Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Phân tích những biến động Lãi suất thị trường trong năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.44 KB, 34 trang )

A- MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, chính sách tiền tệ của chính phủ sử dụng lãi suất
như một công cụ quan trọng để tác động vào nền kinh tế, kiểm soát lượng tiền cung
ứng. Lãi suất là một phạm trù kinh tế, phản ánh mối quan hệ giữa người cho vay và
người đi vay, phản ánh mối quan hệ giữa cung và cầu về tiền tệ, thực trạng kinh tế
của một nước. Thông qua sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự đoán nền
kinh tế đang phát triển hay đang suy thoái.
Lãi suất là một trong những vấn đề trung tâm của nền kinh tế, vì nó tác động
đến chi phí đầu tư, do đó nó là yếu tố quan trọng quyết định tổng mức đầu tư và
tổng mức cầu về tiền tệ (GNP). Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2007 - 2008
Việt Nam đã phần nào khắc phục được hậu quả và đang tiếp tục ổn định nền kinh tế
vĩ mô để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Cho đến nay công cụ
Lãi suất đã phần nào khẳng định được vai trò của nó trong việc điều hành chính
sách kinh tế của Nhà Nước. Điểm nổi bật về lãi suất huy động cũng như lãi suất cho
vay trong năm 2010 là ngày càng tiến gần đến tự do của nó, tức là ngày càng phù
hợp hơn với cung cầu về vốn trên thị trường. Tuy nhiên, để tăng hiệu quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng thương mại và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải tiếp tục đổi mới hơn nữa cơ chế
điều hành Lãi suất trong thời gian tới.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này em xin chọn đề tài “ Phân tích những
biến động Lãi suất thị trường trong năm 2010” làm bài tiểu luận của mình. Do còn
hạn chế trong việc hiểu biết về lĩnh vực tài chính kinh tế, nên bài tiểu luận của em
không tránh khỏi những thiếu xót. Kính mong thầy cô giúp đỡ, góp ý để em hoàn
thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

B- NỘI DUNG
Bố cục gồm 2 phần chính:


Phần I: Lý luận chung về lãi suất và vai trò của lãi suất trong nền kinh tế.
Phần II: Chính sách lãi suất cùng sự biến động lãi suất trong năm 2010.

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT
TRONG NỀN KINH TẾ.
1. Khái niệm
Lãi suất là một công cụ nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi
Ngân hàng trung ương, cũng là mối quan tâm của mọi người, mọi doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đã có rất nhiều khái niệm về Lãi suất được
đưa ra như sau:
− Lãi suất là tỷ số giữa tổng số lợi tức hàng năm và tổng số vốn đã bỏ ra cho
vay trong năm. Nói cách khác đi, Lãi suất là giá cả mà con nợ phải trả cho chủ nợ
để sử dụng khoản tiền vay trong một kỳ hạn nhất định.
− Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất bằng tiền trên các tài sản bằng tiền.
− Lãi suất thực: là lãi suất danh nghĩa được chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi dự tính về mức giá, thể hiện mức lãi theo số lượng hàng hóa và dịch vụ.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực được Fisher phát biểu
thông qua phương trình mang tên ông như sau:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát dự tính
Công thức xác định lãi suất thực này được sử dụng phổ biến hiện nay. Tuy
nhiên, công thức này không chú ý đến tổng lãi thu được phải chịu thuế thu nhập.
Nếu tính đến yếu tố thuế thì:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – Thuế thu nhập biên thực tế – Tỷ lệ lạm
phát dự tính
Ngoài ra còn có các loại lãi suất thông dụng như: Lãi suất trả trước khi vay, lãi
suất trả sau cùng với vốn, lãi suất trả dần cùng với vốn theo định kỳ và lãi suất trả
bằng phiếu lợi tức.
2. Các phép đo lãi suất
Phép đo chính xác nhất là lãi suất hoàn vốn. Nó là lãi suất làm cân bằng giá
hiện tại của khoản tiền trả trong tương lai với giá trị hôm nay cuả nó. Vì khái niệm

tiềm ẩn trong việc tính lãi suất hoàn vốn có ý nghĩa tốt về mặt kinh tế.
2.1. Vay đơn:

2


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính
Fn =P (1+ i)n
Fn: số tiền vay và lãi thu về trong tương lai.
P, n, i: số tiền vay ban đầu, thời hạn vay tín dụng và lãi suất đơn.
2.2. Vay hoàn trả cố định:

TV: toàn bộ món tiền vay
FP: số tiền trả cố định hàng năm.
N: số năm cho tới mãn hạn
2.3. Trái khoán coupon:

Pb: giá trái khoán
C : Tiền coupon hàng năm
F : Mệnh giá trái khoán
n : số năm tới ngày mãn hạn.
2.4. Trái khoán giảm giá.

F: mệnh giá của trái khoán giảm giá
Pd: Giá hiện thời của trái khoán.
3. Các nhân tố tác động đến lãi suất
Lãi suất luôn luôn biến động do những nhân tố sau:
a) Sự thay đổi của tổng cầu (GNP):
Khi GNP tăng lên, nền kinh tế đòi hỏi phải tăng khối tiền cung ứng (Nếu tốc
độ lưu thông tiền tệ không thay đổi) để đảm bảo cung cầu tương ứng. Nếu trong

điều kiện đó, khối lượng cung ứng tiền (M1 hoặc M2) tăng quá cầu thì MV > PQ,
cung vốn đầu tư lớn hơn cầu vốn đầu tư làm cho lãi suất giảm. Ngược lại, khi GNP
giảm thì khối lượng tiền cung ứng thực tế cũng giảm theo, nếu tốc độ lưu thông tiền
tệ không thay đổi mà giảm khối cung ứng tiền tệ xuống quá thấp sẽ đưa đến tình
trạng MV < PQ. Lúc đó, cung vốn đầu tư nhỏ hơn cầu vốn đầu tư thì lãi suất sẽ
tăng.
b) Sự chi tiêu của chính phủ:
Trong khi lượng cung ứng tiền tệ (M1 hay M2) không thay đổi mà chính phủ
chi tiêu nhiều hơn sẽ làm giảm bớt nhu cầu chi cho đầu tư và tiêu dùng của cá nhân,

3


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

nhu cầu tiền của nhân dân trở nên khan hiếm, nguồn cung ứng vốn nhỏ hơn nhu cầu
vốn, lãi suất sẽ tăng lên.
c) Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ của chính phủ ban hành là nhằm mục đích kiểm soát
lượng cung ứng tiền tệ, kiểm soát tình trạng lạm phát và các tác động đến lãi suất để
thực hiện các mục tiêu đã định.
d) Nhu cầu tiêu dùng và đầu tư:
Trong thực tế khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì kéo theo lãi suất tăng và ngược
lại khi nhu cầu này giảm đi thì sẽ làm giảm lãi suất. Cũng như khi nhu cầu về đầu
tư, người ta đổ xô vào đầu tư kinh doanh kiếm lợi nhuận thì nhu cầu về tiền, tài sản
là rất lớn sẽ dẫn tới lãi suất tăng.
4. Vai trò và tác động của lãi suất
Lãi suất có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó là trung tâm trong chính
sách tiền tệ của chính phủ.
o Đối với sự phân bổ các nguồn lực thì lãi suất là một loại giá cả, nó có vai

trò phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội và là yếu tố cần thiết ban
đầu trước khi đi đến quyết định đầu tư vào một ngành kinh tế, một dự án hay một
tài sản nào đó…
o Đối với thu nhập: Thu nhập của các hộ gia đình thường được chia làm hai
bộ phận: Tiêu dùng và tiết kiệm, tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố
như thu nhập, tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của việc tiết kiệm trong đó tiền tệ và lãi
suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố khác. Vì vậy trong tiêu dùng và tiết kiệm
lãi suất cũng có vai trò không nhỏ trong việc điều chỉnh thu nhập của kinh tế gia
đình.
o Đối với các hoạt động đầu tư: do chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như thu
nhập, chi phí trong kinh doanh… nên khi lãi suất cao, thì sẽ có ít khoản đầu tư vào
vốn hiện vật sẽ mang lại thu nhập nhiều hơn chi phí trả lãi cho các khoản đi vay, do
vậy chi tiêu cho đầu tư giảm, ngược lại khi lãi suất thấp các doanh nghiệp sẽ quyết
định đầu tư cho vốn hiện vật nhiều hơn, chi tiêu đầu tư sẽ tăng.
o Lãi suất với lạm phát: Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ
thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho
đồng tiền trong lưu thông giảm, lượng tiền cung ứng cũng sẽ giảm và lạm phát được
kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát.
o Vai trò của Lãi suất đến việc huy động vốn: Lãi suất là chi phí huy động
vốn của doanh nghiệp và ngân hàng. Các doanh nghiệp phải xem xét khả năng lợi
nhuận thu được với chi phí huy động vốn bỏ ra để quyết định huy động vốn từ
nguồn nào và đầu tư vào đâu để có lợi cho doanh nghiệp nhất. Còn ngân hàng phải
xem xét giữa LSHĐ với khả năng cho vay ở mức lãi suất cao hơn để đưa ra phương
hướng hoạt động đảm bảo mục tiêu của ngân hàng tồn tại và phát triển.

4


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính


o Lãi suất với tỷ giá hối đoái và hoạt động xuất nhập khẩu: Tỷ giá chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ. Sự thay đổi lãi suất tiền
gửi nội tệ ở đây là sự thay đổi trong lãi suất danh nghĩa.
Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do tỷ lệ lạm phát tăng (lãi suất thực không đổi)
thì tỷ giá giảm. Nếu lãi suất danh nghĩa tăng do lãi suất thực tế tăng (tỷ lệ lạm phát
không đổi) thì tỷ giá tăng. khi tỷ giá đồng ngoại tệ tăng đồng nội tệ sẽ giảm giá (tỷ
giá giảm) và ngược lại.
+ Vai trò của lãi suất trong nước với quá trình Xuất Nhập Khẩu: khi lãi suất
thực tế tăng lên làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên. Tỷ giá hối đoái cao hơn làm hàng
hóa của nước đó ở nước ngoài trở nên đắt hơn lên và hàng hóa nước ngoài ở nước
đó sẽ trở nên rẻ hơn, dẫn đến giảm xuất khẩu ròng
+ Vai trò của lãi suất nước ngoài với xuất khẩu ròng: Khi lãi suất tiền gửi
bằng ngoại tệ tăng lên, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch chuyển sang
phải làm giảm tỷ giá hối đoái. Hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với các quốc gia
khác.
o Lãi suất vai trò của nó đối với Ngân Hàng Thương mại: NHTM với hai
nghiệp vụ chính trong hoạt động kinh doanh của mình là huy động vốn và sử dụng
vốn đã phản ánh quy mô hoạt động của các NHTM.
Với phương châm “đi vay để cho vay”, NHTM huy động vốn tạm thời nhàn
rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư để cho vay phát triển kinh tế và các nhu cầu
tiêu dùng khác của nhân dân. Để huy động vốn và cho vay có hiệu quả, NHTM phải
xác định lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách hợp lý. Nếu lãi suất huy động
tiền gửi quá thấp thì không khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào,
dẫn đến NHTM không đủ vốn cho vay để đáp ứng yêu cầu khách hàng.
Lãi suất Ngân hàng là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động kinh
doanh của NHTM và khách hàng, với lãi suất hợp lý sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc
đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển và ngược lại. Bởi vậy lãi suất Ngân hàng
vừa là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước vừa là công cụ điều hành vi mô đối với
các NHTM. Khi huy động tiền gửi mà với lãi suất thấp thì không khuyến khích
doanh nghiệp và dân cư gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, sẽ dẫn đến hậu quả là

NHTM không đủ vốn để cho vay đáp ứng yêu cầu vay vốn của khách hàng. Ngược
lại, nếu lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không có lãi
hoặc lãi quá thấp sẽ thu hẹp sản xuất hoặc ngừng hoạt động để gửi vốn vào ngân
hàng.
Do vậy Lãi suất ảnh hưởng đến nền kinh tế như thế nào và NHNN đã sử
dụng công cụ lãi suất để thực hiện chính sách mục tiêu của Chính phủ ra sao chúng
ta cùng tìm hiểu trong phần sau.

CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT, BIẾN ĐỘNG VỀ LÃI SUẤT TRONG
NĂM 2010
II.

1. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN và bến động lãi suất:


Quý I năm 2010:

5


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Năm 2010, trong xu thế phục hồi chung của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt
Nam đã có những chuyển biến tích cực. Điều đáng nói là những chuyển biến này
chủ yếu bắt nguồn từ các chính sách vĩ mô nới lỏng của Chính phủ, trong đó có
chính sách tiền tệ.
Từ tháng 6/2002, NHNN đã cho phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận
trong cả huy động và cho vay vốn. Song, từ năm 2008, khi kinh tế trong nước và
quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, NHNN đã khống chế trần lãi suất cho vay và sau đó khống chế cả trần

LSHĐ. Những vướng mắc trong việc áp dụng cơ chế trần lãi suất đã xuất hiện. Đó
là hiện tượng các NHTM rất e ngại trong việc cho vay trung và dài hạn vì các khoản
vay này được thực hiện trong thời gian dài, chi phí đầu vào cao mà lãi suất cũng
không thể cao hơn lãi suất các khoản vay ngắn hạn, cao nhất chỉ bằng 150% lãi suất
cơ bản.
Cụ thể Quyết định 134/QĐ-NHNN ngày 25/01/2010 của Thống đốc NHNN
về việc tiếp tục áp dụng mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 8%/năm đã làm
cho các NHTM tiếp tục rơi vào trạng thái khó khăn. Hầu hết người gửi tiền cả đáo
hạn và gửi mới đều chọn gửi kỳ hạn ngắn trong khi đó việc huy động vốn trung dài
hạn rất khó khăn khi LSHĐ các kỳ hạn đều ở cùng một mức trong khoản từ 10 11%/năm, điều này làm nguồn vốn trung dài hạn của các ngân hàng giảm dần trong
khi tỷ lệ lấy vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cũng bị giảm từ 40% xuống còn
30%.
Hiện tại, chênh lệch lãi suất cho vay và huy động đã quá sít lại gần nhau,
đồng nghĩa với lợi nhuận của các NHTM bị thu hẹp đáng kể. Bởi khoảng chênh
lệch 1,5% không thể bù đắp cho những chi phí phát sinh trong hoạt động ngân hàng.
Các NHTM phải tìm mọi biện pháp để tăng thu lợi nhuận, mà tín dụng lại chiếm từ
65 - 70% lợi nhuận cho ngân hàng. Do hạn chế về lãi suất đầu ra nên các ngân hàng
hoặc là đã cộng thêm các loại phí để nâng lãi suất của các món vay trung dài hạn,
hoặc là hạn chế cho vay. Áp dụng các hình thức khuyến mãi để huy động vốn là vấn
đề bình thường nhưng hiện tại giá trị khuyến mãi tính ra chiếm đến 30 - 40% lãi
suất đang niêm yết là vấn đề không bình thường nữa.
Việc duy trì trần lãi suất 12%/năm khiến ngân hàng không thể phân loại
khách hàng trong việc cho vay theo mức rủi ro đồng thời việc đánh đồng lãi suất
cho vay sẽ khuyến khích những khách hàng có độ rủi ro cao đi vay nhiều hơn, điều
này rất dễ gây mất an toàn thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Thêm vào đó, việc
mà huy động vốn và cho vay với mức lãi suất gần bằng nhau khiến cho bản thân các
ngân hàng dùng nhiều thủ thuật để có thể cho vay với lãi suất cao hơn, điều này làm
mất tính minh bạch trong hoạt động cho vay của các ngân hàng. Lúc này cầu đã
vượt quá mức cung trong khi lãi suất đầu ra vẫn bị hạn chế ở mức trần lãi suất. Điều
đó làm “méo mó” đi đường cong của lãi suất.

Nếu điều này kéo dài trong những tháng đầu năm 2010 sẽ gây ảnh hưởng
không tốt cho hệ thống các ngân hàng vì kinh doanh không có hiệu quả mà xa hơn
nó còn ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế vĩ mô; đồng nghĩa với việc nhiều
doanh nghiệp khó tiếp cập vốn vay ngân hàng để phát triển sản xuất – kinh doanh,
tạo việc làm cho người lao động và nộp thuế vào ngân sách nhà nước.

6


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Để giải quyết vấn đề này, ngày 26/2/2010, NHNN đã ban hành thông tư
07/2010/TT - NHNN, chính thức quy định về cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa
thuận của các TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD được cho vay bằng
VND theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp
luật về việc cho vay của TCTD đối với khách hàng trên cơ sở cung - cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay.
Quy định này áp dụng cho vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn
cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển; cho vay ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân, hộ
gia đình của khách hàng vay, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ
tín dụng.
Nhóm đối tượng cho vay cá nhân bao gồm: cho vay để sửa chữa nhà và mua
nhà để ở mà nguồn trả nợ bằng tiền lương của khách hàng vay; cho vay để mua
phương tiện đi lại; cho vay để trả chi phí học tập và chữa bệnh; cho vay để mua đồ
dùng và thiết bị gia đình; cho vay để chi cho hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch;
cho vay theo phương thức thấu chi tài khoản cá nhân; cho vay thông qua nghiệp vụ
phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Như vậy, hiện tại việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đã
giải quyết được những vướng mắc của ngân hàng về cơ chế trần lãi suất, tạo điều

kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn nhanh hơn. Cho vay theo lãi suất thỏa thuận
đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi
suất cao hơn lãi suất trần. Đây cũng là một quyết định cần thiết trong việc tiến tới tự
do hóa lãi suất. Tự do hóa lãi suất sẽ giúp cân bằng cung - cầu vốn, không còn bị
“méo mó’’ như đã phân tích ở trên; cung - cầu vốn về một mức lãi suất hợp lý và
phản ánh đúng diễn biến của thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế này một cách đầy đủ và linh hoạt đòi hỏi
Việt Nam phải có một nền tảng về kinh tế vĩ mô ổn định và cơ chế quản lý - giám
sát hiệu quả. Nếu không làm được điều này, tình trạng cho vay “nặng lãi” ngay
trong hệ thống ngân hàng rất dễ xảy ra và các rủi ro liên quan đến vấn đề tín dụng
có thể sẽ tăng lên đáng kể. Bởi lẽ việc cho vay theo thỏa thuận sẽ không tránh khỏi
trường hợp doanh nghiệp phải vay với lãi suất cao và mỗi doanh nghiệp có mức lãi
suất khác nhau do ngân hàng sẽ dựa trên mối quan hệ của doanh nghiệp với ngân
hàng thế nào và tiềm năng phát triển ra sao để đưa ra mức lãi suất phù hợp. Ngoài
ra, đối tượng thực hiện lãi suất cho vay mở rộng thì việc kiểm soát mục đích các
khoản vay phải hết sức nghiêm ngặt để tránh trường hợp dòng vốn chảy ồ ạt vào các
thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán chứ không được đưa vào sản xuất
kinh doanh.
Vì cơ chế lãi suất thỏa thuận vẫn chưa được thực hiện với các khoản vay
ngắn hạn nên việc cho vay của các ngân hàng vẫn chưa thực sự thông thoáng, vẫn
phải “luồn lách” để nâng lãi suất khi cho vay các khoản vay ngắn hạn mà trần lãi
suất vẫn là 12%/năm. Lý do là lãi suất đầu vào của ngân hàng bị chặn ở mức cao
nhất là 10.5% cộng với các hình thức khuyến mãi thì đã tăng đến xung quanh mức
12%/năm nên không thể cho vay ngang với mức huy động này mà phải cộng thêm

7


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính


rất nhiều loại phí để nâng lãi suất này lên cao. Đây cũng là thực trạng chung của hầu
hết các NHTM trong hai tháng đầu năm.
Bước sang tháng 3, khi mà cơ chế lãi suất thỏa thuận chính thức được áp
dụng, điều này góp phần đảm bảo cho lợi nhuận của các ngân hàng đồng thời giúp
cho các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay dễ dàng hơn, tiếp tục đầu tư mở
rộng sản suất. Tuy nhiên một vướng mắc lúc này đã dần xuất hiện:
• Đối với các NHTM: là việc huy động vốn trong dân chúng rất khó khăn.
Hiện tại, ngân hàng chỉ còn cách chạy đua về mặt sản phẩm, khuyến mãi… để thu
hút nguồn tiền từ trong dân.
Trong năm nay, ngân hàng nào cũng đều đặt mục tiêu phải tăng trưởng
nguồn vốn huy động cao ít nhất cũng là 30 - 40%. Tuy nhiên, lãi suất thì không thể
cạnh tranh được với nhau vì ngân hàng nào cũng đã đưa lãi suất kỳ hạn từ 1 - 12
tháng ở mức 10,49%/năm. Vì thế, các ngân hàng gần đây liên tục tung ra những sản
phẩm tiết kiệm với đủ loại tên để thu hút khách.
Chẳng hạn NHTM cổ phần Sài Gòn (SCB) từ đầu tháng 2 đến giờ đã đưa ra
đến tám chương trình chăm sóc khách hàng, như tăng lãi suất, tung ra sản phẩm mới
với nhiều ưu đãi... Trong tháng 3, SCB đã cho ra mắt chương trình khuyến mãi
“Rước lộc quà tặng” từ 15/3 đến 29/4 áp dụng đối với khách hàng cá nhân gửi tiết
kiệm bằng tiền đồng hoặc đô la Mỹ kỳ hạn từ 1 đến 60 tháng. Tham gia chương
trình, khách hàng có thể nhận đến ba ưu đãi tặng thêm tiền mặt, bao gồm: tặng ngay
tiền mặt với tỷ lệ lên đến 0,6%/năm (trên số dư bằng tiền đồng) và 0,24%/năm (trên
số dư bằng đô la), tặng tiền mặt cho khách hàng đã giao dịch ít nhất một lần ở SCB,
và tặng tiền mặt khi khách hàng duy trì đúng hạn.
Ngoài các ưu đãi tặng tiền mặt nêu trên, khi gửi 2 tỉ đồng hoặc 120.000 đô la
Mỹ với kỳ hạn từ ba tháng trở lên, khách hàng còn được tặng ngay một chỉ vàng
SJC. Ngân hàng cũng mua vàng với giá cao hơn giá niêm yết cho các khách hàng
muốn bán vàng lấy tiền đồng để gửi tiết kiệm và còn rất nhiều các NHTM vẫn áp
dụng “chiêu bài khuyến mãi” để có thể huy động được tối đa nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân chúng. Bên cạnh huy động tiền đồng, các ngân hàng còn chạy đua tăng
LSHĐ đô la Mỹ lên để hút tiền gửi đô la Mỹ và khuyến khích doanh nghiệp chuyển

