Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Đề Tài Nghiên Cứu Bệnh Bụi Phổi Trong Ngành May Mặc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.17 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Lí do chọn đề tài.
Trong quá trình lao động, dù ở môi trường và điều kiện lao động thủ công

hay máy móc kĩ thuật hiện đại, đều có thể phát sinh và tiềm ẩn những yếu tố nguy
hiểm, có hại gây tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Nếu
các yếu tố nguy hiểm này không được phòng ngừa ngăn chặn chúng có thể tác
động vào con người gây nên các chấn thương, bệnh nghề nghiệp, làm giảm sút,
làm mất khả năng lao động thậm chí có thể gây tử vong. Việc chăm lo cải thiện
điều kiện lao động, đảm bảo nơi làm việc an toàn vệ sinh là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu để phát triển sản xuất và tăng năng suất lao động.
Hiện nay trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, cùng với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, sản xuất ngày càng phát triển, cùng với xu hướng đó là sự
xuất hiện ngày càng nhiều các bệnh nghề nghiệp liên quan, đó là điều không thể
tránh khỏi. Đặc biệt trong ngành may mặc - dệt may, một trong những ngành có số
lượng công nhân tương đối cao. Theo khảo sát của các chuyên gia thì bệnh bụi
phổi bông đang là một căn bệnh nghề nghiệp rất phổ biến hiện nay.
Vì vậy, để làm rõ tác hại của căn bệnh này, nhằm tìm ra các giải pháp hạn
chế xuống mức thấp nhất tác hại của nó đối với người lao động, nhóm chúng tôi đã
chọn nghiên cứu đề tài “Bệnh bụi phổi trong ngành may mặc”.

2.

Mục đích nghiên cứu.

1



Bệnh bụi phổi là một bệnh khá nguy hiểm, thường diễn biến âm thầm, sau
nhiều năm mới bộc lộ triệu chứng nên đa số người lao động không biết để bảo vệ
sức khỏe của mình. Vì vậy, dựa trên các kiến thức về bệnh như: nguyên nhân gây
bệnh, các triệu chứng và cách phòng ngừa bệnh, mục đích của chúng tôi là tìm
kiếm những giải pháp hữu hiệu giúp bảo vệ sức khỏe cũng như đảm bảo môi
trường, điều kiện làm việc tốt nhất cho người lao động.

3.

Phạm vi nghiên cứu.

Ngành may mặc là một trong những ngành chủ yếu tạo nên công ăn việc
làm cho người lao động ở nước ta nên phạm vi nghiên cứu của nhóm sẽ chủ yếu
tập trung vào “ngành may mặc Việt Nam”.

4.

Đối tượng nghiên cứu.
Bệnh bụi phổi có rất nhiều loại và tùy vào từng nghành nghề, mỗi loại quy

trình công nghệ khác nhau sẽ phát sinh các yếu tố nguy hiểm khác nhau mang tính
chất đặc trưng của bệnh nghề nghiệp đó. Và trong đề tài này chúng tôi đặt trọng
tâm nghiên cứu một căn bệnh rất phổ biến mang đặc thù trong nghành may mặc dệt may, đó là “Bệnh bụi phổi – bông”.

2


PHẦN NỘI DUNG

I.


KHÁI QUÁT CHUNG.

1.

Bệnh nghề nghiệp.

1.1.

Khái niệm bệnh nghề nghiệp.

Bệnh nghề nghiệp là một hiện trạng bệnh lý của người lao động phát sinh do
tác động thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu, có hại, mang tính
chất đặc trưng cho một loại nghề nghiệp, công việc hoặc có liên quan đến nghề
nghiệp, công việc đó trong quá trình lao động.
Từ khi lao động xuất hiện, con người có thể bắt đầu bị bệnh nghề nghiệp khi
phải chịu ảnh hưởng của các tác hại nghề nghiệp, nhất là trong lao động nặng nhọc
(cơ khí, hầm mỏ...). Tuy nhiên, các bệnh này thường xảy ra từ từ và mãn tính.
Bệnh nghề nghiệp có thể phòng tránh được mặc dù có một số bệnh khó cứu chữa
và để lại di chứng. Các nhà khoa học đều cho rằng người lao động bị bệnh nghề
nghiệp phải được hưởng các chế độ bồi thường về vật chất để có thể bù đắp được
phần nào thiệt hại cho họ khi mất đi một phần sức lao động do bệnh đó gây ra. Cần
thiết phải giúp họ khôi phục sức khoẻ và phục hồi chức năng trong khả năng của y
học.

3


Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều công bố danh mục các bệnh nghề
nghiệp được bảo hiểm và ban hành các chế độ đền bù hoặc bảo hiểm.

Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã xếp bệnh nghề nghiệp thành 29 nhóm
gồm hàng trăm bệnh nghề nghiệp khác nhau. Đến năm 2006, Việt Nam đã công
nhận 25 bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm.

1.2.

Các bệnh nghề nghiệp được công nhận ở Việt Nam.

1/ Bệnh bụi phổi silic.
2/ Bệnh bụi phổi Amiăng.
3/ Bệnh nhiễm độc chì và các hợp chất của chì.
4/ Bệnh nhiễm độc benzen và đồng đẳng của benzen.
5/ Bệnh nhiễm độc thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân.
6/ Bệnh nhiễm độc mangan và các hợp chất của mangan.
7/ Bệnh nhiễm các tia phóng xạ và tia X.
8/ Bệnh điếc nghề nghiệp do tiếng ồn.
9/ Bệnh bụi phổi do bông.
10/ Bệnh rung nghề nghiệp.
11/ Bệnh sạm da nghề nghiệp.
12/ Bệnh viêm loét dạ dày, loát vách ngăn mũi, viêm da chàm tiếp xúc.
13/ Bệnh lao nghề nghiệp.
14/ Bệnh viêm gan do virus nghề nghiệp.
4


15/ Bệnh leptospira.
16/ Bệnh nhiễm độc TNT (trinitrotoluen).
17/ Bệnh nhiễm độc asen và các hợp chất của asen nghề nghiệp.
18/ Bệnh nhiễm độc nicotin nghề nghiệp.
19/ Bệnh nhiễm độc hóa chất trừ sâu nghề nghiệp.

20/ Bệnh giảm áp nghề nghiệp.
21/ Bệnh viêm phế quản mãn tính nghề nghiệp.
22/ Bệnh hen phế quản nghề nghiệp.
23/ Bệnh nhiễm độc cacbonmonoxit nghề nghiệp.
24/ Bệnh nốt dấu nghề nghiệp.
25/ Bệnh loét da, viêm móng và xung quanh móng nghề nghiệp.
Cho đến nay, ở Việt Nam có tổng số 27.928 trường hợp người lao động mắc
bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ đền bù trong đó có hơn 17.000 trường hợp.

2.

Bụi.

2.1.

Khái niệm bụi.

Bụi là một tập hợp nhiều hạt, có kích thước nhỏ bé, tồn tại lâu trong không
khí dưới dạng bụi lắng, bụi bay và các hệ khí dung nhiều pha gồm hơi, khói, mù.

2.2.

Phân loại bụi.

5


2.2.1. Theo nguồn gốc.
- Bụi thực vật: gỗ, bông, đay, trấu gạo,...
- Bụi động vật: xương, lông, tóc,...

- Bụi khoáng sản: silic, amiăng, kim loại,...
- Bụi nhân tạo: xi măng, len dạ tổng hợp,...

2.2.2. Theo kích thước hạt (Micro-met).
- Bụi có kích thước > 10: bụi thực sự.
- Bụi có kích thước từ 0,1- 10: dạng sương mù.
- Bụi có kích thước <0,1: bụi dạng khói.
2.2.3. Theo khả năng xâm nhập vào đường hô hấp.
- Bụi có kích thước < 0,1: ở lại phế nang.
- Bụi có kích thước 0,1- 0,5: ở lại phổi chiếm 80- 90%.
- Bụi có kích thước từ 5- 10: vào phổi nhưng bị thải ra ngoài.
- Bụi có kích thước >10: thường đọng ở mũi.
2.2.4. Theo tác hại.
- Bụi gây nhiễm độc chung như chì, thuỷ ngân,...
6


- Bụi gây dị ứng như bông, gai, phân hoá học,...
- Bụi sinh ung thư như quặng, phóng xạ, crôm,...
- Bụi gây nhiễm trùng như lông, xương, tóc,...
- Bụi gây xơ hoá phổi như silic, amiăng,...
Các loại bụi trên thường gây nên các bệnh về phổi nhiễm bụi.

3.

Bệnh bụi phổi.

