Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU KHOÁNG sản đá vôi tại TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ

ĐỖ VĂN THẮNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU
KHOÁNG SẢN ĐÁ VÔI TẠI TỈNH THANH HÓA

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 60 34 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN TÀI PHÚC

HUẾ - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân
được đúc kết từ quá trình nghiên cứu học tập trong thời gian qua và thực tế tại đơn vị
công tác; số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề
sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin đã được trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Thanh Hóa, ngày tháng 4 năm 2014
Tác giả luận văn

Đỗ Văn Thắng



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều tập
thể và cá nhân. Trước hết tôi trân trọng cảm ơn thầy giáo, PGS.TS. Nguyễn Tài
Phúc, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin
chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Khoa học công nghệ - Hợp tác quốc tế Đào tạo sau đại học, các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, nhân viên của trường Đại học
kinh tế Huế đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Tôi xin dành lời cảm ơn chân thành đến Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Sở
Tài nguyên và Môi trường Thanh Hóa, Cục Thuế tỉnh Thanh Hóa, Cục Thống kê tỉnh
Thanh Hóa, Cục Hải quan tỉnh Thanh Hóa, đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi tiếp
cận, thu thập nhiều thông tin và dữ liệu quan trọng trong thời gian qua.
Do những hạn chế về tầm hiểu biết, khả năng của bản thân và thời gian thực
hiện nên không tránh khỏi những vướng mắc, thiếu sót. Tôi kính mong quý thầy cô,
quý cơ quan, cùng các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn.
Tác giả luận văn

Đỗ Văn Thắng


TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
Họ và tên học viên: ĐỖ VĂN THẮNG
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh. Niên khóa 2012 – 2014
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN TÀI PHÚC
Tên đề tài: NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU
KHOÁNG SẢN ĐÁ VÔI TẠI TỈNH THANH HÓA
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khai thác, sản xuất, chế biến đá vôi xuất khẩu là một họat động kinh tế - công
nghiệp truyền thống, đặc thù của tỉnh Thanh Hóa, nơi có trữ lượng đá vôi lớn, đưa
Thanh Hóa trở thành trung tâm sản xuất đá nổi tiếng của Việt Nam và trên thế giới.
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, họat động này cũng đang đối mặt với nhiều

khó khăn, thách thức về công nghệ, nguồn nguyên liệu, an toàn lao động, bảo vệ môi
trường, thị trường xuất khẩu, cạnh tranh...Tuy nhiên, cơ hội để sản phẩm đá Thanh
Hóa phát triển còn rất lớn, xuất phát từ tiềm năng và lợi thế của tỉnh và từ xu hướng
sử dụng đá trong các công trình, dự án xây dựng.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên đã thúc đẩy tôi nghiên cứu đề tài “Nâng
cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh Thanh Hóa”.
2. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, trừu tượng hóa khoa học và vận dụng phương pháp phân tích thống kê, so
sánh, điều tra khảo sát thực tế. Đồng thời dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và
chính sách, pháp luật của nhà nước về những vấn đề liên quan.
3. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp khoa học của luận văn
Dựa trên lý luận cơ bản về xuất khẩu nói chung, xuất khẩu khoáng sản đá vôi
nói riêng và đặc điểm địa bàn nghiên cứu, đề tài đã chỉ ra thực trạng, phân tích, đánh
giá hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh thanh Hóa trong giai đoạn 20102012. Từ đó, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá
vôi tại tỉnh Thanh Hóa.
Đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU


1. DN

: Doanh nghiêp

2. ĐVT

: Đơn vị tính

3.HQ


: Hải quan.

4. KN

: Kim ngạch

5. TNTN

: Tài nguyên thiên nhiên

6. TP

: Thành phố

7. TT

: Thị trường

8. XK

: Xuất khẩu

9. XNK

: Xuất nhập khẩu

10. UBND

: Ủy ban nhân dân



DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh..................................60
của các DN xuất khẩu đá trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.....................................60
Bảng 2.12: Thuế và các khoản phí, lệ phí nộp ngân sách nhà nước..................64
từ xuất khẩu đá vôi tại Thanh Hóa.....................................................................64
Bảng 2.13: Thu Ngân sách xuất khẩu đá vôi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa......65
ĐVT: Tỷ đồng........................................................................................................65
Bảng 2.15: Kết quả phỏng vấn doanh nghiệp .....................................................76
về thị trường xuất khẩu.........................................................................................76
Bảng 2.16: Kết quả phỏng vấn ý kiến người lao động khai thác, sản xuất, chế
biến đá xuất khẩu về điều kiện lao động.............................................................78
Bảng 2.17: Các biện pháp bảo hộ lao động và y học dự phòng..........................78
Bảng 2.18: Kết quả phỏng vấn ý kiến của người dân .......................................80
xung quanh khu vực khai thác, chế biến đá........................................................80

DANH MỤC CÁC HÌNH

Bảng 2.11: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh..................................60
của các DN xuất khẩu đá trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.....................................60
Bảng 2.12: Thuế và các khoản phí, lệ phí nộp ngân sách nhà nước..................64
từ xuất khẩu đá vôi tại Thanh Hóa.....................................................................64
Bảng 2.13: Thu Ngân sách xuất khẩu đá vôi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa......65
ĐVT: Tỷ đồng........................................................................................................65
Bảng 2.15: Kết quả phỏng vấn doanh nghiệp .....................................................76
về thị trường xuất khẩu.........................................................................................76
Bảng 2.16: Kết quả phỏng vấn ý kiến người lao động khai thác, sản xuất, chế
biến đá xuất khẩu về điều kiện lao động.............................................................78