sang vay đô la Mỹ với lãi suất thấp hơn, phần nào giảm bớt áp lực vay tiền đồng.
Lãi suất vay đô la Mỹ hiện chỉ khoảng 6 - 7%/năm. Vì thế, tăng trưởng tín dụng
bằng ngoại tệ của các ngân hàng trong quý I tăng mạnh đến 7,2% so với cuối năm
2009, trong khi cho vay bằng đồng Việt Nam lại giảm 1,81%.
Để giải quyết các nhu cầu thanh khoản của một số NHTM trong ngắn hạn
nên các NHTM cũng tập trung vào thu hút các nguồn vốn ngắn hạn. Trong khi lãi
suất cho vay đã từng bước được tự do hóa thì trần LSHĐ vẫn chưa được tháo gỡ.
Với trần LSHĐ 10,5% thì hiện tại các khách hàng gửi tiền cá nhân sẽ không mấy
mặn mà với việc gửi tiền vào ngân hàng, nguyên nhân là do tâm lý lo lắng lạm phát
của người gửi tiền nên tập trung vốn vào các kênh đầu tư khác. Do đó, tăng trưởng
huy động vốn tính cho tới thời điểm này vẫn còn chậm, đây cũng là nguyên nhân
giải thích cho xu hướng biến động lình xình trong thời gian qua của thị trường
chứng khoán. Theo NHNN sang quý I/2010, tổng phương tiện thanh toán và tín

8


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

dụng có xu hướng tăng dần, tín dụng tăng 3,34%. Huy động vốn đến cuối tháng 3
tăng 3,8% so với cuối năm 2009.
• Đối với các doanh nghiệp: Các NHTM cổ phần gặp khó khăn trong việc

huy động vốn ngắn hạn kéo theo các doanh nghiệp cũng rất khó tiếp cận được vốn
ngân hàng và kể cả các NHTM nhà nước cũng đang hạn chế cho vay. Hiện tại,
nhiều ngân hàng đã đưa lãi suất cho vay trung dài hạn lên đến mức 18 - 19%/năm,
trong khi cho vay ngắn hạn với lãi suất 12% thì rất nhỏ giọt, làm cho khó có doanh
nghiệp nào chấp nhận được và điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp không muốn
vay. Tình hình lúc này là các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng rất khó khăn,
vay ngân hàng không được các doanh nghiệp chỉ còn phải huy động hết nguồn vốn

bên ngoài như người thân, bạn bè… để chống đỡ, nhưng nếu Chính phủ không làm
gì để cải thiện tình trạng lãi suất hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên
điêu đứng.
Các ngân hàng hiện đang chờ đợi NHNN cho phép thực hiện lãi suất thỏa
thuận đối với các khoản vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam, nhưng như vậy chắc
chắn lãi suất cho vay ngắn hạn sẽ tăng cao, phần nào ảnh hưởng đến mục tiêu kiềm
chế lạm phát năm nay ở mức 7% của Chính phủ. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 vừa
được công bố tăng 0,75% so với tháng 2, và là tháng tăng thứ ba liên tiếp của chỉ số
này, kéo chỉ số CPI của cả quý 1 tăng 4,12% so với tháng 12/2009 và tăng 9,46% so
với cùng kỳ năm 2009.
Do đó trong thời gian tới NHNN cần có những thay đổi trong cơ chế quản lý
về lãi suất, đưa nó về đúng với mức kỳ vọng của thị trường, góp phần ổn định nền
kinh tế vĩ mô khuyến khích doanh nghiệp mở rộng sản xuất nhiều hơn. Trong thời
gian tới có thể đưa hai kịch bản về quản lý như sau: Thứ nhất, lợi suất trái phiếu kỳ
hạn dài giảm có thể sẽ khiến các cá nhân gửi tiền chấp nhận mức lãi suất thấp và sẽ
gửi tiền vào ngân hàng. Thứ hai, NHNN có thể nâng trần LSHĐ hoặc bãi bỏ mà
không cần nâng lãi suất cơ bản để từ đó giúp giải quyết vấn đề tăng trưởng huy
động vốn. Và kịch bản như thế nào chúng ta sẽ cùng nghiên cứu trong quý II của
năm 2010.
 Bảng lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại

phổ biến như sau: (tính đến cuối quý I năm 2010)
Lãi suất
huy động

Loại tiền

Không
kỳ hạn


1 tuần – 1
tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng

Trên 12
tháng

VND

2,4–3,0

8,0-9,0

10-10,2

10-10,3

10,410,49

10,410,49

0,2-0,3

1,0


1,0

1,0

1,0

0,2-0,3

2,3-2,8

2,6-3,2

3,0-4,0

3,4-4,0

10,3-

10,3-

Nhóm
NHTMNN

USD
(áp dụng
TCKT)

đối

với


USD
(áp dụng đ/v cá nhân)
Nhóm

VND

2,4-4,2

10,0-

10,4-

10,4-

9


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

10,49

10,499

10,499

10,499

10,499


0,2-0,5

1,0

1,0

1,0

1,0

0,25-1,0

3,3-4,0

3,5-4,2

3,6-4,5

3,8-4,8

NHTMCP
USD
(áp dụng
TCKT)

đối

với

USD

(áp dụng đ/v cá nhân)
Lãi suất cho vay

Loại tiền

Ngắn hạn

Trung,dài hạn

Nhóm

VND

12,0

14,0-15,0

USD

5,5-6,0

6,0-7,0

VND

12,0

15,0-17,0

USD


6,0-8,0

6,5-8,0

Nhóm

(Nguồn: Thông cáo báo chí - Thông tin hoạt động ngân hàng của Ngân
hàng Nhà nước)


Quý II năm 2010:

Những tuần đầu tháng 4 mặt bằng lãi suất trên thị trường vẫn chưa có nhiều
thay đổi đáng kể, bình quân LSHĐ của các ngân hàng là 13 - 14%/năm cho nên lãi
suất cho vay của ngân hàng đa số là 18%, cá biệt có ngân hàng 20%, còn 16%/năm
thì rất ít ngân hàng cho vay. Muốn trả được lãi suất trên thì doanh nghiệp phải có lợi
nhuận từ 25%/năm trở lên, và ngành sản xuất thì không thể đảm bảo được mức lợi
nhuận đó. Trong buổi họp ngày 10/4/2010 giữa Thống đốc NHNN Nguyễn Văn
Giàu cùng một số ngân hàng lớn đã đồng thuận giảm lãi suất xuống phổ biến chỉ
còn 14 - 15%/năm, tương đương mức lãi suất năm 2007. Mức trên dù vẫn còn cao
nhưng đã phần nào thấp hơn so với mức lãi suất từ 16% - 18% mà doanh nghiệp
đang gánh hiện nay.
 Một số ngân hàng và các mức lãi suất cam kết cho vay đã báo cáo với
NHNN:
Ngân hàng

Mức lãi suất cho vay
Tối đa


Nông dân

Agribank

14,5%

13,2%

14%

VietinBank

14%

13,5%

13,5%

Vietcombank

Xuất khẩu

14% - 14,5%

BIDV

14%

13%


12%

Hàng Hải

15%

-

12%

10


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Sacombank
ACB

15%
14%-15%

13,8%

14%

14,5%

14%

Đông Á


15,6%

15%

14,4%

VPBank

14,5%

-

14%

Eximbank

15%

15%

-

Techcombank

18%

17,5%

16,25%


-

13,7%

15%

14%

Quân Đội
Quốc tế (VIB)

13,7%-14,5%
15%

Một yêu cầu cấp thiết đặt ra lúc này đó là NHNN cần có những chính sách
phù hợp hơn để đưa lãi suất về đúng yêu cầu của thị trường. Hiện tại vẫn chưa có
hồi kết cho câu hỏi là áp dụng cơ chế nào cho LSHĐ tín dụng ngân hàng thương
mại, theo cơ chế đồng thuận trần LSHĐ do Hiệp hội NHTM chủ xướng với sự đồng
tình của NHNN, hay áp dụng ngay tự do hóa lãi suất đầu vào cho tương thích với cơ
chế thỏa thuận lãi suất đầu ra đã áp dụng từ đầu năm mà Ủy ban giám sát tài chính
quốc gia mới khuyến cáo?
Một thực tế đặt ra là dường như cơ chế đồng thuận trần lãi suất chỉ có giá trị
danh nghĩa, dễ dàng bị lách qua hoặc án binh bất động, hay chỉ thực hiện có tính
tượng trưng, hình thức bởi vô số chiêu khuyến mãi đủ loại và ngày càng phong phú.
Bằng chứng là cả hai chiến dịch do Hiệp hội ngân hàng đưa ra về đồng thuận giảm
LSHĐ xuống 10% được phát động vào những tháng đầu năm 2010, và đợt đồng
thuận hiện đang triển khai về nâng LSHĐ không quá trần 12% đã không có kết quả
bao nhiêu. Mức trần kéo LSHĐ xuống 10% đã bất khả thi, còn mức trần 12% thì
nhanh chóng trở thành mức sàn, vì thực tế nhiều ngân hàng đã huy động trên 13.5 14%, thậm chí với mức cao hơn cho những khách gửi tiền lớn và biết trả giá. Thông

điệp của sự bất thành trong cả hai đợt đồng thuận trần LSHĐ này phải chăng chỉ có
một, đó là mức trần lãi suất đồng thuận đặt ra không khả thi, hoặc nếu thực thi thì
“lợi bất cập hại” vì không đáp ứng cung cầu thị trường tài chính trong nước ?
Trần lãi suất tồn tại trong bối cảnh chưa có cơ chế thị trường hoàn hảo và
tình hình thị trường tài chính trong nước có những biến động thất thường, với mục
tiêu kỳ vọng tiết giảm cạnh tranh không lành mạnh, các hiện tượng lừa đảo, nhằm
ổn định thị trường tài chính và nền kinh tế vĩ mô trong nước nói chung... Vì vậy,
cùng với việc áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận, việc bãi bỏ cơ chế trần LSHĐ sẽ
có những tác động tích cực đến thị trường tài chính - ngân hàng nói riêng, nền kinh
tế nói chung, cụ thể:
 Thứ nhất, tăng huy động vốn cho đầu tư xã hội thông qua hệ thống ngân

hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền kinh tế.
Trần LSHĐ nhất là khi bị định thấp, khiến người gửi không hào hứng với
việc gửi tiền và các NHTM gặp hạn chế trong việc huy động vốn xã hội, nhất là khi
có xu hướng gia tăng lạm phát và chậm hồi phục nền kinh tế. Điều này tạo ra sự