Trong cơ thể, phổi là cơ quan hứng chịu nhiều nhất những chất ô nhiễm
trong môi trường. Bởi vậy, những người lao động phải tiếp xúc thường xuyên với
bụi trong môi trường làm việc như khai thác than, đúc, đánh bóng kim loại, sơn,

luyện kim, nhựa, dệt sợi, dệt thảm, dệt len... có nguy cơ cao mắc một số bệnh về
đường hô hấp.
Phổi nhiễm bụi là một bệnh do nguyên nhân nghề nghiệp gây ra, do thường
xuyên hít phải bụi khoáng và bụi bông, dẫn đến hiện tượng xơ hoá phổi, làm suy
chức năng hô hấp.
Tuỳ theo loại bụi hít phải mà gây ra các bệnh phổi nhiễm bụi với tên gọi
khác nhau.
Theo số liệu của Viện nghiên cứu Khoa học Kỹ thuật Bảo hộ lao động thì
trong những năm gần đây, số người bị bệnh phổi nhiễm bụi ở Việt Nam chiếm tới
hơn 40% trong tổng số các bệnh nghề nghiệp.
7


Danh mục các bệnh phổi nghề nghiệp được Bộ Y tế và Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội công nhận ở Việt Nam gồm:
1/ Bệnh bụi phổi – Silic nghề nghiệp.
2/ Bệnh bụi phổi Atbet (Amiăng).
3/ Bệnh bụi phổi bông.
4/ Bệnh viêm phế quản mạn tính nghề nghiệp.
5/ Bệnh hen phế quản mãn tính nghề nghiệp.

3.1.

Bệnh bụi phổi – Silic.

Đây là bệnh nguy hiểm và thường gặp nhất. Đó là tình trạng xơ hóa phổi lan
tỏa do người lao động hít thở phải bụi có hàm lượng silic tự do cao (Si02). Silic
chiếm tới 25% bề mặt vỏ trái đất và được phân phối rộng rãi trong tự nhiên. Môi
trường gây bệnh gặp ở tất cả các công việc có tiếp xúc với bụi silic tự do, chủ yếu
là: khoan, đập, khai thác quặng đá, sản xuất và sử dụng các loại đá mài, bột đánh

bóng, chế tạo thủy tinh, đồ sành sứ, đồ gốm, gạch chịu lửa và các sản phẩm có
chứa silic tự do khác…
Bệnh tiến triển thành mạn tính do sự xâm nhập và tồn đọng của bụi chứa
silic tự do ở dạng tinh thể. Sau khi ngừng tiếp xúc với bụi này, bệnh vẫn tiếp tục
tiến triển, không hồi phục, gây các biến chứng như suy hô hấp, tăng nguy cơ nhiễm
khuẩn, lao tại phổi, gây tràn khí phế mạc, hoại tử vô khuẩn, viêm phế quản mạn,
xơ hóa phổi. Biểu hiện của bệnh phổi silic là khó thở khi gắng sức, đau tức ngực
(lúc này bệnh đã phát triển và có biến chứng). Do chưa có thuốc điều trị hiệu quả
8


nên bệnh nhân thường chỉ được điều trị triệu chứng và tập luyện phục hồi chức
năng hô hấp.

3.2.

Bệnh bụi phổi Amiăng.

Amiăng là một hợp chất gồm silicat, sắt, ma-giê, nhôm, kẽm. Những công
việc tiếp xúc nhiều với amiăng như: khoan đập phá, khai thác quặng có amiăng;
chải sợi, kéo sợi, dệt vải amiăng may áo cách nhiệt, làm thùng cách nhiệt cho nồi
hơi, làm vật liệu cách âm, chế tạo

doăng amiăng và cao su, xi măng amiăng, tấm

lợp amiăng...
Các triệu chứng của người mắc bệnh bụi amiăng là: khó thở khi gắng sức,
đau ngực, cử động lồng ngực bị hạn chế. Bệnh có thể diễn tiến theo hướng xơ hóa
phổi, tổn thương màng phổi lành tính, u ác tính. Người mắc bệnh bụi phổi amiăng
có nguy cơ cao bị ung thư phế quản, ung thư biểu mô, các biến chứng thiểu năng

tim, suy tim không hồi phục.

9


Hiện cũng chưa có phương pháp điều trị khỏi hoặc hạn chế sự tiến triển của
bệnh. Điều trị triệu chứng chủ yếu bằng các loại thuốc corticostéroid, thuốc long
đờm, thuốc giảm ho, tập luyện phục hồi chức năng.

3.3.

Bệnh bụi phổi bông.

Bệnh xuất hiện do tiếp xúc với bụi bông, bụi gai, bụi đay, vượt quá giới hạn
cho phép (1mg/m3 trung bình lấy mẫu 8 giờ). Thời gian tiếp xúc với nghề nghiệp
thường trên 5 năm. Bệnh thường gặp ở các công nhân làm việc trong các nhà máy
sử dụng hoặc sản xuất các sợi bông, đay, gai như se sợi, dệt vải, dệt bao bì, tiếp
xúc lâu năm với bụi thảo mộc... Bệnh gây những tổn thương về bộ máy hô hấp ở
giai đoạn sớm. Người bệnh có biểu hiện tức ngực vào ngày lao động đầu tiên sau
kỳ nghỉ cuối tuần. Về sau, triệu chứng này kéo dài sang các ngày khác trong tuần
nhưng nhẹ dần vào những ngày cuối tuần.
Ở giai đoạn cuối, biểu hiện lâm sàng giống với viêm phế quản mạn nên rất
khó phân biệt bệnh có nguyên nhân nghề nghiệp hay không. Để điều trị, cần dùng
thuốc kháng histamin để làm giảm tác hại bụi bông đối với phổi, hít thở khí dung
thuốc giãn phế quản.

