Nhưng phóng viên cần có những sự thật ấy

và nên lưu giữ cẩn thận để đối chứng trong các trường hợp cần thiết. Một nguyên
tắc căn bản của hoạt động báo chí là phải xuất phát từ sự kiện bản thể và ngôn ngữ
báo chí phải là ngôn ngữ sự kiện khách quan.
Ngôn ngữ báo chí có tính chất tiết kiệm, ngắn gọn và hàm súc
Đặc trưng này được quy định bởi tính thời sự của thông tin báo chí, bởi giới
hạn về diện tích trên mặt báo, thời lượng trên sóng phát thanh, truyền hình và điều
kiện tiếp nhận thông tin của công chúng. Một sự kiện nóng sốt mới xảy ra hoặc sự
kiện đang diễn tiến, chưa có nhiều chi tiết nhưng nhà báo không thể bỏ qua cơ hội
thông tin đến công chúng thì cách tốt nhất là anh ta viết thành một tin ngắn. Báo chí
luôn cần sự đa dạng thông tin do vậy một tác phẩm báo chí không thể quá dài. Các
chương trình trên sóng PTTH đều bị khống chế ngặt nghèo về thời gian cho nên tác
phẩm báo chí cần ngắn gọn để có thể chuyển tải được nhiều tác phẩm, nhiều
chương trình trong một thời lượng nhất định. Tính chất tiết kiệm, ngắn gọn và hàm
súc thể hiện ở chỗ trong một dung lượng, thời lượng nhỏ nhất nhưng tác phẩm báo
chí phải chuyển tải được một nội dung chính xác, rõ ràng và dễ hiểu nhất.
Ngôn ngữ báo chí có tính phổ cập và đại chúng
Đặc trưng này bắt nguồn từ mục đích và đối tượng phục vụ của báo chí. Mục
đích của báo chí là phổ biến thông tin rộng rãi cho mọi người. Đối tượng phục vụ
của báo chí là đối tượng công chúng đông đảo, bao gồm nhiều thành phần, lứa tuổi,
giới tính và nghề nghiệp khác nhau. Cho nên, ngôn ngữ báo chí phải phù hợp với
trình độ chung của công chúng, đảm bảo khả năng tiếp nhận của công chúng.
Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của đời sống, gần gũi với lời nói và cách nghĩ
của số đông công chúng. Nó không cầu kỳ, ước lệ, hoa mỹ như ngôn ngữ văn
chương. Nó cũng không nôm na, thô vụng như khẩu ngữ. Ngôn ngữ báo chí nằm
giữa ngôn ngữ văn chương, khoa học và khẩu ngữ.
Tính phổ cập và đại chúng của ngôn ngữ báo chí thể hiện ở cách dùng từ,
cách sử dụng các quy tắc ngữ pháp, cách diễn đạt dung dị, dễ hiểu để giúp người
đọc lĩnh hội trọn vẹn nội dung thông tin của tác phẩm. Do vậy, trong ngôn ngữ báo
chí người ta hạn chế sử dụng các từ ngữ chuyên môn, các thuật ngữ khoa học, các
từ Hán Việt. Đồng thời, trong tác phẩm báo chí cũng nên hạn chế sử dụng câu bị

động, câu phức hợp, nhiều mệnh đề hoặc nhiều thành phần cùng loại. Tuy nhiên,
phổ cập và đại chúng không có nghĩa là dung tục hóa, thô thiển hóa ngôn ngữ báo
chí, là hạ thấp yêu cầu về mặt văn hóa giao tiếp, là chạy theo thị hiếu của công
chúng bình dân. Phổ cập và đại chúng nhưng phải gắn với các chuẩn mực ngữ pháp,
với yêu cầu nâng cao trình độ sử dụng tiếng nói của dân tộc. Ngôn ngữ báo chí