11


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

khan hiếm nguồn vốn hoạt động của các ngân hàng, cũng như làm giảm vai trò của
ngân hàng với tư cách nguồn cung vốn chủ yếu cho nền kinh tế, tức đồng nghĩa với
sự tắc nghẽn lưu thông tiền tệ, đè nén, kiềm chế sự phát triển kinh tế. Thực tế bán
trái phiếu chính phủ và kết quả huy động vốn của các ngân hàng trong nước thời
gian gần đây cho thấy điều đó (tăng trưởng huy động vốn ngân hàng trong 2 tháng
đầu năm 2010 giảm nhẹ 0,17% so với cuối năm 2009). Nói cách khác, bãi bỏ trần
LSHĐ cũng có nghĩa là trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy tăng huy động vốn cho đầu
tư xã hội thông qua hệ thống ngân hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền

kinh tế.
 Thứ hai, gia tăng tính minh bạch và tính thị trường trong huy động và

cho vay vốn ngân hàng, cũng như trong quản lý nhà nước.
Trần LSHĐ được các NHTM làm tăng những biến tướng và bất bình thường
do tìm cách lách luật trong huy động vốn, như chuyển đổi cơ cấu tín dụng, làm mất
ý nghĩa các loại lãi suất tín dụng ngắn hạn và dài hạn, cũng như làm giảm các khoản
vốn huy động và cho vay dài hạn trong cơ cấu vốn ngân hàng và gia tăng các hình
thức thưởng, khuyến mãi hay là quà tặng dưới mọi hình thức khác.
Chẳng hạn như ngày 9/3/2010, Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu
(ACB) đưa ra mức LSHĐ tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán linh hoạt lãi suất
thả nổi tiền đồng kỳ hạn 36 tháng từ 10.44 - 10.499%/năm. Điểm đặc biệt là khoản
tiền nhỏ từ 5 đến 10 tỷ đồng kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng đều bằng 10.499%/
năm. Cùng ngày, một ngân hàng cổ phần đẩy LSHĐ trần từ 9.6%/năm lên
10.49%/năm. Trên thực tế, với dự báo lạm phát và tỷ giá như hiện nay thì nếu tiếp
tục giữ mức trần là 10.5%, chắc chắn ngân hàng sẽ tìm cách đi đường vòng để tăng
lãi suất thật lên. Điều này làm cho LSHĐ trở nên méo mó. Mức lãi suất thực tế mà
các ngân hàng huy động hiện tại là từ 13 - 14%/năm.
Vì vậy, bãi bỏ trần LSHĐ sẽ không chỉ trực tiếp giúp gỡ bỏ, giảm nhanh nhất
và triệt để nhất những tắc nghẽn, biến dạng đó, cải thiện cơ cấu và chất lượng tín
dụng (nhất là tăng các khoản vay và cho vay trung và dài hạn), mà còn còn thúc đẩy
cạnh tranh thị trường và cho phép các ngân hàng mạnh và năng động triển khai các
kế hoạch kinh doanh có hiệu quả, từ đó có thêm cơ hội gia tăng mức độ chuẩn hóa
và sức cạnh tranh của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập tài chính ngày
càng đầy đủ hơn.
Đặc biệt, bỏ trần LSHĐ sẽ giúp các cơ quan quản lý có thông tin về các động
thái, diễn biến của thị trường chính xác, minh bạch hơn và ra các quyết định quản lý
thích hợp, hiệu quả hơn. Cơ chế thị trường sẽ sớm xác lập và hoàn thiện hơn, và do
đó tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước với các nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài.

 Thứ ba, gia tăng cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp trong tiếp cận

nguồn vốn ngân hàng và trong đầu tư xã hội.
Hơn nữa, việc bãi bỏ trần LSHĐ và áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận sẽ có
lợi cho doanh nghiệp; một mặt, các doanh nghiệp thuận lợi hơn trong tiếp cận với
nguồn vốn ngân hàng được dồi dào hơn và có tính thanh khoản cao hơn. Mặt khác,
khi nguồn vốn dồi dào mà các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động cho vay, thì các
doanh nghiệp có thể nhận được lãi suất cho vay của các ngân hàng thấp dần nhờ hệ
12


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

quả của áp lực quy luật cung - cầu thị trường và áp lực cạnh tranh giữa các ngân
hàng. Thêm vào đó, việc gỡ bỏ đồng bộ trần lãi suất ngân hàng cả đầu vào và đầu ra
còn giúp loại bỏ các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, các dự án vay không mang
tính thị trường hay có tính đầu cơ cao. Đồng thời tăng nguồn vốn đầu tư cho những
dự án kinh doanh sản xuất hiệu quả.
 Thứ tư, gia tăng lợi ích của người gửi tiền vào ngân hàng và các lợi ích

khác góp phần kiềm chế lạm phát.
Bỏ trần LSHĐ đồng nghĩa với việc người gửi tiền có cơ hội nhận được lãi
suất gửi tiền cao hơn và có lợi hơn cho các khoản tiền gửi của mình trong ngân
hàng. Đến lượt mình, điều đó kích thích tiết kiệm chi tiêu xã hội, giảm lượng tiền
trong lưu thông, hạn chế đầu cơ không có lợi vào các hoạt động kinh doanh khác,
như chứng khoán, bất động sản, góp phần giảm lạm phát, tăng luồng vốn đổ vào
trong nước từ các nguồn vốn rẻ trên thế giới...
Tóm lại, bãi bỏ trần LSHĐ ở mức độ và góc độ nào đó, về cơ bản, sẽ có tác
dụng và có ý nghĩa tốt cho cả ngân hàng, doanh nghiệp, người dân và Nhà nước, cả
cấp vi mô và vĩ mô, cả trước mắt và lâu dài, cả trong nước và trên phạm vi quốc tế.

Tuy nhiên, việc bãi bỏ trần LSHĐ bất chấp những điều kiện chưa chín muồi
cũng có thể gây ra những hệ quả bất lợi khó lường định, như:
 Một là thúc đẩy quá trình tái cơ cấu vốn và chuyển dịch nguồn vốn bất

thường giữa các ngân hàng gây xáo trộn kế hoạch kinh doanh của các
ngân hàng.
Về cả lý thuyết và thực tiễn, thông thường người đi gửi tiền không phân biệt
và cũng chẳng cần quan tâm đến lãi suất cơ bản, huy trần LSHĐ làm gì. Điều mà họ
quan tâm đó là mức lãi suất tối đa mà họ có thể nhận được là bao nhiêu, đối với họ
ai huy động cao thì gửi, thậm chí không cần biết tư cách pháp nhân và mục tiêu huy
động vốn của người huy động. Trước sự hấp dẫn của lãi suất mới do cạnh tranh ở
các ngân hàng sau khi gỡ bỏ trần LSHĐ, có thể gia tăng các hoạt động rút tiền của
người gửi để gửi vào các ngân hàng có lãi suất cao hơn. Điều này là chính đáng và
dễ hiểu, nhưng nếu kiểm soát không tốt lại có thể tạo ra những làn sóng rút tiền và
gửi tiền theo tâm lý đám đông, tạo ra vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và
các kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng, cũng như vốn đầu tư xã hội. Điều này
có thể khiến cho một ngân hàng nào đó không chịu nổi áp lực rút vốn bất thường
buộc phải tăng LSHĐ, hoặc chịu áp lực thanh khoản cao, có thể phá sản cục bộ
hoặc giải thể.
 Hai là có thể gia tăng hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo

và vỡ nợ tín dụng dây chuyền mang tính xã hội
Hiện tại thì quy mô hoạt động của hệ thống NHTM còn rất khiêm tốn, vốn
điều lệ còn thấp do đó NHNN đã đưa ra lộ trình tăng vốn buộc các ngân hàng phải
tăng vốn lên 3000 tỷ vào cuối năm 2010. NHNN đã rất thận trọng trong việc quyết
định cho các NHTM tăng vốn nhằm đảm bảo được tính an toàn thanh khoản. Nếu
trần LSHĐ được bãi bõ thì áp lực cạnh tranh của các NHTM sẽ tăng lên, rủi ro
thanh khoản cũng từ đó tăng lên do phải chạy đua về LSHĐ. Do vậy, việc bãi bỏ
trần LSHĐ có thể, trong thời gian đầu, làm gia tăng ít nhiều một số hoạt động huy


13


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

động vốn với lãi suất cao kể cả sự gia tăng luồng vốn gián tiếp nước ngoài rẻ đổ vào
Việt Nam với những hệ lụy có thể là gây sốc vốn và rủi ro thanh khoản cho các
ngân hàng như khi bị rút vốn đột ngột…
 Và cuối cùng, tạo sức ép mới về hoàn thiện công cụ quản lý nhà nước

đối với thị trường tài chính
Bởi việc bãi bỏ trần LSHĐ sẽ tước đi một công cụ quản lý kinh tế - tài chính
Nhà nước trực tiếp quen thuộc của NHNN đối với các NHTM, đồng thời làm tăng
yêu cầu nhanh chóng đổi mới cách thức điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước trên thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng những
nhiệm vụ và bối cảnh mới cả trong nước và quốc tế.
Ngày 14/4, NHNN đã công bố thông tư 12 về cho vay theo lãi suất thỏa
thuận, chính thức dỡ bỏ trần lãi suất cho vay, tức cho phép áp dụng lãi suất thỏa
thuận đối với các khoản vay ngắn và trung dài hạn. Cùng ngày, hàng loạt ngân hàng
công bố LSHĐ mới, tối đa dưới 12%/năm. Điểm khác là lãi suất có cao có thấp,
không còn gửi ngắn hay dài cùng mức lãi suất, thậm chí nhiều ngân hàng cũng bỏ
khuyến mãi, thưởng lãi suất. Với việc cho phép tự do hóa lãi suất, LSHĐ của các
ngân hàng cũng xem như được tự do, không còn bị ràng buộc bởi mức trần
10,5%/năm như cam kết với Hiệp hội Ngân hàng, và ngân hàng cũng đã có thể hợp
thức hóa được mức LSHĐ cao của mình, không còn lách trần bằng các loại tiền
thưởng, hay quà như trước nữa.
Vì thế, Ngân hàng ACB trong ngày 13/4 đã trở thành ngân hàng tiên phong
đưa ra biểu LSHĐ mới vượt mức lãi suất trần huy động. Lãi suất niêm yết chính
thức của ACB hiện nay cao nhất là 11,5%/năm và sau đó hàng loạt các ngân hàng
khác cũng chính thức niêm yết LSHĐ cao hơn xung quanh mức 11.5%/năm, không

còn ở cùng một mức 10,49%/năm như trước đây, lãi suất cho vay thỏa thuận bình
quân từ 14 - 17%/năm, riêng lãi suất vay tiêu dùng ở các công ty tài chính khoản 25
- 30%/năm.