Bảng 2.17: Các biện pháp bảo hộ lao động và y học dự phòng..........................78
Bảng 2.18: Kết quả phỏng vấn ý kiến của người dân .......................................80
xung quanh khu vực khai thác, chế biến đá........................................................80

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................2
LỜI CẢM ƠN..........................................................................................................3
TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ.............................4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU.............................................4
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU...........................................................................6
DANH MỤC CÁC HÌNH........................................................................................6
MỤC LỤC................................................................................................................ 7


MỞ ĐẦU................................................................................................................11
Số lượng thị trường có KN nhập khẩu đá Thanh Hóa từ 500.000 USD trở lên rất
ít, theo phân tích, bình quân hàng năm có 6 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này
cho thấy, ngoài Bỉ, đá ốp lát Việt Nam chưa có thị trường lớn. 6 thị trường nhập
khẩu lớn nhất (gồm: Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Đài Loan và Iran) chiếm bình
quân 83,29% tổng KN nhập khẩu đá Thanh Hóa trong giai đoạn 2010-2012,
riêng năm 2011 chiếm đến 95,23%.......................................................................54
* Cơ cấu và đơn giá sản phẩm xuất khẩu............................................................54
Cơ cấu sản phẩm chịu sự ảnh hưởng lớn từ thị trường tiêu thụ; thị trường nào,
sản phẩm đó. .........................................................................................................54
- Thị trường Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Đức: chỉ ưa thích sử dụng đá xanh đen để
lát vỉa hè, lát công viên, sân vườn, quảng trường với các kích thước phổ biến
như 15x15x2 cm, 15x15x2.5 cm, 15x15x5 cm, 20x20x2 cm, 20x20x2.5cm,
20x20x5 cm, 30x30x2.5cm, 40x40x2.5cm và trang trí trong nhà với các kích

thước 7x40x1.5cm, 20x40x2cm, 40x60x2cm, 60x60x2cm, 80x80x3cm...(Dòng sản
phẩm thứ nhất). Đơn giá bình thấp nhất 8 USD/M2 , cao nhất 35 USD/M2 ...54
- Trong khi đó, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapo, Malaysia nhập khẩu
đá kích thước nhỏ (5x20x2.5 cm, 10x20x2.5 cm, 10x30x2.5cm...) trang trí ngoài
trời, cổng công trình, màu sắc đa dạng. (Dòng sản phẩm thứ hai). Đơn giá bình
thấp nhất 10 USD/M2, cao nhất 20 USD/M2 .....................................................54
- Các quốc gia Hồi giáo và Trung Đông không nhập khẩu đá xanh đen, chỉ nhập
khẩu đá có màu trắng, vàng hoặc vân với kích thước lớn, chủ yếu là 80x40x2cm,
80x40x3cm, 60x60x2/3cm, 120x60x2/3cm...(Dòng sản phẩm thứ ba). Đơn giá
bình thấp nhất 25 USD/M2 , cao nhất 30 USD/M2 ...........................................54
3 dòng sản phẩm này mặc dù có kích thước, màu sắc, thị trường tiêu thụ khác
nhau, nhưng đều có công nghệ khai thác, sản xuất, chế biến gần như giống
nhau, do đó đã tận dụng được máy móc thiết bị và nhân lực.Chi phí sản xuất
của các sản phẩm trên chủ yếu nằm ở nguyên liệu - chiếm 60%, công đoạn sản
xuất, chế biến chiếm 30% và chi phí quản lý, bán hàng chiếm 10%.................54
Trong cơ cấu các thị trường xuất khẩu lớn của đá Thanh Hóa giai đoạn 20102012 (Phụ lục 4), đang có xu hướng dịch chuyển sản xuất, tiêu thụ từ dòng sản


phẩm thứ nhất (truyền thống) sang dòng sản phẩm thứ hai và thứ ba (những
sản phẩm mới, cho các thị trường mới). Giá cả sản phẩm cũng có sự thay đổi
theo thị trường: giá cả của dòng sản phẩm truyền thống ổn định, kể cả đối với
khách hàng mới; trong khi giá cả của 2 dòng sản phẩm còn lại cao hơn, dễ điều
chỉnh hơn, đặc biệt là đối với khách hàng mới.Tất cả sản phẩm đá Thanh Hóa
XK hầu hết đều ở dạng đã sản xuất, chế biến thành phẩm, không phải ở dạng
xuất thô như các tài nguyên khác mà Việt Nam đang XK. Sản phẩm nhập khẩu
về được sử dụng ngay trong các công trình, dự án đã được thiết kế, chỉ định
dùng vật liệu xây dựng đá vôi hoặc lưu trong kho của nhà nhập khẩu, phân
phối......................................................................................................................... 55
* Số lượng doanh nghiệp làm thủ tục xuất khẩu đá vôi.....................................55
Mặc dù KN XK mặt hàng đá ốp lát chiếm tỷ trọng nhỏ, có xu hướng giảm trong