3.4.

Bệnh viêm phế quản mạn tính.


Bệnh do tiếp xúc nghề nghiệp với các loại bụi, nồng độ bụi vượt quá giới
hạn tối đa cho phép, hoặc phải tiếp xúc với các hơi, khí độc như SO 2, H2S... có
trong môi trường với thời gian khoảng 3 năm.

10


Bệnh có triệu chứng: phế quản tăng tiết gây ho, khạc đờm suốt trên ba tháng
mỗi năm và kéo dài trên hai năm. Bệnh gây ra suy giảm chức năng hô hấp, có thể
phát hiện ra qua đo chức năng phổi.

3.5.

Hen phế quản nghề nghiệp.

Đây là bệnh hen phế quản mà nguyên nhân được gây ra bởi toàn bộ hoặc
một phần các tác nhân ở nơi làm việc. Nguyên nhân chính gây bệnh là do các công
nhân thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu tố dị nguyên. Các tác nhân gây bệnh
thường gặp ở các công nhân làm việc trong môi trường chăn nuôi, thí nghiệm labo,
các nhà máy sản xuất hóa chất, xà phòng, thuốc lá, nhựa, cao su, làm đồ chơi, đồ
gốm, thợ in hay ở các nông trường chè, cafe, nhà máy chế biến gỗ, công nghiệp
hóa dược...
Bệnh tiến triển rất phức tạp và còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, thường xuất
hiện ở những công nhân đã có tiền sử mắc bệnh hen hoặc những công nhân có cơ
địa dị ứng. Với những người có cơ địa dị ứng, khi ngừng tiếp xúc trong môi trường
lao động có yếu tố dị nguyên, triệu chứng hen cũng mất dần. Bởi vậy người lao
động đã xác định hen nghề nghiệp nên ngừng tiếp xúc với môi trường có yếu tố
khởi phát.

II.


BỆNH BỤI PHỔI BÔNG (BYSSINOSIS) TRONG NGÀNH
MAY MẶC - DỆT MAY.

Trong các bệnh bụi phổi do bụi thực vật, bệnh bụi phổi - bông là một trong
những bệnh phổ biến. Bệnh bụi phổi - bông xuất hiện ở người lao động tiếp xúc
nghề nghiệp với các loại bụi bông hình thành từ những sợi bông, lá và vỏ cây
11


bông. Những công nhân cán xé bông, đóng kiện, se sợi và dệt... đều có thể mắc
bệnh. Bệnh bụi phổi - bông gọi chung cho bệnh của công nhân tiếp xúc với bụi
bông, bụi gai và bụi đay.

1.

Đại cương.
Là tình trạng bệnh lý của đường hô hấp với biểu hiện khó thở cấp tính, kèm

theo ho, tức ngực vào một hoặc nhiều ngày trong tuần làm việc và lâu ngày dẫn
đến hội chứng tắc nghẽn do hít thở bụi bông, gai, lanh, đay… (còn gọi là bệnh hen
của thợ dệt, bệnh sốt ngày thứ hai hay bệnh khó thở tức ngực ngày thứ hai). Bệnh
bụi phổi bông nghề nghiệp (BBPBNN) đặc hiệu do bông, lanh, gai, đay nói chung
có bệnh sử nghèo nàn, hình ảnh X quang không đặc hiệu, không có biến đổi bệnh
lý ở phổi.
Nguyên nhân được đề cập nhiều: vi khuẩn, nấm, khói thuốc lá, ô nhiễm môi
trường. Trước đây, việc công nhận BBPB còn là điều miễn cưỡng đối với các thầy
thuốc chuyên khoa về bệnh phổi nhưng gần đây, các biến đổi chức năng hô hấp đã
chứng tỏ BBPB là một bệnh riêng có tính đặc trưng với tình trạng dị ứng dạng khó
thở, xuất hiện khi tiếp xúc lại với bụi sau ngày nghỉ hàng tuần của thợ dệt.


1.1.

Khái niệm về bệnh.

Khái niệm về bệnh bụi phổi bông (Byssinosis) được Proust đề xuất và sử
dụng năm 1977 để chỉ các triệu chứng khó thở cấp tính kèm theo ho, tức ngực vào
một hoặc nhiều ngày trong tuần lao động xảy ra ở những người tiếp xúc với bụi
bông, bụi gai và lanh. Bệnh này còn được gọi là bệnh hen của thợ dệt hoặc bệnh
khó thở, tức ngực ngày thứ hai.
12


1.2.