hướng đến đại chúng nhưng phải góp phần cải thiện trình độ văn hóa, năng lực diễn
đạt ngôn từ của công chúng.
Thực ra tính phổ cập và đại chúng trong ngôn ngữ báo chí luôn đặt ra yêu
cầu cho cả hai phía: nhà báo và công chúng. Nhà báo phải hướng đến công chúng
đồng thời công chúng cũng phải tự nâng tầm tiếp nhận của mình lên. Có như vậy,
báo chí mới ngày càng hiện đại và phát triển.
Thể loại
Thể loại là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác phẩm báo chí, tương ứng
với một loại nội dung nhất định có một loại hình nhất định, tạo cho tác phẩm một
hình thức tồn tại chỉnh thể. Mỗi thể loại tác phẩm báo chí có yêu cầu, đặc trưng
riêng về phương pháp, dung lượng, góc độ phản ánh hiện thực đời sống.
Thể loại là một yếu tố quan trọng của hình thức tác phẩm báo chí. Tùy theo
thể loại mà việc chọn lựa, sắp xếp các chi tiết, sự kiện cũng như sử dụng kết cấu,
ngôn ngữ khác nhau.
Chẳng hạn, tác phẩm thuộc loại thông tấn như: tin, phỏng vấn, tường thuật
tập trung tái hiện sự kiện, hiện tượng, thường sử dụng kết cấu theo thời gian và
thành phần chủ yếu là câu miêu tả. Còn tác phẩm thuộc loại chính luận như bình
luận, xã luận, chuyên luận thiên về ý tưởng, thường sử dụng kết cấu theo lôgich
hình thức và thành phần chủ yếu là câu phân tích, đánh giá, suy luận, khái quát…
Nhà báo ý thức được thể loại mình viết sẽ chủ động trong việc thu thập, xử
lý thông tin cũng như lựa chọn kết cấu, giọng điệu, lối viết để vừa đáp ứng yêu cầu
về mặt thể loại, vừa thỏa mãn được lượng thông tin và cảm xúc mà người đọc chờ
đợi.

Câu 4 : Tiêu chí đánh giá chất lượng tác phẩm báo chí
Đánh giá chất lượng một tác phẩm báo chí cần tuân thủ nguyên tắc hệ thống chỉnh
thể của nó. Tức là phải xem xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc nội dung, các yếu
tố thuộc hình thức và mức độ thống nhất, hài hòa giữa các yếu tố ấy. Đặc biệt phải
thỏa mãn ít nhất ba tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, sự kiện phải nóng hổi (thời sự)
Thứ hai, tác phẩm phải được cấu thành những chi tiết, tình tiết, số
liệu xác thực, sinh động đầy sức thuyết phục.
Thứ ba, cách trình bày, diễn đạt, kết cấu chặt chẽ, lô gích với ngôn
ngữ, giọng điệu trong sang, dễ hiểu, phù hợp và có sức lôi cuốn đối với
nhóm công chúng- đối tượng.
Tóm lại phải đáp ứng một số tiêu chí cụ thể, có tính chất gợi ý:
1.Trúng: Đề tài, chủ đề phải đánh trúng vào những điểm nóng của đời sống xã hội,
vào sự quan tâm và tầm hiểu biết của công chúng. Tác phẩm phải thể hiện được góc


nhìn, quan điểm mới mẻ về các sự vật, hiện tượng và luôn hướng người tiếp nhận
đến bến bờ Chân – Thiện – Mỹ.
2. Đúng: Tác phẩm phải phản ánh chính xác, trung thực, công bằng hiện thực khách
quan; đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, cũng phải
đúng chính tả, ngữ pháp và đặc trưng thể loại.
3. Rõ: Tác phẩm vừa phải rõ về bố cục, hình ảnh và cách diễn đạt vừa phải rõ về
lập trường, quan điểm và tư tưởng chính trị, xã hội, thẩm mỹ.
4.Nhất quán: Các yếu tố của tác phẩm như: tựa, chapeau, hình ảnh, box, thông tin
đều hướng đến một nội dung, chủ đề duy nhất. Các chi tiết, luận điểm, luận cứ, luận
chứng và giọng điệu trong tác phẩm phải nhất quán và hô ứng với nhau.
5. Ngắn gọn: Lượng câu chữ trong tác phẩm phải được tinh giản tối đa nhưng đảm
bảo thông tin đầy đủ, rõ ràng.
Một nhà báo giỏi không chỉ biết ngửi tin, săn tin – tức là tìm ra đề tài, sự
kiện, chi tiết – mà còn phải biết phát hiện ra vấn đề, biết nêu ra những chủ đề mới