XK của tỉnh Thanh Hóa, nhưng số lượng DN làm thủ tục XK luôn chiếm tỷ lệ
tương đối cao và ổn định trong thời gian dài (bình quân 38,7%/năm tổng số
lượng DN làm thủ tục XNK). Điều này cho thấy, khai thác sản xuất đá vôi tại
Thanh Hóa (trong đó có đá ốp lát XK) vẫn là một họat động kinh tế - công
nghiệp phổ biến, đặc thù, truyền thống của tỉnh, ảnh hưởng đáng kể lên các
thành phần kinh tế khác. Qua Bảng 2.10 trên cho thấy, một số lương lớn các DN
thương mại, ủy thác XK không trực tiếp tham gia khai thác, sản xuất, nhưng đã
tham gia vào quá trình XK đá (hàng năm chiếm đến 41% số lượng. Số lượng
DN thương mại làm thủ tục XK nhiều nên cũng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng KN
XK đá ốp lát Thanh Hóa, bình quân 33,3%/năm trong giai đoạn 2010-2012 và
đang có chiều hướng gia tăng (năm 2010 chiếm 29%, năm 2011 chiếm 34% và
đến năm 2012 chiếm 37%)....................................................................................56
* Cách thức kinh doanh, xuất khẩu.....................................................................57
Cách thức kinh doanh truyền thống của đá Thanh Hóa trong thời gian qua và
hiện nay chủ yếu vẫn mang tính chất bị động, đối tác nhập khẩu tự tìm đến hơn
là DN chủ động giới thiệu, mặc dù đã có một số DN đá Thanh Hóa tham dự các
hội chợ chuyên ngành đá trên thế giới. Đối tác nhập khẩu thường mang sản
phẩm đã được nghiên cứu, chế tạo thành công ở nước ngoài về Thanh Hóa để
sản xuất đại trà, XK đi nước ngoài; họ biết rõ chi phí sản xuất, chất lượng, kỹ


thuật, ứng dụng sản phẩm tại từng quốc gia có nền công nghiệp đá lớn trên thế
giới (như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin, Tuynisia). Sau đó, chính các đối tác này
chủ động mang sản phẩm đi giới thiệu tại các Hội chợ, triễn lãm chuyên ngành
về đá, tại các phòng trưng bày (showroom) và tiếp cận với giới kiến trúc sư,
thiết kế, chủ đầu tư và người tiêu dùng...............................................................57
Cũng giống như hầu hết hàng hóa khác của Việt Nam, hầu hết đá Thanh Hóa
XK theo điều kiện FOB – Cảng Hải Phòng. Theo đó, sản phẩm đá thành phẩm
được đóng trong các thùng gỗ rồi xếp vào container loại 20 feer và vận chuyển
bằng đường bộ từ Thanh Hóa đi Cảng Hải Phòng để để xếp lên tàu; mọi chi phí

vận chuyển và bảo hiểm cho lô hàng từ Việt Nam đến quốc gia/vùng lãnh thổ
nhập khẩu do người nhập khẩu chịu. Thời gian vận chuyển đến nhà nhập khẩu
lâu nhất là 35 ngày (đi Bỉ, Hà Lan bình quân 27 ngày). Điều kiện thanh toán
chủ yếu là TTR, DAP, DP và L/C (thanh toán hoặc cam kết thanh toán trước
khi nhận được hồ sơ XK gốc). Tính liên kết giữa các DN XK đá ốp lát với nhau
còn rất hạn chế; trong khi DN tại các quốc gia nhập khẩu có mối quan hệ lẫn
nhau và quan hệ phối hợp rất tốt (như quan hệ giữa DN với hãng tàu, với bảo
hiểm, chính quyền...).............................................................................................57
- Về vấn đề môi trường và an toàn cho người lao động: Trong những năm gần
đây, số vụ tai nạn lao động trong ngành khai thác khoáng sản, đặc biệt là khai
thác đá diễn ra khá nghiêm trọng trên toàn quốc nói chung và tỉnh Thanh Hóa
nói riêng. Trong đó ngành khai thác đá vôi là ngành chứa nhiều nguy cơ không
an toàn từ khâu khai thác đến sản xuất, chế biến. Do đặc thù của đối tượng lao
động: trọng lượng lớn, cồng kềnh và việc sử dụng các thiết bị nguy hiểm cao
như chất nổ, máy cắt, máy khoan….Nên số vụ tai nạn lao động chiếm đến 10%
tổng số các vụ tai nạn lao động nghiêm trọng gây thiệt mạng cho người lao động
và tàn tật suốt đời ở tỉnh Thanh Hóa...................................................................77


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với gần ¾ diện tích là vùng núi và trung du (8.000/11.106,09 km2 ), Thanh
Hoá là một trong những tỉnh có nhiều tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho ngành khai
thác và sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt là ngành công nghiệp khai thác khoáng
sản đá vôi. Khai thác, chế biến đá vôi là một ngành nghề truyền thống của tỉnh
Thanh Hóa hàng trăm năm nay, khởi đầu chỉ là điêu khắc, tạc tượng bằng đá, sau đó
đá được dùng để xây thành lũy, tường rào, lát, trang trí, cho đến ngày nay đã được sử
dụng phổ biến trong các công trình xây dựng dân dụng, giao thông công cộng ở trong
tỉnh, trong nước và xuất khẩu ra thế giới. Trải qua quá trình hình thành và phát triển,
khai thác khoáng sản đá vôi, mà trong đó chủ yếu là để xuất khẩu, đã trở thành họat