Cơ chế bệnh sinh.

Cơ chế bệnh sinh của bệnh bụi phổi bông hiện này còn có nhiều ý kiến khác
nhau vì chưa có tác giả nào giải thích hoặc chứng minh được một cách có thuyết
phục. Người ta đề cập đến một số giả thuyết sau:
Trong bụi bông, đay, lanh có chứa các chất có khả năng giải phóng Histamin,
làm co thắt cơ trơn phế quản và phù nề niêm mạc phế quản. Như vậy, các yếu tố đó có
mang tính kháng nguyên. Người ta cũng đã nghiên cứu kháng thể chống lại những
kháng nguyên có trong bụi bông. Hiệu giá kháng thể này cao hơn ở công nhân tiếp xúc
với bụi bông so với người bình thường.
Như vậy phản ứng kháng nguyên (trong bụi bông) và kháng thể xảy ra ở thành
các tiểu phế quản đã gây ra tình trạng giải phóng Histamin và gây ra co thắt và dẫn tới
khó thở. Trong quá trình của 1 tuần lao động, kháng thể có thể giảm đi do phản ứng
kháng nguyên - kháng thể, do vậy những ngày tiếp theo sau ngày đầu tuần, sự co thắt
phế quản giảm dần và khó thở cũng giảm đi. Sau 1-2 ngày nghỉ cuối tuần, sự tích luỹ

nồng độ kháng thể tăng lên, do đó ở ngày làm việc đầu tuần sự tiếp xúc trở lại với
kháng nguyên có trong bụi bông làm cho phản ứng kháng nguyên - kháng thể mạnh lên
và bệnh nhân thường biểu hiện khó thở ở ngày đầu của tuần làm việc.
13


Một số tác giả khác thì nêu lên vai trò của nội độc tố vi khuẩn có trong bụi
bông, đay, lanh là yếu tố có tác dụng gây giải phóng Histamin và Serotonin gây co
thắt phế quản và dẫn tới khó thở.

1.3.

Lâm sàng.

Bệnh bụi phổi bông là một bệnh mãn tính đường hô hấp, diễn tiến qua 2 giai
đoạn như sau:

1.3.1.

Giai đoạn sớm.

Trong giai đoạn này triệu chứng chủ yếu đặc trưng là tức ngực. Đặc điểm
của triệu chứng này là xuất hiện vào ngày lao động đầu tiên sau ngày nghỉ cuối
tuần. Tức ngực có thể kéo dài suốt cả ngày lao động đầu tiên này, và hết triệu
chứng khi ra khỏi vị trí lao động. Tuy vậy trong quá trình phát triển của bệnh, về
sau ngoài triệu chứng tức ngực sẽ xuất hiện khó thở và không chỉ xuất hiện các
triệu chứng trên vào ngày đầu của lao động, các triệu chứng này còn kéo dài sang
các ngày khác nữa và có thể hết cả tuần lao động.
Trong quá trình bệnh tiến triển nặng dần, người công nhân có biểu hiện bệnh
các ngày trong tuần, kể cả khi chuyển nghề không tiếp xúc với bụi nữa.


1.3.2.

Giai đoạn muộn.

Ở giai đoạn muộn, bệnh biểu hiện giống bệnh viêm phế quản mạn tính, giãn
phế nang không do nghề nghiệp (nếu không khai thác tiền sử). Ho, khô mồm, mệt
mỏi, nhức đầu, đặc biệt là sốt rất đặc trưng do đó, có tác giả gọi BBPB là bệnh sốt
14


ngày thứ hai. Giai đoạn này gây ra tình trạng khó thở, chủ yếu khó thở ra, tức ngực
xuất hiện có tính chất thường trực. Kèm theo có thể có ho, khạc đờm. Khi gắng sức
tình trạng trên càng biểu hiện rõ rệt. Bệnh nhân luôn cảm giác như thiếu không khí.
Các triệu chứng tương tự như bệnh phổi phế quản mãn tính. Tình trạng suy hô hấp
theo thời gian cứ một tăng lên khiến khả năng lao động bị suy giảm rõ rệt.
Nếu bệnh kéo dài trên 10 năm, thường dẫn đến suy hô hấp không hồi phục
với bệnh cảnh lâm sàng là giãn phế quản - phế nang.

1.4.
1.4.1.

Cận lâm sàng.

X-quang phổi.