Giảm lãi suất ngân hàng cần thêm thêm thời gian:

Theo các NHTM, với sự định của nền kinh tế vĩ mô, sự hỗ trợ của NHNN,
cung - cầu vốn trên thị trường thì khả năng giảm lãi suất thị trường là hoàn toàn có
thể thực hiện được. Tuy nhiên, dù bày tỏ đồng thuận về chủ trương hạ lãi suất
nhưng các ngân hàng cũng cho rằng, với tình hình hiện nay, việc giảm lãi suất là rất
khó thực hiện ngay và cần có thêm thời gian. Vì thế, các ngân hàng đề nghị việc
giảm mặt bằng lãi suất nên có lộ trình nhất định. Trước hết tập trung vào giảm lãi
suất kỳ hạn ngắn và giảm lãi suất cho vay đối với các đối tượng khách hàng và lĩnh
vực sản xuất - kinh doanh như Chính phủ yêu cầu.
Để thuận lợi cho giảm lãi suất, các NHTM cũng đề nghị nên giải quyết mối
quan hệ phù hợp giữa lãi suất trái phiếu Chính phủ và lãi suất kinh doanh ngân
hàng, tạo điều kiện cho các NHTM có căn cứ giảm lãi suất kinh doanh mà vẫn thu
hút được vốn từ nền kinh tế. Đáp lại đề nghị từ các ngân hàng, NHNN sẽ tiếp tục có
các biện pháp phù hợp để hạ LSHĐ VND xuống khoảng 10%, lãi suất cho vay
VND khoảng 12% và dùng các công cụ của chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và
chủ động để hỗ trợ các NHTM giảm mặt bằng lãi suất kinh doanh và tăng thanh
khoản cho nền kinh tế.
14


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Mặc dù đồng thuận và cam kết sẽ hạ dần lãi suất, tuy nhiên, trên thị trường
diễn biến lãi suất của các ngân hàng vẫn có dấu hiệu tăng lên. Muốn giảm lãi suất

cho vay thì các ngân hàng phải giảm LSHĐ. Tuy nhiên, trên thực tế LSHĐ của các
ngân hàng cổ phần, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, vẫn còn khá cao; nếu tính
luôn cả khuyến mãi thì thấp nhất cũng là 12%/năm, còn cao thì đến 14%/năm. Điều
đó khiến cho lãi suất cho vay không thể giảm nhanh theo lời kêu gọi của Hiệp hội
Ngân hàng. Lý do mà LSHĐ cũng như lãi suất cho vay chưa thể giảm nhanh là vì
nguồn vốn huy động của các ngân hàng chủ yếu đến từ tiết kiệm dân cư và vốn
nhàn rỗi của doanh nghiệp. Vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp hiện cũng đã nằm trong
ngân hàng chứ không thể giữ ở nhà, có chăng chỉ là chạy từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác nên không thể tăng mạnh, trong khi tiền nhàn rỗi của dân cư thì
không thể tăng trong một sớm một chiều. Ngân hàng cũng không dám giảm nhanh
LSHĐ từ dân cư, cho nên lãi suất cho vay khó lòng giảm vào lúc này.
Theo NHNN, tăng trưởng vốn huy động của toàn ngành ngân hàng trong
tháng 5 là 2,53%, còn so với cuối năm 2009, tăng trưởng huy động vốn của các
ngân hàng đạt 7,8%. Trong khi đó, tăng trưởng tín dụng tháng 5 của hệ thống ngân
hàng là 1,86%, và trong năm tháng đầu năm, con số này tăng 7,46% so với cuối
năm 2009.
 Bảng lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại

phổ biến như sau: (tính đến cuối quý II năm 2010)
Lãi suất huy
động niêm yết

Loại tiền

Không
hạn

VND

kỳ


3 tháng

6 tháng

12 tháng

Trên
tháng

12

2,4–3,0

11-11,5

11-11,5

11-11,5

10,5-11,5

đ/v

0,2-0,3

1,0

1,0


1,0

1,0

(áp dụng đ/v cá
nhân)

0,2-0,3

3,4-3,5

3,5-3,8

3,5-4,2

3,8-4,3

VND

2,4-4,2

11-11,5

11-11,5

11-11,5

11-11,5

0,2-0,5


1,0

1,0

1,0

1,0

0,25-1,0

3,5-4,2

3,6-4,4

4,0-4,7

4,0-5,0

Nhóm
NHTMNN

USD
(áp
dụng
TCKT)
USD

Nhóm
NHTMCP


USD
(áp
dụng
TCKT)

đ/v

USD
(áp dụng đ/v cá
nhân)

Lãi suất cho vay
phục vụ SX - KD

Loại tiền

Ngắn hạn

Trung, dài hạn

15


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

13-14

13,5-14,5


12-12,5

13-13,5

5,5-6,0

6,0-7,0

14-14,5

14,5-15,5

12,5-13,5

13,5-14,5

6,0-8,0

6,5-8,0

VND

Nhóm

(Trong đó đối với sx nông nghiệp, nông
thôn và xuất khẩu)

NHTMNN

USD


VND

Nhóm

(Trong đó đối với sx nông nghiệp, nông
thôn và xuất khẩu)

NHTMCP

USD

(Nguồn: Thông cáo báo chí - Thông tin hoạt động ngân hàng của Ngân
hàng Nhà nước)


Quý III năm 2010:

Theo đại diện NHNN, trong sáu tháng đầu năm 2010, LSHĐ tại các TCTD
giảm 0,7%, trong khi lãi suất cho vay tương ứng giảm 1%. Ở thời điểm hiện tại,
LSHĐ bình quân trên tất cả các kỳ hạn của NHTM đạt 11%, lãi suất cho vay là
13,4%. Kể từ 1/7, tất cả các NHTM nhà nước và một số ngân hàng cổ phần lớn
cũng đã áp dụng lãi suất cho vay ưu đãi 12 - 12,4%/năm đối với khu vực nông
nghiệp, nông thôn, cho vay phục vụ xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Các thành viên của Hiệp hội Ngân hàng cũng cam kết sẽ tiếp tục giảm lãi
suất trong quý III năm nay.
Số liệu từ NHNN TP.HCM cho biết, tăng trưởng tín dụng trong sáu tháng chỉ
là 6,6% trong khi đến cuối tháng 7, mức tăng này đã đạt đến 11,3%. Trong đó, tăng
trưởng tín dụng bằng VND đã tăng khá mạnh, với mức 4% trong tháng 7/2010, đưa
mức tăng trưởng của bảy tháng đầu năm lên 5,7% so với cuối năm 2009. Tuy nhiên,

mức tăng này của VND vẫn thấp hơn nhiều so với mức tăng 5,4% của tín dụng bằng
ngoại tệ, chủ yếu là đô la Mỹ. Và nếu xem xét số liệu trong cả bảy tháng thì tăng
trưởng tín dụng ngoại tệ (28,8%) vẫn cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng
bằng tiền đồng.
Trong tháng 7, nhằm hỗ trợ các NHTM, NHNN cũng đã có nhiều giải pháp
bơm vốn giá rẻ nhằm đảm bảo nguồn vốn cung cấp cho nền kinh tế. Trong hai tuần
cuối tháng 7, biểu lãi suất niêm yết của 36 ngân hàng cho thấy, các ngân hàng đang
dần dần đưa LSHĐ VND ở hầu hết các kỳ hạn về quanh mức 11,2% với mức lãi
suất trung bình cao nhất 11,3%/năm hiện thuộc về các kỳ hạn 6 và 12 tháng. Trong
khi đó, các kỳ hạn dài hơn từ 13 - 36 tháng còn có mức lãi suất trung bình thấp hơn
rất nhiều khoảng 10,97%/năm.
Mặt bằng LSHĐ và cho vay VND trong tháng 8/2010 có xu hướng ổn định,
trong đó LSHĐ VND dao động ở mức 10,6 - 11,2%/năm; lãi suất cho vay VND
ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên phổ biến ở mức 12 - 12,5%/năm đối với nhóm
NHTM nhà nước và 12,5 - 13,5%/năm đối với nhóm NHTM cổ phần, lãi suất cho

16


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

vay kinh doanh khác phổ biến ở mức 13 - 15%/năm. Lãi suất cho vay kinh doanh
chứng khoán, tiêu dùng phổ biến ở mức 16 - 20%/năm.
Sau nhiều nỗ lực nhằm thiết lập mặt bằng lãi suất "vào 10 ra 12", đến thời
điểm này vẫn chưa có dấu hiệu cho thấy sớm đạt mục tiêu mà NHNN đề ra. Lý giải
về căn nguyên của tình trạng này sở dĩ mục tiêu giảm lãi suất chưa đạt được là do
các giải pháp đưa ra mới chỉ giải quyết phần ngọn, trong khi gốc rễ của vấn đề về
mặt bằng lãi suất vẫn chưa được xử lý dứt điểm. Có thể căn nguyên là do hai đối
tượng sau:



Thứ nhất là các NHTM cổ phần:

− Lãi suất là giá của đồng vốn được hình thành và tác động khách quan bởi

cung - cầu vốn trên thị trường. Ngoài ra, biến động lãi suất có thể bị tác động do các
chính sách chủ quan của cơ quan quản lý.
− Các chính sách này có thể là những biện pháp hành chính ngắn hạn tác động

trực tiếp, tức thời vào lãi suất, hoặc các chính sách có tính chất định hướng dài hạn
để tác động vào tương quan cung - cầu vốn trong tương lai và qua đó tác động vào
lãi suất.

− Mặt bằng lãi suất cao phản ánh tình trạng cung nhỏ hơn cầu vốn và là hệ quả
của một quá trình tích tụ kéo dài, chứ không đơn thuần là do các nguyên nhân tức
thời tác động. Điều này thường tồn tại ở các nước đang phát triển.

Đối với Việt Nam, sở dĩ lãi suất cao suốt thời gian qua là do ảnh hưởng của
tình trạng lạm phát, bất ổn kinh tế vĩ mô, sự kém hiệu quả của nền kinh tế nói chung
và thị trường tài chính nói riêng, do cả các nguyên nhân khách quan và chủ quan từ
trước đó. Khi các yêu cầu, chuẩn mực về an toàn hoạt động và quản lý rủi ro được
áp dụng với các ngân hàng còn thấp, thì có thể dẫn đến hiện tượng các ngân hàng có
môi trường để cạnh tranh chủ yếu bằng lãi suất chứ không phải bằng chất lượng sản
phẩm, dịch vụ.
Như đã đề cập các ngân hàng Việt Nam cạnh tranh nhau chủ yếu bằng lãi suất,
nên luôn tiềm ẩn nguy cơ xuất hiện cuộc đua tăng LSHĐ. Trong khi các ngân hàng
lớn khá trường vốn, thì không hiếm ngân hàng yếu, mới ra đời, quy mô vừa và nhỏ
thường đối mặt với khó khăn trong đảm bảo thanh khoản. Bởi vậy, để tồn tại được,
họ thường luôn đưa ra mức LSHĐ cao nhằm huy động được vốn bằng mọi giá. Đây
có thể là một lý do quan trọng khiến mặt bằng LSHĐ luôn trong trạng thái có thể bị

phá vỡ và đẩy lên mức cao bất cứ lúc nào.