động kinh tế đặc thù của tỉnh Thanh Hóa và cùng với đá Granite Bình Định, đá
Thanh Hóa là một trong những thương hiệu hàng hóa nổi tiếng không chỉ ở Việt
Nam mà còn trên thị trường thế giới, đúng như tên gọi “ Quê hương của đá xẻ”.
Hiện nay, hoạt động xuất khẩu khoáng sản đá vôi được xác định là một trong
những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh Thanh Hóa với thị trường tiêu thụ chủ
yếu là Châu Âu, tạo ra công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần vào việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như mang lại các hiệu quả kinh tế, xã hội, môi
trường khác.
Trải qua quá trình phát triển theo chiều hướng xuất khẩu, ngành đá Thanh
Hóa đã bộc lộ những nhược điểm nội tại và cùng với sự điều chỉnh phát triển khoáng
sản theo chiều hướng bền vững của Nhà nước, sự cạnh tranh xuất khẩu đá vôi trên
thế giới, họat động xuất khẩu đá vôi tại Thanh Hóa đang đứng trước những khó
khăn, thử thách, đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước, cho cộng đồng doanh
nghiệp.
Vì vậy, rất cần thiết phải có các giải pháp để phát triển một ngành kinh tế -


công nghiệp truyền thống và chủ lực như xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh Thanh
Hóa.
Mặt khác, việc đưa ra được các giải pháp cũng nhằm để thúc đẩy các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu đá đổi mới, nâng cao các kỹ năng quản
trị, để phát triển doanh nghiệp ổn định, bền vững.

.

Có một số công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này, nhưng chưa có
một công trình cụ thể nào đề cập đến vai trò, giá trị cuả xuất khẩu khoáng sản đá vôi
tại Thanh Hóa.
Xuất phát từ những lý do trên, nên tôi chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả xuất
khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh Thanh Hóa”, đảm bảo là một đề tài mới, không

trùng với ai đã nghiên cứu.
2. Mục đích tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Làm rõ giá trị và tác động đến kinh tế - xã hội của hoạt động khai thác, chế
biến, xuất khẩu đá vôi ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất phương
hướng và các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại
tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế gắn với phát
triển bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu, hiệu quả xuất khẩu
và xuất khẩu khoáng sản đá vôi; các quy định và hướng dẫn về xuất khẩu khoáng sản
là đá vôi.
- Phân tích đánh giá thực trạng xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh Thanh
Hóa trong thời gian qua.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả xuất
khẩu khoáng sản đá vôi trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ xem xét giá trị xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại tỉnh Thanh Hóa trên
cơ sở các quy định hiện hành của Nhà nước, gắn với tình hình thực tế họat động và
xu hướng sử dụng, tiêu thụ.
Đề tài xem xét thực trạng sản xuất đá vôi để xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa trong giai đoạn 2010 - 2012 và đề xuất các giải pháp đến năm 2020.


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở những lý luận cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, một số lý thuyết kinh tế học về hiệu quả xuất khẩu, các nghị quyết, chủ
trương, chính sách, đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước liên
quan đến nội dung nghiên cứu.
Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp

trừu tượng hóa khoa học và vận dụng phương pháp phân tích thống kê, điều tra khảo
sát thực tế, phỏng vấn.
Công cụ để sử lý số liệu mà đề tài sử dụng là phần mềm iviews và excel.
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa trong việc hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại Thanh
Hóa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, phù hợp với đặc điểm kinh tế tự nhiên-xã hội trên địa bàn tỉnh.
Đề tài cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến vấn đề
này, đặc biệt là những ai quan tâm nghiên cứu chuyên ngành Quản trị kinh doanh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản
đá vôi.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại Thanh Hóa
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu khoáng sản đá vôi tại
tỉnh Thanh Hóa


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XUẤT KHẨU KHOÁNG SẢN ĐÁ VÔI
1.1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU
1.1.1 Khái niệm về xuất khẩu
Xuất khẩu (Export) là một hoạt động thương mại quan trọng đối với mọi
quốc gia trên thế giới, cho dù đó là quốc phát triển hay đang phát triển. Ngày nay, có
nhiều quan điểm khác nhau về XK, nhưng đều có điểm chung là gắn với sự trao đổi
hàng hoá và dịch vụ của một quốc gia/vùng lãnh thổ này với quốc gia/vùng lãnh thổ
khác.
Hoạt động XK là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất hiện
từ rất lâu đời và ngày càng phát triển; từ chỗ hình thức đầu tiên chỉ là hàng đổi hàng,

đến nay đã đa dạng thành nhiều hình thức XK khác nhau, diễn ra trên mọi lĩnh vực,
trong mọi điều kiện kinh tế, từ XK hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy
móc thiết bị, công nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi đó đều nhằm đem
lại lợi ích cho quốc gia.
Hoạt động XK diễn ra trên mọi phạm vi rộng cả về không gian lẫn thời gian.
Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và cũng có thể diễn ra trong kéo dài hàng
năm. Đồng thời nó có thể được tiến hành trên phạm vi toàn lãnh thổ một quốc gia
hay nhiều quốc gia khác nhau.
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, hoạt động XK thực sự có
ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững
chắc cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bởi vậy trong chính sách kinh tế
của mình, Đảng và Nhà nước đã nhiều lần khẳng định "Đẩy mạnh xuất khẩu, coi


xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại " [18] và là một
trong ba chương trình kinh tế lớn phải thực hiện.
Khoản 1, Điều 28, Mục 1, Chương II, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005
coi XK là một trong những hình thức mua bán hàng hóa (mua bán hàng hóa quốc tế)
và đã định nghĩa: “ XK hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật ” [24].
Như vậy, cũng như nhiều nước trên thế giới, yếu tố xuyên suốt trong quan
niệm về XK của nước ta vẫn là hàng hóa phải được đưa ra khỏi lãnh thổ. Ngoài ra,
có một số ít trường hợp tuy vẫn nằm trong lãnh thổ, nhưng đó là khu vực đặc biệt, có
chế độ quản lý riêng (như khu chế xuất, khu phi thuế quan, khu kinh tế cửa khẩu, khu
thương mại đặc biệt...).
Xuất khẩu đem lại những giá trị rất lớn không chỉ đối với mỗi nền kinh tế
quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp mà còn tác động đáng kể lên tình hình kinh tế thế
giới, xã hội.
-XK là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu

tiên trong hoạt động thương mại quốc tế, XK có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế của một quốc gia cũng như toàn thế giới.
Do những lý do khác nhau nên mỗi quốc gia đều có thế mạnh về lĩnh vực này
nhưng lại yếu ở lĩnh vực khác. Để có thể khai thác được lợi thế, giảm bất lợi, tạo ra
sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia phải tiến hành trao
đổi với nhau, mua những sản phẩm mà mình sản xuất khó khăn, bán những sản phẩm
mà việc sản xuất nó là có lợi thế . Tuy nhiên hoạt động XK nhất thiết phải được diễn
ra giữa những nước có lợi thế về lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Một quốc gia thua
thiệt về tất cả các lĩnh vực TNTN, nhân công tiềm năng kinh tế... thông qua hoạt
động XK cũng có điều kiện phát triển kinh tế nội địa.
Nói một cách khác, một quốc gia dù trong tình huống bất lợi vẫn tìm ra điểm
có lợi để khai thác. Bằng việc khai thác các lợi thế này, các quốc gia tập trung vào
sản xuất XK các mặt hàng có lợi thế tương đối và nhập khẩu các mặt hàng không có
lợi thế tương đối. Sự chuyên môn hoá trong sản xuất này đã làm cho mỗi quốc gia
khai thác được lợi thế tương đối cuả mình một cách tốt nhất để tiết kiệm nguồn nhân


lực như vốn, lao động, TNTN... trong quá trình sản xuất hàng hoá. Và vì vậy trên
quy mô toàn thế giới thì tổng sản phẩm cũng sẽ được gia tăng.
Như chúng ta đã biết XK hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt động buôn
bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau (quốc tế). Nó không phải là hành vi
buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà có cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong tổ
chức thương mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm của một DN nói riêng,
cả quốc gia nói chung.
XK hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá, là một trong bốn khâu
của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng của nước
này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của của XK sẽ là một trong những động
lực chính để thúc đẩy sản xuất.
Trước hết, XK bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của sản xuất
giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt

hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ
đem lại lợi nhuận lớn hơn.
Theo quan điểm về lợi thế tuyệt đối của nhà kinh tế học Adam Smith (17231790), một quốc gia chỉ sản xuất các loại hàng hoá, mà việc sản xuất này sử dụng tốt
nhất, hiệu quả nhất các tài nguyên sẵn có của quốc gia đó. Đây là một trong những
giải thích đơn giản về lợi ích của thương mại quốc tế nói chung và XK nói riêng.
Nhưng trên thực tế việc tiến hành trao đổi phải dưa trên nguyên tắc đôi bên cùng có
lợi. Nếu trong trường hợp một quốc gia có lợi và một quốc gia khác bị thiệt thì họ sẽ
từ chối tham gia vào hợp đồng trao đổi này .
Tuy nhiên, lợi thế tuyết đối của Adam Smith cũng giải thích được một phần
nào đó của việc đem lại lợi ích của XK giữa các nước đang phát triển. Với sự phát
triển mạmh mẽ của nền kinh tế toàn cầu mấy thập kỷ vừa qua cho thấy hoạt động XK
chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia đang phát triển với nhau, điều này không thể giải
thích bằng lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Trong những cố gắng để giải thích các cơ sở
của thương mại quốc tế nói chung và XK nói riêng, lợi thế tuyệt đối chỉ còn là một
trong những trường hợp của lợi thế so sánh.
Mặt khác, theo như quan điểm về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người
Anh - David Ricardo (1772-1823), cho rằng nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn


so với hiệu quả của quốc gia khác trong việc sản xuất tất cả các loại sản phẩm thì
quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào hoạt động XK để tạo ra lợi ích. Khi tham gia
vào hoạt đông XK, quốc gia đó sẽ tham gia vào việc sản xuất và XK các loại hàng
hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương
đối) và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng có những bất lợi hơn
(đó là những hàng hoá không có lợi thế tương đối).
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo chỉ đề cập đến mô hình đơn giản
chỉ có hai nước và việc sản xuất hàng hoá chỉ với một nguồn đầu vào là lao động. Vì
thế mà lý thuyết của David Ricardo chưa giải thích một cách rõ ràng về nguồn gốc
cũng như là lợi ích của các hoạt động XK trong nền kinh tế hiện đại. Để đi tiếp con
đường của các nhà khoa học đi trước, hai nhà kinh tế học người Thụy Điển (Hecsher

và Ohlin) đã bổ sung mô hình mới trong đó ông đã đề cập tới hai yếu tố đầu vào là
vốn và lao động. Học thuyết Hecsher (1879-1952) – Ohlin (1899-1979) phát biểu:
Một nước sẽ XK loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng sử dụng nhiều yếu tố rẻ và
tương đối sẵn của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng
cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm ở quốc gia đó. Hay nói cách khác, một
quốc gia tương đối giàu lao động sẽ sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao động và
nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Về bản chất, học thuyết Hecsher- Ohlin căn cứ vào sự khác biệt về tính phong
phú và giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất, là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt
về giá cả tương đối của hàng hoá giữa các quốc gia trước khi có các hoạt động XK
để chỉ rõ lợi ích của các hoạt động XK. Sự khác biệt về giá cả tương đối của các yếu
tố sản xuất và giá cả tương đối của các hàng hoá sau đó sẽ được chuyển thành sự
khác biệt về giá cả tuyệt đối của hàng hoá. Sự khác biệt về gíá cả tuyệt đối của hàng
hoá là nguồn lợi của hoạt động XK.
-Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được
đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Buôn bán quốc tế có ý nghĩa sống còn, mở rộng khả năng
tiêu dùng của một nước. XK có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. XK là một trong những nhân tố cơ bản
để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia.XK là một hoạt động thương
mại quốc tế có vai trò quan trọng thể hiện trên nhiều phương diện.