X- quang phổi không biểu hiện đặc
biệt, có thể thấy hình ảnh rốn phổi rườm rà,
đậm hoặc kèm theo hình ảnh giãn phế quản.
Ở những trường hợp nặng phổi thấy sáng hơn bình thường, hình ảnh phế

thũng (các xương sườn nằm ngang và khoang gian sườn giãn rộng). Những dấu hiệu
thay đổi trên Xquang ít có ý nghĩa để chẩn đoán bệnh, mà là yếu tố cộng thêm kết
hợp với những biến đổi chức năng hô hấp giúp cho việc xác định mức độ bệnh lý.

1.4.2.

Biến đổi chức năng hô hấp.

Thể tích thở ra tối đa/giây giảm tuỳ theo mức độ bệnh lý.

1.5.

Phân loại bệnh lý.
15


Để tiện việc đánh giá mức độ bệnh lý về lâm sàng, Schilling và cộng sự của
ông (1963) đã chia ra các loại C (Clinical grades) như sau:



C1/2: Tức ngực vào ngày lao động đầu tiên trong tuần, tuần có tuần

không.



C1: Tức ngực vào ngày lao động đầu tiện trong các tuần.




C2: Tức ngực vào ngày lao động đầu tiên và các ngày khác trong tuần.



C3: Như C2, nhưng có kèm theo biến đổi chức năng hô hấp (tức giảm

không khí thở ra tối đa/ giây).
Để đánh giá về biến đổi chức năng hô hấp do tác hại của bụi phổi bông
người ta đo không khí thở ra tối đa/giây vào ngày trước và sau ca lao động, đo vào
ngày lao động đầu tiên trong tuần. Sự thay đổi các giá trị này nếu dưới 80% thì
được xem như bất thường. Khi các trị số này không bình thường sẽ phải đo lại theo
nghiệm pháp dược động học.
Bouhuys, Gilson và Schilling (1970) đưa ra các phân loại về chức năng hô
hấp như sau:



Fo : Dung tích phổi chưa bị ảnh hưởng – chưa có biến đổi chức năng hô

hấp.



F 1/2: Dung tích phổi bị ảnh hưởng nhẹ, chưa có biến đổi chức năng hô

hấp.
16





F 1: Dung tích phổi giảm vừa – chưa có biến đổi chức năng hô hấp.



F 2: Có biến đổi chức năng hô hấp từ nhỏ đến vừa và không hồi phục.



F 3: Có biến đổi chức năng hô hấp từ vừa đến nặng và không hồi

phục.
Để đánh giá chính xác hơn sự rối loạn không khí do bụi phổi bông gây ra,
người ta làm test khí dung thuốc giãn phế quản: Bằng cách cho bệnh nhân hít thở
thuốc giãn phế quản (như Salbutamol), sau 15’ đo không khí thở ra tối đa/giây
(TTTRTĐ/Giây) ta sẽ có TTTRTĐ/Giây thực tế – Tỷ lệ giữa TTTRTĐ/Giây thực
tế /TTTRTĐ/Giây lý thuyết nếu giảm dưới 80% là có rối loạn thông khí tắc nghẽn
không hồi phục (TTTRTĐ/Giây lý thuyết là 80% dung tích sống lý thuyết tính theo
người Việt Nam). Nghiệm pháp này gọi là nghiệm pháp dược động học.

1.6.

Chẩn đoán.

Những yếu tố đặc trưng về thay đổi bệnh lý (lâm sàng, cận lâm sàng) trong
bệnh bụi phổi bông không rõ rệt, do vậy việc quy định một quy trình chẩn đoán bệnh
là hết sức cần thiết để tránh sự nhầm lẫn đáng tiếc có thể xảy ra.

1.6.1.


Đối tượng chẩn đoán.

Những người được xét xác định bụi phổi bông phải thực sự lao động ở môi
trường có bụi bông, gai, đay với nồng độ vượt quá giới hạn cho phép (1mg/m 3KK)
và phải có thời gian tiếp xúc nghề nghiệp trên 5 năm.
17


1.6.2.

Lâm sàng.

Dựa chủ yếu vào hội chứng (ngày thứ 2).



Thể C1: Tức ngực và khó thở vào ngày lao động đầu tiên trong các

tuần.



Thể C2: Tức ngực và khó thở vào ngày lao động đầu tiên và các ngày

khác trong tuần.

1.6.3.

Cận lâm sàng.


Dựa vào chức năng hô hấp (TTTRTĐ/G) và nghiệm pháp dược động học.