Thứ hai là các doanh nghiệp trong nước:

Đó là các doanh nghiệp yếu kém, tiêu tốn nhiều nguồn lực, nhưng hiệu quả
mang lại thấp; thậm chí làm ăn thua lỗ kéo dài, nhưng vẫn phải tìm đủ cách huy
động vốn để tồn tại, qua đó tác động khiến lãi suất cho vay của các ngân hàng luôn
tiềm ẩn nguy cơ bị đẩy lên cao. Căn nguyên của tình trạng này là do số doanh
nghiệp làm ăn yếu kém phải phá sản theo Luật Phá sản đến nay rất ít. Điều này gây
nên những tác động tiêu cực đến "sức khỏe" của nền kinh tế.
Một nền kinh tế chỉ thực sự khỏe, lành mạnh khi nó có khả năng đào thải
một cách có hiệu quả các doanh nghiệp hoạt động yếu kém, buộc và tạo điều kiện

17


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

để các doanh nghiệp này phá sản. Bởi chỉ như vậy thì nguồn lực từ các doanh
nghiệp hoạt động yếu kém mới được nhanh chóng chuyển hóa sang cho các doanh
nghiệp có khả năng làm ăn hiệu quả hơn. Chính vì "bộ lọc" doanh nghiệp yếu kém
của nền kinh tế có vấn đề, nên dẫn đến tình trạng để sinh tồn được, các doanh
nghiệp này tìm đủ mọi cách nhằm có vốn sản xuất - kinh doanh. Hệ quả là họ chấp
nhận trả lãi suất với mức cao miễn sao có được vốn, nên đã tạo ra phản ứng dây
chuyền khiến mặt bằng lãi suất cho vay tăng.
Tính đến ngày 16/9/2010, so với cuối năm trước, tổng phương tiện thanh
toán tăng 18,5%, vốn huy động tăng 21,5%, tín dụng đối với nền kinh tế tăng
17,81%. Khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo.
Mặt bằng LSHĐ và cho vay VND của các TCTD với khách hàng có xu

hướng giảm, trong đó LSHĐ VND dao động ở mức 10,59 - 11,2%/năm, giảm 0,2 0,3%/năm so với cuối Quý II/2010; lãi suất cho vay VND ngắn hạn đối với các lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp và nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa phổ
biến ở mức 12 - 12,5%/năm đối với nhóm NHTM nhà nước và 12,5 - 13,5%/năm
đối với nhóm NHTM cổ phần, các loại lãi suất cho vay khác phổ biến ở mức 13 15%/năm. LSHĐ bằng USD tăng khoảng 0,1 - 0,3%/năm so với cuối Quý II/2010
và lãi suất cho vay bằng USD ít biến động.
 Bảng lãi suất huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại

phổ biến như sau: (tính đến cuối quý III năm 2010)
Lãi
suất
huy động
niêm yết

Loại tiền

Không
hạn

Nhóm

VND

kỳ

1 tháng trở
xuống

3 tháng

6 tháng


12 tháng

Trên 12
tháng

2,4–3,0

7,5-10,5

11-11,2

11-11,2

11-11,2

10,5-11,2

0,2-0,3

1,0

1,0

1,0

1,0

1,0


(a/d đ/v cá
nhân)

0,2-0,3

3,5-3,7

3,6-3,9

3,8-4,2

3,5-4,5

3,8-4,5

VND

2,4-4,2

7,8-11

11-11,2

11-11,2

11-11,2

10,5-11,2

0,2-0,5


1,0

1,0

1,0

1,0

1,0

0,25-1,0

3,6-4,2

3,9-4,6

4,2-5,0

4,2-5,2

4,5-5,3

NHTMNN
USD
(a/d đối với
TCKT)
USD

Nhóm

NHTMCP

USD
(a/d đối với
TCKT)
USD
(a/d đ/v cá
nhân)

18


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Lãi suất cho
vay phục vụ
SX - KD

Loại tiền

Ngắn hạn

Trung, dài hạn

13-14

13,5-14,5

11-12,5


12,5-13,5

5,5-6,0

6,0-7,0

13,5-14,5

14-15,5

11,5-13

13,5-14,5

5,5-6,5

6,5-8,0

VND
(Trong đó đối với sx nông nghiệp, nông thôn
và xuất khẩu)

Nhóm
NHTMNN

USD

VND
(Trong đó đối với sx nông nghiệp, nông thôn
và xuất khẩu)


Nhóm
NHTMCP

USD

(Nguồn: Thông cáo báo chí - Thông tin hoạt động ngân hàng của Ngân
hàng Nhà nước)


Quý IV năm 2010:

Mặc dù nhu cầu vay vốn từ các doanh nghiệp thường gia tăng trong các
tháng cuối năm nhưng với những quy định sắp có hiệu lực của NHNN về an toàn
vốn lẫn thực tế làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp nên các ngân hàng thấy khó có tăng
trưởng tín dụng trong những tháng còn lại của năm. Chẳng hạn như là Thông tư 13
quy định về các tỷ lệ an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng sẽ cản trở hoạt động
cho vay của ngân hàng. Thông tư 13 có hiệu lực vào ngày 1/10/2010 yêu cầu các
ngân hàng phải đảm bảo tỷ lệ cho vay và huy động không quá 80% mà vốn huy
động này không tính tiền gửi không kỳ hạn, sau khi sửa đổi được bổ sung thêm 25%
tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế (trừ TCTD) vào nguồn vốn huy động
để cấp tín dụng, vì vậy nhiều ngân hàng đang chạy đua thu hút tiền gửi để đảm bảo
quy định trên.
Sau khi thông tư 13 chính thức có hiệu lực vào ngày 1/10/2010. Các NHTM
đã đồng loạt giảm LSHĐ bằng tiền đồng từ cao nhất 11,2% xuống còn cao nhất
11%/năm, theo như lời kêu gọi của Hiệp hội Ngân hàng trước đó. Các ngân hàng
lớn như ACB, Vietcombank, Eximbank từ cuối tuần trước đã bắt đầu niêm yết bảng
lãi suất tiền đồng mới với mức cao nhất là 11%/năm. Sau đó, các ngân hàng khác
đồng loạt giảm lãi suất của mình còn cao nhất chỉ là 11%/năm.
Lãi suất cho vay trung dài hạn phổ biến ở mức 13,5 - 14,5%/năm tại các

NHTM nhà nước và 14 - 15,5% tại các NHTM cổ phần, lãi suất cho vay lĩnh vực
phi sản xuất là 15 - 17%/năm. Một số ý kiến cho rằng, lãi suất cao là do hai yếu tố
sau: thứ nhất, các TCTD gặp khó khăn về nguồn vốn, trong đó quy định TCTD

19


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

không được vay trên thị trường liên ngân hàng quá 20% vốn huy động từ dân cư và
doanh nghiệp, thứ hai là Thông tư số 13 thắt chặt các quy định an toàn.


Phân tích về nguyên nhân lãi suất vẫn ở mức cao xuất phát từ
Thông tư 13 của NHNN:

Theo quy định tại Thông tư số 13/2010/TT - NHNN ngày 20/5/2010 của
NHNN thì TCTD chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều
kiện trước và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả và các tỷ lệ
đảm bảo an toàn khác quy định tại thông tư này và không vượt quá tỷ lệ 80% (đối
với ngân hàng, hoặc 85% (đối với các TCTD phi ngân hàng). Nghĩa là ngân hàng
huy động được 100 tỉ đồng thì chỉ được cho vay tối đa 80 tỉ đồng, số còn lại để phục
vụ cho công tác thanh khoản.
Trong các tỷ lệ đảm bảo an toàn khác, có tỷ lệ “an toàn vốn tối thiểu” gọi tắt
là CAR (Capital Adequacy Ratio) được nâng từ mức CAR >8% hiện hành lên mức
> 9% theo Thông tư 13. Như vậy, theo quy định này, các ngân hàng phải giảm
nguồn vốn huy động hay giảm tổng tài sản có đã được điều chỉnh theo mức độ rủi
ro (mẫu số). Trong tài sản có rủi ro hiện nay của ngân hàng chủ yếu vẫn là tín dụng.
Nghĩa là trước đây ngân hàng có 100 tỉ đồng vốn tự có thì được huy động tối đa
1.250 tỉ đồng (gấp 12,5 lần vốn tự có) để cho vay và thực hiện các hoạt động kinh

doanh khác (100 tỉ/1.250 tỉ = 8%). Nay theo quy định mới, với 100 tỉ đồng vốn tự
có, các ngân hàng chỉ được huy động 1.110 tỉ đồng để cho vay, kinh doanh
(100/1.110 =9%) giảm 140 tỉ đồng tài sản có sinh lời. Như vậy, ngoài rào cản kỹ
thuật thứ nhất là các ngân hàng chỉ được phép sử dụng 80% vốn huy động để cấp
tín dụng, thì ở rào cản thứ hai ngân hàng phải giảm vốn huy động để cho vay.
Điều này cho thấy, khi chi phí bỏ ra quá lớn cho khoản dự phòng thanh
khoản 20 tỉ đồng (100 tỉ - 80 tỉ) không có khả năng sinh lời như phân tích trên, thì
lãi suất cho vay khó có thể giảm. Khi lãi suất cho vay khó giảm thì đương nhiên
LSHĐ cũng khó bớt đi. Hơn nữa, khi tỷ lệ CAR tăng từ 8% lên 9% thì ngân hàng
phải giảm huy động, giảm tài sản có sinh lời, điều đó cũng đồng nghĩa với mức tăng
trưởng tín dụng khó có thể tăng lên do ngân hàng thiếu nguồn vốn.
Rõ ràng, để đạt mục tiêu an toàn hoạt động thì ngân hàng phải cắt giảm cung
ứng tín dụng và giảm nguồn vốn huy động theo quy định CAR... dẫn đến tăng
trưởng tín dụng giảm xuống. Ngược lại, để đạt mục tiêu giảm lãi suất thì các tỷ lệ
trên phải được nới rộng ra, trong khi theo Thông tư số 13 thì các tỷ lệ trên bị thu
hẹp lại, dẫn đến các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để bù đắp cho những chi phí
thực hiện các nghĩa vụ.
Tuy nhiên, nếu loại trừ hai yếu tố này thì lãi suất cho vay vẫn không giảm
với bằng chứng là nguồn vốn huy động trong chín tháng đầu năm tăng 21,5% và thị
trường được coi là dư cung vì tín dụng chỉ tăng gần 18%. Vì thế, nguyên nhân sâu
xa của lãi suất cao cần được nhìn nhận từ thực tế yếu kém của thị trường tài chính
Việt Nam, trong đó nguyên nhân trực tiếp và nổi bật là do cơ chế lãi suất thỏa thuận
đã cho phép các TCTD có quyền điều chỉnh lãi suất cho vay tùy theo tình hình thị
trường và nhiều TCTD đã điều chỉnh tăng lãi suất theo định kỳ, nhưng người vay
phải chấp nhận vô điều kiện, điển hình là đối với cho vay tiêu dùng với lãi suất
trung dài hạn khoảng 17%/năm. Ngoài ra, giá vàng, tỷ giá giữa đồng Việt Nam với