mẻ, bất ngờ, thú vị từ các đề tài, sự kiện, chi tiết đó. Muốn vậy, nhà báo – bên cạnh
các kỹ năng nghề nghiệp bắt buộc đòi hỏi phải có kiến văn rộng, kinh nghiệm dày
dặn, tư duy sắc sảo, tâm hồn nhạy cảm, và nhất là phải có một nhãn quan toàn diện
về lịch sử, đời sống, xã hội, con người.
1. Do đó, trách nhiệm chính trị của nhà báo
- Lý tưởng hành nghề của nhà báo?
- Thông tin báo chí phục vụ ai, bảo vệ ai?
- Từ thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc và bảo vệc, xây dựng đất
nước trong nhiều năm qua, đối với mỗi người dân cũng như các nhà báo
Việt Nam yêu nước chân chính đều tâm niệm một điều rằng, tự do báo chí
có nghĩa là cái gì có lợi cho dân tộc, có lợi cho nhân dân và có lợi cho Đảng
là cứ nói, cứ viết; cái gì bất lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước là không
viết, không nói.
- Thực hiện điều đó đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu vươn lên không ngừng, đồng
thời tích cực đấu tranh chống lại những luận điệu xuyên tạc, bóp méo hoặc
cố tình không hiểu thực tế vấn đề này ở nước ta vì mục đích vụ lợi chính
trị.
- Mặt khác, sử dụng quyền tự do báo chí như thế nào để báo chí phát huy tối
đa sức mạnh của báo chí và sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất
nước còn đòi hỏi ở năng lực, trình độ, phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp
cũng như trách nhiệm xã hội, ý thức công dân của đội ngũ nhà báo.
Câu 10: Các mối quan hệ đạo đức trong quá trình tác nghiệp và
chuẩn mực ứng xử của nhà báo; Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí
Việt Nam ?
1. Các mối quan hệ đạo đức của nhà báo


- Đạo đức là những nguyên tắc, chuẩn mực ứng xử mang tính tự giác
của con người trong mối quan hệ với cộng đồng, xã hội
- Quan hệ đạo đức là những quan hệ về ý thức đạo đức được điều

chỉnh giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể và xã hội. Những
quan hệ này thường được hình thức hoá bằng những nghi thức xã hội,
những phong tục, tập quán... vừa thể hiện ý thức đạo đức, vừa đóng vai trò
hình thành và củng cố ý thức đạo đức.
Đạo đức nghề nghiệp của người làm báo dựa trên cơ sở của những
quan niệm riêng về nghĩa vụ nghề nghiệp và việc hình thành những nghĩa
vụ ấy thông qua việc tôn trọng danh dự và phẩm giá nghề nghiệp, bằng
lương tâm nghề nghiệp của người làm báo. Tùy thuộc vào tính chất của
hành vi mà lương tâm sẽ làm người làm báo kiêu hãnh, thỏa mãn hoặc tự
cảm thấy hổ thẹn, bị sỉ nhục, bị lên án.
1.1. Mối quan hệ với tổ quốc, nhân dân và Đảng
Trọng dân, vì dân, vì lợi ích của Tổ quốc là Tiêu chuẩn hàng đầu đạo
đức nghề nghiệp nhà báo. Đòi hỏi, nhà báo phải luôn kính trọng nhân dân,
tôn trọng, lễ phép, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, yêu thương tin tưởng ở
nhân dân; luôn lắng nghe và chịu sự giám sát của nhân dân. Phải hết lòng
hết sức tận tụy phục vụ nhân dân; luôn hướng tới lợi ích và sự tiến bộ của
nhân dân.
Nhà báo phải biết đặt lợi ích của nhân dân, lợi ích của Tổ Quốc lên
trên hết, không được chạy theo chủ nghĩa cá nhân đơn thuần kiểu “muốn
viết bài cho oai” hay muốn “đăng bài mình lên các báo lớn” mà trước hết
bài viết của mình phải có lợi cho nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ Quốc.
Muốn làm tốt công việc của mình thì phải có tinh thần khiêm tốn,
cầu thị, không ngừng vương lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở cán
bộ báo chí trong Đại hội Hội Nhà báo Việt Nam lần thứ III: “Ngoài những
đồng chí làm báo trong những năm cách mạng và kháng chiến, số đông cán
bộ báo chí đều mới vào nghề. Muốn viết hay, muốn tiến bộ thì phải cố gắng
học hỏi, ra công rèn luyện.. chớ tự ái, tự cho mình là tuyệt rồi. Tự ái tức là
tự phụ, mà tự phụ là kẻ địch dữ tợn, nó ngăn chặn con đường tiến bộ của
chúng ta..”.