+ Hoạt động XK phát huy được các lợi thế của đất nước, phát triển có hiệu
quả kinh tế trong nước.
Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa
của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh, mỗi
nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các
thành tựu kinh tế khoa học kỹ thuật của loài người để phát triển. Nền kinh tế mở cửa,
trong đó XK đóng vai trò then chốt sẽ mở hướng phát triển mới tạo điều kiện khai
thác lợi thế tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế

một cách có lợi nhất.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những nhân tố tiềm năng là: TNTN và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt là vốn,
kỹ thuật, thị trường và kĩ năng quản lý. XK là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm
tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về
lao động và TNTN để tạo sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn
khoảng cách chênh lệch với các nước giàu.
Để XK được, các DN kinh doanh XK phải lựa chọn các mặt hàng có tổng chi
phí nhỏ hơn giá trị trung bình trên thị trường thế giới. Họ sẽ phải dựa vào những
ngành hàng, những mặt hàng có lợi thế của đất nước cả về tương đối và tuyệt đối.
Hoạt động XK thúc đẩy khai thác có hiệu quả hơn vì khi XK các DN XK sẽ có ngoại
tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng xuất lao động lên cao.
+ XK tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành nhân tố quyết
định cho sự phát triển của sản xuất. XK để tăng khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm
cho nền kinh tế nông nghịêp lạc hậu sản xuất nhỏ là phổ biến có nguồn bổ sung kỹ
thuật tiên tiến nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, nâng cao khả năng
cạnh tranh.
Quá trình phát triển của nền kinh tế đỏi hỏi phải nhập khẩu một lượng ngày
càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp ... Trong các nguồn như đầu
tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ... thì bằng cách này hay cách khác đều phải trả. Chỉ
có XK mới là hoạt động có hiệu quả nhất tạo ra nguồn vốn nhập khẩu bởi chúng


không phải trả bất cứ một khoản chi phí nào khác như nguồn vốn vay ngoài, hơn nữa
còn thể hiện tính tự chủ của nguồn vốn.
Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều khẳng
định và chỉ rõ, để tăng trưởng và phát triển kinh tế, mỗi quốc gia cần có bốn điều
kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc

gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ. Do vậy câu
hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ.
Trong thương mại quốc tế, XK không chỉ để thu ngoại tệ về mà còn bảo đảm
cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng,
tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu, tích luỹ ngoại tệ. XK với nhập khẩu
trong thương mại quốc tế là tiền đề của nhau, XK để nhập khẩu và nhập khẩu để phát
triển XK. Đặc biệt ở các nước kém phát triển, một trong những vật cản chính đối với
sự phát triển kinh tế là thiếu tiềm lực về vốn. Vì vậy nguồn huy động từ nước ngoài
được coi là nguồn chủ yếu cho quá trình phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc
vay nợ nước ngoài chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư hoặc người cho vay thấy được khả
năng XK của quốc gia đó. Vì đây là nguồn bảo đảm chính cho nước đó có thể trả nợ
được.
Thực tiễn cho thấy, mỗi một nước, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển có
thể sử dụng các nguồn vốn huy động chính như: Đầu tư nước ngoài; vay nợ viện trợ;
thu từ nguồn XK.
Tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ
nhận được, song việc huy động nguồn vốn này không phải là một điều dễ dàng. Sử
dụng nguồn vốn này thì các nước đi vay phải chịu mất một số thiệt thòi nhất định và
dù bằng cách này hay cách khác thì cũng phải hoàn lại vốn cho nước ngoài. Điều này
vô cùng khó khăn bởi đang thiếu vốn lại càng thiếu vốn hơn.
1.1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu
- Đối với doanh nghiệp
+ Thông qua XK, các DN trong nước có cơ hội tham gia vào cuộc cạnh tranh
trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi DN phải
hình thành một cơ cấu phù hợp với thị trường.


+ Sản xuất hàng hoá đòi hỏi DN phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công
tác quản lý kinh doanh. Đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không
những cả về chiều rộng mà cả về chiều sâu.

+ Sản xuất hàng XK giúp DN thu hút được nhiều việc làm, tạo thu nhập ổn
định, tạo ra nhiều ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng, vừa đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân, vừa thu hút được lợi nhuận.
+ DN tiến hành hoạt động XK có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh
doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở lợi ích của hai bên.
Cùng với sự bùng nổ của nền kinh tế toàn cầu thì vươn ra thị trường quốc tế là
một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các DN. XK là một trong những con
đường quen thuộc để các DN thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị
trường của mình. XK tạo điều kiện cho các DN mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
do DN sản xuất ra. Nhờ có XK mà tên tuổi của DN không chỉ được các khách hàng
trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài.
XK tạo nguồn ngoại tệ cho các DN, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng
nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ
cho quá trình phát triển.
XK phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của DN, thúc đẩy DN tích cực
tìm tòi và phát triển các mặt hàng XK vào các thị trường có khả năng thâm nhập. XK
buộc các DN phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh.
Đồng thời giúp các DN kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm.
XK tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lẫn nhau giữa các đơn vị tham gia XK
trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các DN tham gia
XK phải nâng cao chất lượng hàng hoá XK, các DN phải chú ý hơn nữa trong việc
hạ giá thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác, tiết
kiệm các nguồn lực.
Sản xuất hàng XK giúp DN thu hút được nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn
định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm lợi nhuận cho DN.
- Đối với Nhà nước
+ Tăng thu ngân sách Nhà nước.