STT

Chỉ tiêu

Mức

1

Trị số TTTRTĐ/Giây đầu ca lao động của ngày lao động đầu

200ml

tiên lớn hơn trị số TTTRTĐ/Giây ở cuối ca lao động cùng
ngày.
2

TTTRTĐ/Giây sau khi ngừng tiếp xúc từ 2 ngày trở lên phải

80%

nhỏ hơn so với TTTRTĐ/Giây lý thuyết.
3

Làm nghiệm pháp dược động học thì tỷ lệ % của

80%


18


TTTRTĐ/Giây so với TTTRTĐ/Giây lý thuyết nhỏ hơn.

1.7.

Tiến triển, tiên lượng.

Trong quá trình làm việc tiếp xúc với bụi, nếu trên lâm sàng xuất hiện các
hội chứng (ngày thứ 2) ở mức độ C1/2 hoặc C1, nếu được chuyển công việc thì
bệnh có thể ổn định (hết các triệu chứng) trong 1 vài tuần hoặc 1 tháng. Nếu tiếp
tục làm việc bệnh sẽ tiến triển dần đến mức độ ngày càng nặng hơn với những cơn
ho mạnh, có khạc đờm, khó thở và lâu dài sẽ suy hô hấp nặng và suy tim.

2.

Thực trạng của bệnh hiện nay.
Trên thế giới.
Mắc nhiều ở các nước phát triển Công nghiệp sợi, bảo hộ lao động kém.

Anh (1970): 24% công nhân vải thô; Hà Lan (1964): 17%; Mỹ (1969): 25%. Hiện
nay các tỉ lệ này giảm dần: Úc (1992): <2%; Lancashire (1992): 3,6%.
Tại Việt Nam.

19


Thực trạng môi trường lao động và tình hình bệnh bụi phổi-bông tại một số
doanh nghiệp dệt sợi Thành phố Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu được tiến hành ở 300 công nhân tiếp xúc với bụi bông nhằm
đánh giá thực trạng điều kiện lao động và tình hình bệnh bụi phổi bông tại một số
doanh nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy môi trường lao động trong các phân xưởng dệt
sợi nói chung là chưa tốt, ngoại trừ độ ẩm. Nhiệt độ quá cao, tốc độ gió quá thấp,
65 % các vị trí lao động có độ ồn vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP) và 41 % vị
trí lao động có nồng độ bụi bông vượt TCCP. Về tình hình sức khỏe, triệu chứng
tức ngực gặp ở tất cả các nhóm công nhân trong dây chuyền dệt sợi, 52 % ở công
nhân làm việc tại các máy xé bông, máy chải, 25 % ở máy sợi con và 18 % ở công
nhân dệt.
Các công nhân có triệu chứng lâm sàng ở giai đoạn C 1/2 chiếm tỷ lệ cao
nhất (18,7 %), triệu chứng giai đoạn C1 và C2 là 6 % và không phát hiện công
nhân nào ở giai đoạn C3.
Mức độ mắc bệnh bụi phổi bông tương ứng với ô nhiễm bụi bông tại các
phân xưởng dệt - sợi. Những nơi có nồng độ bụi cao nhất như máy xé bông và máy
chải thì có tỷ lệ công nhân mắc bệnh bụi phổi bông cao nhất. Về chức năng hô
hấp, tại thời điểm sau lao động, tỷ lệ công nhân có các hội chứng tắc nghẽn (6,3
%), hạn chế (10 %) và phối hợp (12,4 %) cao hơn hẳn so với đầu ca (3,8 %; 12,4
% và 23,1 %).

III. GIẢI PHÁP.
20


1.

Dự phòng và điều trị.

- Dự phòng: Kiểm soát nồng độ bụi trong môi trường lao động
- Điều trị: Chủ yếu là điều trị triệu chứng bằng các thuốc giãn phế quản và

kháng Histamin- Không có thuốc điều trị đặc hiệu- Có thể điều trị ổn định trong
các giai đoạn sớm C1/2 – C1 có thể cả C2.
Ở giai đoạn nặng hơn điều trị chỉ có thể làm giảm các triệu chứng tạm thời.
Khi đã bị bệnh tâm phế mãn, điều trị như bệnh lý này về mặt nội khoa.

2.

Các biện pháp phòng chống bụi.

2.1.

Biện pháp kỹ thuật - công nghệ.

- Thực hiện đúng chế độ vận hành, bảo dưỡng thiết bị là biện pháp không
tốn kém nhưng trong nhiều trường hợp mang lại hiệu quả cao.
- Cơ khí hoá, tự động hoá các khâu, công đoạn sản xuất sinh ra bụi. Đây là
biện pháp cơ bản nhất.
- Dùng các phương pháp xử lý bụi, lọc bụi, che chắn nguồn phát sinh ra bụi.
- Bao kín bộ phận sản xuất phát sinh bụi, kèm theo các hệ thống hút bụi cục
bộ.
- Thay đổi phương pháp công nghệ.
- Thay thế nguyên vật liệu sinh nhiều bụi độc bằng nguyên liệu ít bụi độc.
21


- Đề phòng bụi có khả năng gây cháy nồ, cần định kỳ kiểm tra nồng độ bụi
tại nơi làm việc.