1.2. Quan hệ với công chúng
Là quan hệ giữa người sản xuất với người tiêu dùng, giữ vai trò chủ
đạo trong quan hệ đạo đức nghề nghiệp nhà báo. Công chúng là người mà
nhà báo làm việc và dành cho họ thành quả lao động.
Nhà báo có đạo đức sẽ không phóng đại các cuộc xung đột trong bài
viết vì có thể sẽ làm cho tình hình thêm trầm trọng, cũng như không dùng
tin - bài của mình để tạo ra sự căm ghét đối với những người ở những
chủng tộc, tôn giáo hay những nhóm lợi ích khác. Nhà báo giỏi chỉ phục vụ
lợi ích của công chúng, có trách nhiệm với độc giả. Không dùng thông tin
từ nguồn tin của mình để trục lợi.
Trong mối quan hệ này, nhà báo phải Tôn trọng, bảo vệ, lôi cuốn,
định hướng hết lòng vì lợi ích và tiến bộ của công chúng là biểu hiện của
đạo đức nghề nghiệp nhà báo
1.3. Quan hệ với nguồn tin:
Nguồn tin là đối tượng phản ánh của nhà báo gồm các tài liệu, môi
trường, sự kiện và con người (nguồn tin sống) có ý nghĩa quyết định tới
công việc nhà báo. Nhờ quan hệ này mà nhà báo tiếp cận và phản ánh sự
thật.
Nhà báo phải có trách nhiệm không chỉ với công chúng mà cả với
nguồn tin. Ví dụ, nếu nguồn tin cung cấp cho nhà báo một thông tin nhạy
cảm với điều kiện không được nêu tên họ thì nhà báo phải giữ lời. Nhà báo
không được nêu tên nguồn tin ở trong bài hoặc ở những chỗ khác. Việc đó
có thể gây hại cho đời sống cá nhân hoặc công việc của nguồn tin và đôi
khi còn làm nguy hiểm tới tính mạng của họ.
Trong quá trình quan hệ với nguồn tin nhà báo cần:
- Sử dụng hành động đàng hoàng hợp pháp, trừ trường hợp có bằng
chứng rõ ràng về mối đe doạ với sự yên ổn và lợi ích xã hội
- Tôn trọng quyền pháp nhân, không bất nhã gây áp lực hay đe dọa

nguồn tin sống
- Chỉ rõ xuất xứ nguồn tin, trừ những trường hợp đặc biệt cần bảo vệ
các nguồn tin ấy


- Tôn trọng quyền con người, đời tư công dân
1.4. Quan hệ với nhân vật được phản ánh trong tác phẩm:
Đây là, quan hệ tế nhị và phức tạp, nhân vật được phản ánh có thể là
chính diện hay phản diện. Họ đều là con người trong xã hội vì thế cộng
đồng sẽ có những phán xét về họ qua tác phẩm của nhà báo.
Trong mối quan hệ với nhân vật dược phản ánh trong tác phẩm, nhà
báo phải
- Công tâm, không vụ lợi thiên vị
- Tôn trọng quyền con người, quyền đời tư công dân
- Trung thành với hiện thực, không xuyên tạc cuộc đời nhân vật
- Kiềm chế, không kết án nhân vật khi chưa có sự phán quyết của
toà án
1.5. Quan hệ với cộng tác viên
Bổn phận nhà báo không chỉ sáng tạo tác phẩm mà còn tổ chức, lôi
kéo cộng tác viên để nâng cao tác phẩm báo chí, muốn vậy nhà báo phải
- Tôn trọng tác giả trên cơ sở tự nguyện
- Tôn trọng bản sắc riêng của tác giả
- Không làm tổn thương lòng tự trọng của CTV
- Không vay mượn, ăn cắp ý tưởng, chứng cứ tài liệu hoặc tác phẩm
của tác giả
1.6. Quan hệ với nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội :
Báo chí trong mối quan hệ với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội là quan trọng vì nó được điều tiết bằng cả luật pháp và đạo đức từ 2
phía. Nhà báo trong mối quan hệ này cần tuân thủ:
- Tôn trọng ủng hộ nhà nước như một thiết chế xã hội có chức năng

quản lý xã hội
-Thực hiện thông tin khách quan trung thực, nhiều chiều để đảm bảo
quan hệ thống nhất lành mạnh giữa chính quyền, các tổ chức và công chúng