XK vừa góp phần trực tiếp, vừa góp phần gián tiếp tăng thu cho ngân sách của

các quốc gia.
Mỗi quốc gia có các chính sách khuyến khích hoặc hạn chế XK đối với mặt
hàng nào đó, từ đó đưa các nghĩa vụ thuế liên quan đến hàng hóa XK. Thuế XK là
một nguồn thu quan trọng, phổ biến của ngân sách quốc gia. Các nước XK tài
nguyên thường có ngân sách phụ thuộc đáng kể vào họat động XK (như các quốc gia
XK dầu mỏ ở Trung Đông, Vùng Vịnh, Nga, Việt Nam, Venezuêla…).
Mặt khác, vì XK là một trong những họat động kinh doanh, mua bán truyền
thống trong thương mại quốc tế, nên tạo ra doanh thu, lợi nhuận cho DN. DN càng
có lợi nhuận cao thì càng đóng góp cho ngân sách nhà nước càng nhiều (thuế thu
nhập DN). Tại các quốc gia phát triển trên thế giới, thuế thu từ các tập đoàn hay công
ty lớn luôn chiếm tỷ lệ cao trong ngân sách quốc gia và phần lớn các công ty này đều
lấy họat động XK làm mũi nhọn (Ví dụ: Nokia là DN quan trọng nhất của Phần Lan,
năm 2010 đóng góp 7,7% KN XK và 3,1% GDP, nộp cho Chính phủ khoảng 300
triệu EUR; tổng doanh thu của Petro Việt Nam, năm 2010 tương đương 24% GDP cả
nước, chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách nhà nước hay sự dẫn đầu và thống trị
của Samsung đã khiến nền kinh tế Hàn Quốc đang bị ảnh hưởng duy nhất bởi hiệu
suất của một công ty duy nhất…).
Với đặc điểm quan trọng chủ yếu sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán,
XK góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang phát
triển, đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ XK đóng vai
trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp
phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
+ XK góp phần mở rộng tiêu thụ hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.
Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ bảo đảm cho sự phát triển công
nghiệp với quy mô hiện đại, sản xuất hàng loạt; do đó không tạo thêm công ăn việc
làm, một vấn đề mà các nước nghèo luôn luôn phải giải quyết. Với phạm vi vượt ra
ngoài biên giới quốc gia, hoạt động XK mở ra một thị trường tiêu thu rộng lớn với
nhu cầu vô cùng đa dạng của mọi tầng lớp, mọi dân tộc trên toàn thế giới. Sản xuất
phải gắn với thị trường, có thị trường là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sản xuất



hàng XK, đến lượt nó sản xuất hàng XK lại là nơi thu hút hàng triệu lao động vào
làm việc và tăng thu nhập. XK còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân.
Về ngắn hạn, để tập trung phát triển các ngành hàng XK thì cần phải thêm lao
động, để XK có hiệu quả thì cần tận dụng lợi thế lao động nhiều, giá rẻ ở nước ta.
XK tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân.Tác động của XK ảnh hưởng rất nhiều đến các lĩnh vực của cuộc sống như
tạo ra công việc ổn định, tăng thu nhập...
Đối với công ăn việc làm, XK thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản
xuất hàng XK. Mặt khác, XK tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng
yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân.
+ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Hoạt động XK góp phần làm chuyển dịch cơ
cấu sản xuất, định hướng sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất đó là thành quả
của công cuộc khoa học và công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
qúa trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất
yếu đối với đất nước ta. Vì vậy XK có vai trò quan trọng đối với sản xuất và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Dưới tác động của XK, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ. XK làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia
từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.Có hai cách nhìn nhận về tác
động của XK đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ nhất, chỉ XK những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa.
Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa
đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản xuất thì XK chỉ bó hẹp
trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội
phát triển.

Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và XK. Quan điểm này tác
động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy XK.Nó thể hiện:


XK tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tức là sự
phát triển của ngành hàng XK này sẽ kéo theo sự phát triển của một ngành khác có
quan hệ mật thiết. Điều này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may
XK, các ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện phát triển.
XK tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản xuất,
tạo lợi thế nhờ quy mô.
XK tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng
thị trường tiêu dùng của một quốc gia, tạo ra những tiền đề kinh tế- kỹ thuật nhằm
cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Nó cho phép một quốc gia có thể
tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản
xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản xuất
được.
XK góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của
từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu hoá như ngày nay, mỗi loại
sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai,
lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ và thanh toán thực hiện ở nước thứ tư. Như vậy, hàng
hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia, cho thấy sự tác động
ngược trở lại của chuyên môn hoá tới XK.
Thông qua XK, hàng hoá sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế
giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản
xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường. XK còn đòi hỏi các
DN phải luôn đổi mới, hoàn thiện kỹ năng quản trị sản xuất và kinh doanh.
+ Sử dụng hiệu quả TNTN và phát triển bền vững.
TNTN là một dạng của cải đặc biệt. Khác với các dạng của cải khác, chúng ta
không phải sản xuất ra tài nguyên mà chỉ đơn thuần khai thác để dùng. Do không