2.2.


Biện pháp y tế, chăm sóc sức khoẻ.

- Để phòng chống bệnh bụi phổi, các doanh nghiệp phải tổ chức khám tuyển
sức khoẻ, khám sức khoẻ định kỳ, quản lý sức khoẻ đối với người lao động thường
xuyên tiếp xúc với bụi.
- Nghiên cứu và đề ra chế độ làm việc, nghỉ ngơi hợp lý cho người lao động
tiếp xúc với bụi, đặc biệt là những bụi có khả năng gây bệnh phổi nhiễm bụi.
- Tổ chức theo dõi sức khoẻ, khám lại cho những trường hợp đã được phát
sổ bệnh bụi phổi kể cả sau khi nghỉ hưu hoặc chuyển nghề.
- Cơ quan y tế phải có trách nhiệm tuyển dụng những người khỏe mạnh
không mắc các bệnh, bệnh phổi mãn tính vào làm việc.
- Điều trị phục hồi chức năng cho người lao động bị suy giảm chức năng hô
hấp do tiếp xúc với bụi.
- Tổ chức khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm những người bị bệnh để
có phương pháp giải quyết chuyển nghề cho họ.
- Quan tâm tới khẩu phần ăn của người lao động có tiếp xúc với bụi. Chú ý
tăng cường rau xanh, hoa quả tươi, thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật.
- Tổ chức tập huấn cho người làm việc có tiếp xúc với bụi biết tác hại của
bụi và các biện pháp làm việc an toàn.

22


2.3.

Biện pháp bảo vệ phương tiện cá nhân.

- Tăng cường chế độ vệ sinh cá nhân trước khi ra về.
- Trang bị đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân phòng chống bụi hữu hiệu
như quần áo bảo hộ lao động, khẩu trang, cần mặt nạ đủ và đúng quy định. Ở

những nơi phát sinh bụi độc, quấn áo bảo hộ lao động kín, may bằng vải sợi bông
dày để tránh bụi xâm nhập.
- Những người làm việc, tiếp xúc với bụi, khi đã xuất hiện các hội chứng
(ngày thứ 2) nên chuyển đổi nghề, sẽ tránh được tiến triển nặng không có khả năng
hồi phục ảnh hưởng đến sức khoẻ lâu dài.

3.

Một số công tác khắc phục BBPB tại công ty dệt may
HÒA THỌ.
Là một doanh nghiệp có quy mô lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam trên

địa bàn thành phố Đà Nẵng, Công ty Dệt may Hòa Thọ trong những năm qua luôn
được đánh giá là doanh nghiệp không chỉ ổn định, tăng trưởng trong sản xuất kinh
doanh mà còn làm tốt công tác bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc cho
người lao động.
Tại khâu kéo sợi có hệ thống điều hoà không khí, trạm lạnh và phòng tách
lọc bụi bông riêng biệt nhằm hạn chế sinh nhiệt và bụi bông trong gian máy.
Ngoài ra, công ty còn lắp đặt thêm các quả cầu hút nhiệt trực tiếp, đưa hệ
thống phun sương di động vào phục vụ các gian máy bông chải.

23


Đối nhà máy sợi, khi dự án nhà máy 11.000 cọc sợi đưa vào hoạt động từ
năm 2000 đến nay, cường độ lao động đối với công nhân không chỉ giảm mà môi
trường làm việc cũng cải thiện rất nhiều.
Việc đầu tư các thiết bị hạn chế sinh nhiệt, hệ thống điều không thông gió,
đặc biệt khi công ty đưa vào sử dụng các thiết bị phun sương di động, trạm lạnh lọc
bụi 20 lần/giờ và phòng tách lọc bông bụi riêng biệt đã khắc phục được tình trạng ô

nhiễm môi trường công nghiệp - vốn là căn bệnh cố hữu của ngành dệt may lâu
nay.

PHẦN KẾT LUẬN

24


Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là nhân tố vô
cùng quan trọng trong phát triển sản xuất. Một đất nước có tỉ lệ tai nạn lao động
thấp, người lao động khỏe mạnh, không mắc các bệnh nghề nghiệp là một xã hội
luôn quan tâm đến chăm lo sức khỏe, bảo vệ tính mạng, đời sống cho người lao
động, tạo môi trường làm việc tốt nhất. Đó cũng chính là góp phần đảm bảo sự
phát triển hài hào và bền vững cho xã hội.

MỤC LỤC
25


×