- Vừa hợp tác vừa đấu tranh để giữ cho bộ máy chính quyền và các
tổ chức chính trị xã hội trong sạch lành mạnh
1.7. Quan hệ với đồng nghiệp, tòa soạn:
Bầu không khí đạo đức trong tòa soạn có vai trò quyết định tới sự
thành bại của hoạt động báo chí. Nhà báo ngoài mối quan hệ công việc còn
cần xử lý tốt với đồng nghiệp trong ngoài tòa soạn
Nguyên tắc: đoàn kết thống nhất, vì chất lượng của sản phẩm báo
chí, vì công chúng
Biểu hiện:
- Đoàn kết thân thiện và tôn trọng đồng nghiệp
- Giúp đỡ hợp tác và tin cậy lẫn nhau
- Thi đua lành mạnh
- Tôn trọng chính kiến và quyền tác giả
Tóm lại, vì lợi ích của nhân dân, lợi ích của Tổ quốc, trung thực, đề
cao trách nhiệm xã hội và lương tâm nghề nghiệp là những phẩm chất tốt
đẹp cần có đối với các nhà báo. Các mối quan hệ trên của nhà báo luôn đan
xen và hỗ trợ mật thiết với nhau. Người biết trọng dân, vì dân sẽ trung thực,
luôn đề cao trách nhiệm xã hội và giữ cho lương tâm trong sạch. Mặt khác
lương tâm trong sạch sẽ đảm bảo cho các nhà báo hành nghề khách quan
trung thực, đề cao trách nhiệm xã hội và hết lòng, hết sức phục vụ nhân
dân.
- Tu dưỡng, rèn luyện về lối sống, đạo đức
Hơn lúc nào hết, đội ngũ những người làm báo cách mạng Việt Nam
cần phải xác định rằng công việc của mình làm chính là việc phục vụ cho
dân tộc, phục vụ cho đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam, của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu tuyên truyền
thúc đẩy việc phát triển kinh tế, xã hội phát triển, đứa nước ta đến ấm no tự
do hạnh phúc cho nhân dân, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ văn minh. Phải đưa học tập tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp
vào học ngay từ khi bước chân vào học làm báo.


- Tu dưỡng, rèn luyện về nghiệp vụ, chuyên môn, văn hóa và lối
sống
Nghề báo là một công việc đòi hỏi sự nhanh nhạy về nghiệp vụ, nắm
chắc tình hình thực tiễn, xu thế phát triển của xã hội, đòi hỏi mỗi người làm
báo phải luôn cập nhật các thông tin về nghiệp vụ.
Sự nhạy cảm nghề nghiệp là một phẩm chất rất quan trọng trong hoạt
động sáng tạo của nhà báo hiện nay. Nhạy cảm để phát hiện những nhân tố
mới, điển hình mới, nhạy cảm để nhận ra đúng bản chất đích thực của
những vấn đề, con số, sự kiện và đòi hỏi người phóng viên luôn tỉnh táo, có
sự nhạy cảm
Để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức nghề
nghiệp của người làm báo trong thời kỳ đổi mới hiện nay, yêu cầu tiên
quyết là đòi hỏi tự thân những người làm báo cách mạng phải tự giác,
nghiêm chỉnh thực hiện các văn bản pháp luật của Nhà nước, quy định của
Hội Nhà báo về vấn đề đạo đức nghề nghiệp. Xây dựng mối quan hệ với
khoa học một cách chắc chắn. Nhà báo cần trang bị cho mình các phương
tiện nghiệp vụ hiện đại nhất là phương pháp hoạt động thực tiễn ngày càng
thiết thực và hiệu quả để thích ứng với sự cạnh tranh thông tin hiện nay.
Câu 11: Các phương pháp thu thập, xử lý thông tin dữ liệu của
nhà báo ?
1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu văn bản
Nghiên cứu tài liệu văn bản là dùng lối tư duy logic, tư duy khoa học
để tiếp nhận thông tin qua văn bản.