phải qua quá trình sản xuất nên việc sản sinh ra của cải tài nguyên có thể diễn ra khá
độc lập với các tiến trình kinh tế khác trong một quốc gia. TNTN có vai trò quan
trọng để phát triển kinh tế, nó không chỉ cung cấp nguyên liệu và không gian cho sản
xuất xã hội mà còn phục vụ cho nhu cầu sống trực tiếp của con người. Sự giàu nghèo
của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều vào nguồn tài nguyên. Những nguồn tài nguyên


quý giá như: đất đai, khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, rừng và nguồn nước . Rất nhiều
nước phát triển chỉ trên cơ sở khai thác tài nguyên để XK đổi lấy ngoại tệ, thiết bị
công nghệ hiện đại. Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói
chung có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội ở mỗi
quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, mỗi địa phương. Có những nước được thiên nhiên ưu
đãi một trữ lượng dầu mỏ lớn có thể đạt được mức thu nhập cao, gần như hoàn toàn
dựa vào đó như Ả rập Xê út, Iran, Iraq, Kuwait. Tuy nhiên, các nước sản xuất dầu
mỏ là ngoại lệ chứ không phải quy luật, việc sở hữu nguồn TNTN phong phú không
quyết định một quốc gia có thu nhập cao. Nhật Bản là một nước gần như không có
TNTN nhưng nhờ tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động, tư bản,
công nghệ cao nên vẫn có nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới về quy mô. Điều đó
chứng tỏ tài nguyên không phải là nhân tố quan trọng nhất, quyết định đến sự phát
triển của môi quốc gia mà nó còn phụ thuộc vào nguồn lao động của quốc gia đó.
XK theo quan điểm phát triển bền vững không phải là tìm cách tăng trưởng
KN bằng mọi giá mà sự tăng trưởng XK đó phải luôn bảo đảm hài hòa giữa các mục
tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài.
Phát triển XK theo hướng bền vững được truyền bá rộng rãi và được nhiều
quốc gia hưởng ứng. Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại,
cạnh tranh ngày càng gay gắt, việc tăng trưởng XK đáp ứng các yêu cầu của phát
triển bền vững là điều không dễ dàng. Do đó, nếu không có định hướng đúng, không
có các biện pháp thích hợp, chỉ quan tâm đến tăng trưởng XK bằng mọi giá... thì sự
tăng trưởng XK đó có nguy cơ chệch hướng so với quan điểm tăng trưởng XK theo
hướng phát triển bền vững. Nguy cơ phát triển XK không tuân theo quan điểm bền

vững luôn tiềm ẩn trong tất cả các lĩnh vực sản xuất hàng XK và ở tất cả các quốc
gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như nước ta.
XK giúp cho việc khai thác, sử dụng TNTN hiệu quả, bền vững để đạt được
các mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội: Phát triển XK bền vững không
nên chỉ tính đến lợi ích trước mắt, mà cần xem xét tác động của XK trong dài
hạn.Tăng trưởng XK cao trong ngắn hạn trên cơ sở khai thác các lợi thế sẵn có của
quốc gia về TNTN, dù mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, nhưng chưa chắc đã
đảm bảo tính bền vững nếu chỉ tập trung XK sản phẩm thô, sơ chế.Việc XK này chỉ


mang giá trị gia tăng thấp, làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường và chỉ
đem lại lợi ích cho một bộ phận tham gia hoạt động XK và làm tổn hại đến lợi ích
của đa số và cộng đồng. Rất nhiều quốc gia sở hữu nguồn tài nguyên vô cùng giá trị
và chuyên XK tài nguyên (như dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản) nhưng lại thất bại trong
phát triển kinh tế. Ngược lại, một số quốc gia khác dù thiếu tiềm năng TNTN nhưng
lại có nhiều thành công trong phát triển kinh tế
Ngày nay, việc sử dụng có hiệu quả nguồn TNTN trong việc phát triển XK
được các quốc gia trên thế giới rất chú trọng, hạn chế đến mức thấp nhất những tiêu
cực do XK TNTN mang lại, tránh rơi vào “Lời nguyền tài nguyên -resource curse”
(càng nhiều sản phẩm đào ra từ bề mặt hay dưới lòng đất của một quốc gia, thì nước
ấy sẽ càng tăng trưởng chậm và càng có nguy cơ rơi vào một cuộc nội chiến) và
“Căn bệnh Hà Lan -Dutch diseace” (nguy cơ kinh tế xảy ra khi đẩy mạnh XK
TNTN dẫn tới làm suy giảm ngành công nghiệp chế tạo).
+ Thúc đẩy kinh tế đối ngoại: XK là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát
triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
XK và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ
thuộc lẫn nhau. Hoạt động XK là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các mối quan
hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác phát triển như du
lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… ngược lại sự phát triển của các
ngành này lại tác động trở lại hoạt động XK làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động XK

phát triển.Có thể nói XK nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ dẫn
tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng hai
cách: cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được sản xuất
ra và kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động
của XK đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau.
XK tạo ra động lực cần thiết cho việc giải quyết những vấn đề thiết yếu của
nền kinh tế. Điều này nói lên tính khách quan của tăng cường XK trong quá trình
phát triển kinh tế.Đứng trên bất kỳ góc độ nào ta cũng thấy sự thúc đẩy XK là rất
quan trọng. Vì vậy thúc đẩy XK là cần thiết và mang tính thực tiễn cao.


×