20



Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

đô la Mỹ tăng cao và lo ngại về chỉ số giá tiêu dùng (CPI) sẽ tăng cao trong những
tháng cuối năm cũng là những yếu tố khiến cho việc giảm LSHĐ của các TCTD
gặp khó khăn. Nguyên nhân lãi suất cao có thể do TCTD phải huy động với lãi suất
cao, nhưng chừng nào lãi suất cho vay còn cao thì vẫn có tình trạng “tạo sự khan
hiếm tiền đồng” để trục lợi và mặt bằng lãi suất vì thế khó giảm nếu không nói là
không thể giảm.
Trước tình hình chỉ số giá tiêu dùng tháng 10/2010 tăng 1,05% so với tháng
trước, tăng 7,58% so với tháng 12/2009; tăng 9,66% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ
số giá tiêu dùng bình quân mười tháng năm nay tăng 8,75% so với bình quân mười
tháng năm 2009. Theo dự đoán, tỷ lệ lạm phát đến cuối năm sẽ vượt mức 8% như
mục tiêu đã đề ra. NHNN chính thức phát đi tín hiệu sẽ thắt chặt tiền tệ trong thời
gian tới khi ngày 5/11 cơ quan này đã ra quyết định tăng lãi suất cơ bản bằng tiền
đồng từ 8% lên 9%/năm theo chủ trương kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Việc
này sẽ góp phần đẩy lãi suất của các ngân hàng trong thời gian tới theo xu hướng
tăng.
Mức lãi suất cơ bản mới sẽ được chính thức áp dụng từ ngày 5/11 sau 11
tháng duy trì ở mức 8%. Bên cạnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn của NHNN
cũng được điều chỉnh tăng từ 8% lên 9%/năm, lãi suất tái chiết khấu tăng từ 6% lên
7%, và lãi suất qua đêm tăng từ 8% lên 9%/năm. Từ thực tế này, giới phân tích tài
chính bình luận rằng, rất có thể quan điểm thả nổi lãi suất được xuất phát từ một
trong nhiều lý do, trong đó có con số trong vòng nửa đầu tháng 10/2010, người dân
và tổ chức đã rút ra khoảng 45 nghìn tỷ đồng mua USD hoặc vàng do lo ngại sự mất
giá của VND khi CPI tăng cao. Vì thế, thả nổi lãi suất từng bước là hợp lý.
Cùng đó, động thái kiểm soát chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước cũng góp
phần tạo nên tác động kép để vừa kiềm chế lạm phát, vừa đảm bảo lợi ích cho người
nắm giữ VND, góp phần giảm áp lực lên tỷ giá.
Hiện tại các ngân hàng đều được cho vay theo lãi suất thỏa thuận tức có thể
cao hơn 150% lãi suất cơ bản, tuy nhiên việc tăng các loại lãi suất khác có nghĩa là

lãi suất cho vay của NHNN đối với các NHTM sẽ tăng lên, đồng nghĩa với việc lãi
suất đầu vào của các ngân hàng sẽ tăng, dẫn tới khả năng NHTM khó mà duy trì
hoặc giảm lãi suất cho vay như yêu cầu của NHNN. Kết quả là một số ngân hàng đã
bắt đầu nâng LSHĐ bằng tiền đồng lên 12%/năm từ ngày 6/11. Và mức 12% trở
thành mức thỏa thuận chung của hầu hết các NHTM trong Hiệp hội ngân hàng.
Nếu như ngân hàng không đưa lãi suất tiền đồng lên cao thì không huy động
được, nhưng khi lãi suất cho vay tăng cao thì doanh nghiệp gặp khó khăn. Lãi suất
đang là bài toán khó đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp. Tuy đã áp dụng mức
đồng thuận chung về lãi suất nhưng đứng trước tình hình khan hiếm nguồn vốn như
hiện nay thì một cuộc chạy đua về LSHĐ sẽ nổ ra. Trong những tuần cuối tháng 11,
các ngân hàng bắt đầu tung ra nhiều sản phẩm khuyến mãi, tặng lãi suất, tặng tiền…
khiến mặt bằng LSHĐ tăng cao. Tiêu biểu là một số ngân hàng đã chủ động tăng
LSHĐ kéo theo hàng loạt các ngân hàng cũng tăng theo.
Chẳng hạn Ngân hàng SeABank đã đưa ra sản phẩm tiết kiệm thông minh,
cho phép khách hàng chuyển tiền qua lại giữa tài khoản thanh toán và tài khoản tiết
kiệm, trong đó LSHĐ không kỳ hạn đối với sản phẩm này khá hấp dẫn là 8%/năm

21


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

đối với số tiền dưới 50 triệu đồng, và từ 50 triệu đồng trở lên sẽ hưởng lãi suất
không kỳ hạn lên đến 11%/năm.
Ngân hàng Việt Á, mặc dù mức lãi suất niêm yết bên ngoài ngân hàng cao
nhất chỉ là 12%/năm, nhưng biểu lãi suất phát cho khách hàng bên trong ngân hàng
thì cao hơn rất nhiều vì được cộng thêm nhiều loại lãi suất. Theo đó, lãi suất tiết
kiệm kỳ hạn 2 tháng của ngân hàng này là 13,5%/năm, kỳ hạn 3 tháng là 13,7%, và
từ 14% đối với các kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. Lãi suất tiền gửi của Việt Á sẽ tăng
cao hơn nếu khách hàng gửi số tiền trên 500 triệu đồng, cao nhất là 14,5%/năm cho

kỳ hạn 13 tháng với số tiền gửi trên 3 tỉ đồng. Tuy nhiên, Việt Á là ngân hàng khá
công bằng khi đưa ra các mức lãi suất rõ ràng cho khách hàng, đảm bảo khách gửi
tiền cùng được hưởng mức lãi suất như nhau. Trong khi đó, nhiều ngân hàng khác
chỉ niêm yết lãi suất quanh mức 12%/năm nhưng nếu khách hàng trả giá thì mức
này có thể lên đến 14 - 15%/năm. Như vậy, những khách hàng gửi tiền không trả
giá sẽ bị thiệt thòi.
Ngày 17/11, Ngân hàng Á Châu (ACB) tiếp tục điều chỉnh LSHĐ VND. Cụ
thể, dù vẫn công bố lãi suất các kỳ ngắn hạn một tuần, hai tuần, ba tuần và dài hạn
một tháng, hai tháng, ba tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng ở mức 12%, nhưng ACB
tặng cho các khách hàng 0,15% lãi suất thưởng thêm vào thời điểm đáo hạn. Như
vậy, trên thực tế lãi suất các kỳ hạn thả nổi của ACB đã ở mức 12,15% một năm.
Đối với kỳ hạn 36 tháng, lãi suất thưởng thêm của ACB còn cao hơn, ở mức 0,36%
một năm. Ngoài việc đẩy lãi suất các kỳ từ 1 - 3 tuần lên mức 11,90% một năm; các
kỳ từ 1 - 12 tháng lên mức 12%/năm.
Eximbank còn đưa ra chương trình rút thăm trúng thưởng và tặng quà hấp
dẫn. Với những khách hàng gửi từ 150 triệu đồng trở lên, Eximbank tặng quà từ
400.000 đồng đến 1,5 triệu đồng. Không những thế, Eximbank còn đưa ra các kỳ
hạn “cực ngắn” cho khách hàng cá nhân (qua đêm) một ngày, hai ngày với lãi suất
từ 4,8% đến 5,4% mỗi năm. Còn mốc lãi suất cao nhất mà SEABank lập 13%, đã
chính thức bị SHB “xuyên thủng” trong ngày 19/11. Tại đây, mức lãi suất bậc thang
đối với VND các kỳ hạn từ một tháng đến 13 tháng “tiến lên” từ 13 - 13,50% mỗi
tháng. Mức cao nhất tập trung từ 2 – 3 tháng, chạm mốc 13,40%/năm. Tuy vậy,
cuộc đua lãi suất có vẻ vẫn chưa dừng lại, khi mức huy động tại các NHTM vẫn
không được như ý.
Trong khi các NHTM cổ phần thi nhau tăng LSHĐ, các ngân hàng lớn lại
thận trọng đưa mức lãi suất không quá cao và gặp thiệt thòi. Nguồn vốn huy động
đang bị ảnh hưởng mạnh bởi các khách hàng gửi tiền đòi tăng lãi suất trong khi các
NHTM cổ phần nhà nước không thể đưa lãi suất lên cao hơn 12%/năm.
Huy động vốn trong dân cư với mức lãi suất rất cao đã thế việc NHNN tăng
lãi suất cơ bản và phát đi tín hiệu thắt chặt tiền tệ, làm tăng mạnh lãi suất trên thị

trường liên ngân hàng, nơi các ngân hàng vay mượn lẫn nhau, đã lên đến 21%/năm.
Sau đó, NHNN buộc phải can thiệp, cho vay qua nghiệp vụ thị trường mở với kỳ
hạn dưới 2 tuần để đảm bảo thanh khoản cho các ngân hàng. Lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng sau đó đã giảm xuống quanh mức 13%, tuy nhiên, LSHĐ dân cư của
ngân hàng vẫn không giảm. Thêm vào đó NHNN còn nhấn mạnh việc huy động vốn
quá cao thì các NHTM đã vi phạm bộ Luật Dân sự, tức cao hơn 150% lãi suất cơ

22


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

bản. Lãi suất cơ bản hiện nay là 9% nên các ngân hàng không thể huy động tiền
đồng cao hơn 13,5%/năm. Các ngân hàng hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận
nhưng LSHĐ vẫn phải tuân theo Luật Dân sự.
Cũng có thể hiểu việc tăng lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu của NHNN
thêm 1%/năm đã báo hiệu cho thị trường lãi suất tăng, tác động lên lãi suất liên
ngân hàng là điều hiển nhiên. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên 20% 21%/năm mà vẫn có ngân hàng vay, điều này chứng tỏ ngân hàng đang chịu áp lực
thanh khoản. Thế nhưng với lãi suất cao như vậy, cả ngân hàng cho vay cũng đang
sợ mất thanh khoản nên đẩy lãi suất cao để dự phòng. Chính vì vậy, các mức lãi suất
này nhiều khả năng chỉ được giữ trong hạn ngắn cho đến khi tình hình thanh khoản
của ngân hàng được cải thiện.
Còn bản thân các doanh nghiệp thì cũng đau đầu vì LSHĐ tăng nhanh và
tăng cao, nên lãi suất cho vay của ngân hàng theo đó cũng tăng lên. Hiện nay sau
khi trả lãi, ngân hàng phải trả chi phí hoạt động, trích lập các loại dự trữ, và cộng cổ
tức cho cổ đông…, ít nhất phải cộng thêm 3% vào LSHĐ để cho vay. Cho nên với
mức huy động 14% thì lãi suất cho vay tiền đồng thấp nhất cũng là 17%/năm cũng
có ngân hàng hiện nay đẩy lãi suất lên đến 20 - 21%, có thể do muốn hạn chế nhu
cầu cho vay hoặc do phải huy động vốn với lãi suất quá cao. Hiện đang là thời điểm
mở rộng sản xuất kinh doanh chuẩn bị hàng Tết, nhưng nhiều doanh nghiệp đã bắt