Đối với người làm báo, nghiên cứu tài liệu văn bản khác với đọc
sách văn học, thơ, truyện. Vì trong quá trình đọc, nhà báo luôn phải kết hợp
nhiều thao tác về tư duy để chắt lọc thông tin. Vừa đọc, vừa phân tích, đánh
giá, ghi bút ký.
Các dạng tài liệu mà nhà báo cần nghiên cứu khai thác là: Các văn
bản chính thức và không chính thức, các bản báo cáo tổng kết, những bài
phát biểu của lãnh đạo, các sách chuyên ngành, các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước, các sản phẩm báo chí…
Cách thức làm tư liệu và xử lý thông tin qua nghiên cứu văn bản:


Xét trên bình diện rộng, tức là trong quá trình lao động nghiêm túc
thì phương thức này được tiến hành như sau:
- Bước một: thu thập tất cả những tài liệu văn bản có liên quan từ
nhiều kênh, từ nhiều tuyến, nhiều lĩnh vực và bằng nhiều con đường khác
nhau, tập hợp thành “kho tư liệu” cá nhân. Mỗi nhà báo nên coi việc làm
trên như một nguyên tắc.
- Bước hai: Thống kê, phân loại, phân định tư liệu theo tuyến, ký
hiệu riêng để tiện theo dõi, sử dụng khi cần. Yêu cầu phải cẩn trọng và khoa
học.
- Bước ba: đọc phân tích dữ liệu
- Bước bốn: ghi chép, biên tập lại thành tài liệu của cá nhân những
nội dung quan trọng. Làm theo thứ tự để tiện sử dụng và tra cứu.
2. Phương pháp quan sát
Quan sát là quá trình tri giác của con người nói chung vì người làm
báo nói riêng để phản ánh thế giới khách quan nhằm tái hiện hình ảnh của
thế giới khách quan đó.
Quan sát là phải có chủ định, có ý thức không dừng lại ở bản năng
của con người, bản năng bẩm sinh.
Quan sát không giống như nhìn một sự kiện bất kỳ mà là việc xem

xét kỹ thông qua tư duy để vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vật.
Theo cấp độ, thì quá trình quan sát thường qua các bước: trông –
nhìn – xem – ngắm – quan sát.
+ Trông – nhìn: thường chỉ thoáng qua, thuộc giai đoạn cảm tính thụ
động
+ Xem: Có độ dừng lại ở các thao tác bên ngoài nhưng chưa thực sự
chú tâm
+ Ngắm: đã có ý thức, có chủ định, nảy sinh tính tò mò muốn tìm
hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về đối tượng. Ngắm là giai đoạn phát triển lý tính
đã có sự phân biệt giống nhau và khác nhau giữa sự vật này với sự vật
khác.


+ Quan sát: thường được ứng dụng đối với nhà báo, quá trình quan
sát chính là quá trình phân tích tổng hợp có những liên hệ so sánh để phát
hiện ra bản chất vấn đề.
Trên thực tế, 5 thao tác này khó tách rời, nó liên kết chặt chẽ với
nhau trong một chu trình khép kín. Hai thao tác đầu chỉ là sự sao chụp máy
móc hình ảnh của hiện thực nên không để lại hình ảnh trong tư duy. Hai cấp
độ sau có sự tham gia rất tích cực của tu duy. Chủ thể quan sát đã sử dụng
tổng hợp các thao tác: phân tích, tổng hợp, so sánh… Để đi đến một kết
luận đúng đắn.
Phương thức quan sát:
- Yêu cầu PV nên tạo cho mình thói quen quan sát. Nói chuyện với ai
cũng cần tập trung quan sát, đi đến đâu quan sát đến đó.
- Trong khi quan sát cần làm rõ tính mục đích dù đó là mục đích gì.
+ Quan sát tổng thể: bao quát toàn bộ đối tượng, giúp mô tả không
khí, không gian xảy ra cuộc trò chuyện với đối tượng.
+ Quan sát tập trung cục bộ: Đi sâu vào các chi tiết nội tại, những
mâu thuẫn nảy sinh, kiếm tìm chi tiết đắt, mô tả chi tiết.

+ Quan sát từ cục bộ đến tổng thể, từ tổng thể đến cục bộ: giúp việc
liên hệ, so sánh liên tưởng hình ảnh đẹp.
+ Vừa quan sát, vừa phân tích so sánh, quan sát trong sự so sánh
(thời gian và không gian)
+ Quan sát trong sự liên tưởng: viễn cảnh cách điệu hóa, trừu tượng
hóa.
+ Quan sát từ nhiều góc độ: đặt đối tượng trong các hoàn cảnh cụ
thể.
+ Quan sát hiện tượng kết hợp các hiện tượng để tìm đến bản chất
của sự vật
3. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn theo nghĩa thông thường là hỏi và trả lời. Nhà báo đặt câu
hỏi đối tác trả lời. Như vậy trong hoạt động báo chí, phỏng vấn là một cuộc


×