đầu e ngại lãi suất đẩy chi phí lên cao và có thể sẽ phải thu hẹp quy mô hoạt động.
Điều này dẫn đến khả năng khan hiếm hàng hóa và giá cả tăng cao vào các tháng
cuối năm.
Theo nhận định của một số chuyên gia: Việc điều chỉnh lãi suất tăng có hiệu
quả trước mắt đối với việc kiềm giữ tỷ giá, vì các doanh nghiệp giảm vay VND để
mua ngoại tệ. Các doanh nghiệp có ngoại tệ cũng ít giữ hơn vì họ cũng cần VND để
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, về lâu dài Chính phủ và NHNN cần phối hợp các biện pháp khác
để bình ổn tỷ giá và mau chóng điều chỉnh giảm lãi suất. Bởi việc lãi suất tăng cao
làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước do chi phí tăng theo, làm ảnh
hưởng đến phục hồi kinh tế. Doanh nghiệp không dám đầu tư mua sắm thiết bị, máy
móc. Các hợp đồng kinh doanh khó thỏa thuận, khó triển khai vì giá cả không ổn
định. Nếu kéo dài, bước sang năm 2011, hàng hóa sản xuất trong nước sẽ khan
hiếm, giá cả tăng cao, lạm phát sẽ cao hơn, nhập siêu lớn hơn và lại gây bất lợi cho
điều hành tỷ giá. Do đó ngay từ bây giờ Việt Nam cần đặt ra mục tiêu kéo LSHĐ
giảm xuống dưới 12% và lãi suất cho vay xuống dưới 15%.
Với chỉ số giá tiêu dùng 11 tháng đầu năm lên tới 9,58% so với tháng
12/2009. Lạm phát năm nay có thể cao hơn mức 10%, được giải thích là do giá cả
thế giới tăng quá nhanh. Ngoài ra, thiên tai, lũ lụt diễn biến phức tạp trên diện rộng,
dịch bệnh gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến cung ứng hàng hóa, nhất là lương thực,
thực phẩm. Bên cạnh đó, do nhu cầu và sức mua của người dân tăng lên, đặc biệt
trong dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tất cả các yếu tố trên làm cho
CPI 11 tháng 9,58%. Do đó thì mặt bằng lãi suất trong tháng 12 sẽ có chiều hướng
tăng lên.

23


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính


Ngày 2/12, một vài ngân hàng cổ phần nhỏ đã đưa lãi suất tiết kiệm kỳ hạn
ngắn lên 16% một năm. Đây là kỷ lục mới được thiết lập sau cuộc chạy đua tăng lãi
suất tiết kiệm diễn ra hai tuần trước và cuộc đua lãi suất bước vào giai đoạn công
khai và quyết liệt hơn trước. Còn nhớ cách đây hơn 1 tháng, sau khi Chính phủ chấp
nhận tăng lãi suất để chống lạm phát, các ngân hàng đã đồng thuận lãi suất huy
động 12%. Nhưng sau đó, đồng thuận đã nhanh chóng bị phá vỡ và chuyện đồng
thuận đã không đáng để các ngân hàng lưu tâm mà thay vào đó là cuộc chạy đua lãi
suất được đẩy lên mức khủng khiếp. Lãi suất đã lần lượt qua các mốc 13 - 14%
ngay trong tháng 11, đầu tháng 12 nó nhanh chóng lên mức 15 và 16%. Thị trường
đã bắt đầu quen với việc này và tin rằng nó sẽ sớm qua khi nhiệm vụ chống lạm
phát 2010 kết thúc.
Tuy nhiên, ngày 8/12, Techcombank đã nổ một "quả bom" khi đưa lãi suất
lên 17% và cộng cả lãi suất thưởng là 17,6%. Dù đây chỉ là một chương trình
khuyến mãi ngắn ngày nhưng đây thực sự là một cú sốc trên một nền lãi suất đã quá
cao. Theo công bố của Techcombank, mức lãi suất tiết kiệm lên tới 17%/năm được
áp dụng với những khoản tiền gửi từ 100 triệu đồng trở lên và với kỳ hạn 1 tháng.
Thời gian để khách hàng gửi tiền với mức lãi suất cực khủng như trên chỉ kéo dài
trong 3 ngày từ 8 - 10/12/2010. Nếu khách hàng gửi dài hơn một tháng, ngân hàng
này chỉ áp dụng mức 17% cho kỳ đầu tiên, còn những tháng sau thì áp dụng lãi suất
niêm yết của thời kỳ đó. Khách hàng gửi với lãi suất khủng sẽ không được rút trước
hạn. Tuy nhiên, với những khách hàng gửi kỳ hạn trên 1 tháng, khi hết hạn gửi và
gia hạn thêm thì sẽ được tặng tiền mặt 50.000 đồng trên mỗi 100 triệu đồng tiền gửi
trong kỳ gia hạn đầu tiên.
Bên cạnh việc tung ra mức lãi suất gây sốc, Techcombank còn tặng 500.000
đồng cho người giới thiệu một khách hàng gửi tiền mới với số tiền từ 1 tỷ đồng trở
lên (gửi kỳ hạn tối thiểu 1 tháng). Như vậy, với những khách hàng gửi tiết kiệm lần
đầu tại ngân hàng này với số tiền 1 tỷ đồng trở lên, lãi suất mà Techcombank phải
trả tổng cộng lên tới 17,6% một năm (gồm lãi suất và tiền thưởng cho người giới
thiệu).
Trước đó, mức lãi suất tiết kiệm được coi là khủng nhất trên thị trường thuộc

về vài ngân hàng cổ phần nhỏ với 16% một năm cho kỳ hạn 1 tháng. Tuy nhiên, các
ngân hàng này đều không đăng thông tin công khai mức lãi suất 16%. Vì vậy, việc
Techcombank – ngân hàng thuộc diện đại gia trong giới cổ phần, công bố mức lãi
suất tiết kiệm lên tới 17% một năm là một cú sốc lớn đối với thị trường. Tuy nhiên,
khi khi nhiều ngân hàng chưa kịp phản ứng chính thức với lãi suất 17% thì thị
trường lại dựng ngược với LSHĐ 18% của Ngân hàng Đông Nam Á (Seabank).
Điều này đồng nghĩa với việc lãi suất cho vay sẽ tăng đột biến hiện tại mức lãi suất
phổ biến ở mức 20 - 23%/năm.
Sau khi Chính phủ chủ trương "thả" lãi suất tăng lên để chống lạm phát thì
lãi suất đã ngày càng tăng và đang tăng quá đà kiểm soát. Ngân hàng Nhà nước cho
rằng, lãi suất tăng cao trong thời gian qua là giải pháp "bất khả kháng", vì lợi ích
của cả nền kinh tế là chống lạm phát. Nhưng đến một lúc nào đấy nền kinh tế ổn
định rồi thì lãi suất cạnh tranh càng ngày phải càng giảm xuống.

24


Bộ môn: Thị trường tài chính và các định chế tài chính

Theo đánh giá của NHNN, tình hình huy động và cho vay hiện đang ổn định,
hệ số sử dụng vốn không cao, tăng trưởng tín dụng phù hợp với mặt bằng chung của
cả nước và thanh khoản vẫn đủ đảm bảo thanh toán. Vì vậy, NHNN khẳng định biến
động lãi suất trong ngày 8/12 không xuất phát từ nguyên nhân căng thẳng nguồn
vốn. Thực tế, lãi suất công bố của các ngân hàng hiện nay chỉ khoản dưới 15%
nhưng thực chất rất nhiều ngân hàng đã thỏa thuận với nhiều khách hàng với lãi
suất cao hơn. Việc hôm nay cũng chỉ là công khai hóa lãi suất mà các ngân hàng đã
áp dụng.
Ngay chiều ngày 8/12 NHNN đã có công văn số 9577/NHNN - CSTT yêu
cầu Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương (Techcombank) phải kịp thời rút
kinh nghiệm trong việc điều chỉnh lãi suất huy động vốn VND, song việc tăng lãi

suất đột biến của Techcombank cũng làm xuất hiện tâm lý lo ngại trên thị trường
tiền tệ.


Việc ngân hàng đột biến tăng lãi suất huy động cho ta thấy hai nguyên
nhân:

− Thứ nhất do tuyên bố thả nổi lãi suất hồi đầu tháng 11. Ngày 4/11, Chủ tịch

Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã nhân danh Chính phủ nói rằng, không còn
vấn đề khống chế lãi suất nữa, lãi suất là do thị trường. Như vậy là mở cửa cho sự
tự do của hệ thống ngân hàng.

− Thứ hai là trong thị trường tài chính tiền tệ đang rất khan hiếm vốn. Vốn

nhàn rỗi trong nhân dân là do tiết kiệm trong nhân dân mà ra. Thì như vậy, nó sẽ có
giới hạn của nó, mà hiện nay, cái giới hạn đó lại dùng nhiều vào đầu tư vàng, bất
động sản, chứng khoán... Cho nên số tiền nhàn rỗi để gửi ngân hàng không nhiều
nữa. Từ giờ cho đến cuối năm, nhu cầu về tín dụng rất cao, ngân hàng đi thu gom
tiết kiệm trong nhân dân bằng chính sách lãi suất.

Sau khi NHNN có động thái răn đe những ngân hàng huy động vốn với 17 18%/năm thì ngày 10/12 hầu hết các ngân hàng đều đã niêm yết lãi suất tiết kiệm
giảm còn 14%. Tuy nhiên, khi khách hàng mang tiền đến gửi thì lãi suất thực tế cao
hơn từ 2 - 2,5% so với lãi suất do ngân hàng công bố.
Thủ tướng Chính phủ chủ trương yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, bảo
đảm cân đối cung cầu hàng hóa, dịch vụ, bình ổn giá cả, thị trường trong dịp Tết
Nguyên đán Tân Mão và quý I năm 2011, để ổn định LSHĐ trên thị trường tiền tệ
theo đề nghị của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam và các NHTM tại cuộc họp do
NHNN Việt Nam tổ chức. Ngày 14/12/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã ban hành văn bản số 9779/NHNN-CSTT yêu cầu các TCTD ấn định lãi

suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam (lãi suất tiền gửi, lãi suất giấy tờ có giá...)
của các tổ chức (trừ TCTD) và cá nhân, bao gồm cả khoản chi khuyến mại dưới mọi
hình thức không vượt quá 14%/năm.
Mức LSHĐ vốn tối đa này được thực hiện kể từ ngày 15/12/2010 và điều
chỉnh giảm phù hợp với tình hình lạm phát và cung - cầu vốn thị trường. Đồng thời,
niêm yết công khai LSHĐ vốn bằng đồng Việt Nam tại các địa điểm huy động vốn
(Hội sở chính, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm...) theo quy
định của NHNN Việt Nam.

25


×