Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ VI NHÂN GIỐNG ĐỂ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CÂY TRỒNG CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ PHỤC VỤ CHO CHƯƠNG TRÌNH NÔNG LÂM NGHIỆP BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 128 trang )

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

CHƯƠNG TRÌNH KHCN CẤP NHÀ NƯỚC KC-04

BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ DỰ ÁN
“ HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ VI NHÂN GIỐNG ĐỂ
PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CÂY TRỒNG CÓ GIÁ TRỊ KINH TẾ PHỤC
VỤ CHO CHƯƠNG TRÌNH NÔNG LÂM NGHIỆP
BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM”
(Mã số: KC. 04. DA. 08 /06 – 10)

Cơ quan chủ trì : Viện KHNN Việt Nam
Chủ nhiệm dự án : GS.TSKH. Trần Duy

8407
Hà Nội - 2010


BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

CHƯƠNG TRÌNH KHCN CẤP NHÀ NƯỚC KC.04/06-10


BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐỀ TÀI/DỰ ÁN
“HOÀN THIỆN QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ VI NHÂN GIỐNG
ĐỂ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ CÂY TRỒNG CÓ GIÁ TRỊ KINH
TẾ PHỤC VỤ CHO CHƯƠNG TRÌNH NÔNG LÂM NGHIỆP

BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM”
(Mã số: KC. 04. DA. 08 /06 – 10)

Chủ nhiệm đề tài/dự án

Cơ quan chủ trì đề tài/ dự án

(Kí tên)

(Kí tên và đóng dấu)

Ban chủ nhiệm chương trình

Bộ Khoa học và Công nghệ

(Kí tên)

(Kí tên và đóng dấu khi gửi lưu trữ)

Hà Nội - 2010


MỤC LỤC
Lời cảm ơn

Báo cáo thống kê
CHƯƠNG I
1.1
1.2
1.2.1
1.2.2
1.2.3
1.3
1.3.1
1.3.2
1.4
1.5
1.5.1
1.5.2
1.5.3
1.5.4
1.5.5
CHƯƠNG II
2. 1
2. 2
2.2.1
2.2.2
2.2.3

MỞ ĐẦU
Trang
Đặt vấn đề
1
Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1

Cây bạch đàn, keo lai
1
Cây hoa lan
13
Cây cam Xã Đoài (Citrus sinentis), bưởi Diễn
15
(Citrus grandis)
Mục tiêu của Dự án
22
Mục tiêu chung của Dự án
22
Mục tiêu cụ thể của Dự án
22
Xuất xứ của Dự án
23
Tính cấp thiết, khả thi và hiệu quả kinh tế của Dự
án
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Dự án
Công nghệ lựa chọn của Dự án

24

Lợi ích kinh tế, khả năng thị trường và cạnh tranh
của sản phẩm Dự án
Tác động của kết quả Dự án đến kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng
Năng lực thực hiện Dự án
Khả năng ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng kết
quả của Dự án
NỘI DUNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ ĐÃ

THỰC HIỆN
Mô tả sơ đồ quy trình công nghệ (là xuất xứ của Dự
án) để triển khai Dự án
Phân tích những vấn đề Dự án cần giải quyết công
nghệ
Hoàn thiện quy trình nhân giống bạch đàn và keo
lai
Hoàn thiện quy trình nhân giống hoa lan
Hoàn thiện quy trình vi nhân giống cam Xã Đoài,
bưởi Diễn

25

24

26
26
27
28
28
32
32
33
36


2.2.4
2.2.5
2.3


2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
CHƯƠNG III
3.1
3.2
CHƯƠNG IV
4.1
4.1.1
4.1.2
4.1.3
4.2
4. 2. 1
4.2.2
4.2.3

Quy mô triển khai SXTN để hoàn thiện hệ thống
sản xuất bạch đàn, keo lai, cây cam Xã Đoài, bưởi
Diễn và các loại hoa lan
Quy mô trồng thử nghiệm
Liệt kê và mô tả nội dung, các bước công việc cần
phải thực hiện để giải quyết các vấn đề được dặt ra
kể cả đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công nhân kĩ thuật
áp đáp ứng cho việc sảm xuất thử nghiệm
Tuyển chọn các cây đầu dòng được sử dụng trong
dự án
Nội dung công việc để hoàn thiện hệ thống nhân
giống bạch đàn, keo lai, cây cam Xã Đoài, bưởi
Diễn và các loại hoa lan

Xây dựng các mô hình thử nghiệm
Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kĩ thuật, các lớp
tập huấn
ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN DỰ
ÁN
Địa điểm thực hiện Dự án
Thời gian thực hiện dự án
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
NỘI DUNG 1: HOÀN THIỆN QUY TRÌNH
CÔNG NGHỆ NHÂN GIỐNG BẠCH ĐÀN
KEO LAI
Quy trình nhân giống bạch đàn, keo lai bằng invitro
Hoàn thiện kĩ thuật chăm sóc cây con, nghiên cứu
cải tiến chế độ dinh dưỡng, phòng trừ sâu bệnh của
cây bạch đàn, keo lai ngoài vườn ươm
Một số loại sâu bệnh hại trên 2 giống bạch đàn và
keo lai trong giai đoạn vườn ươm và biện pháp
phòng trừ
NỘI DUNG 2: HOÀN THIỆN QUY TRÌNH
NHÂN GIỐNG HOA LAN BẢN ĐỊA VÀ LAN
CÔNG NGHIÊP
Quy trình nhân nhanh giống hoa lan bản địa và lan
công nghiệp bằng Invitro
Hoàn thiện kĩ thuật chăm sóc, cải tiến chế độ dinh
dưỡng cho cây lan giống ngoài vườn ươm
Nghiên cứu cải tiến các các giá thể khác nhau đưa
ra được các thông số về chế độ giá thể, dinh dưỡng
phù hợp cho lan giống

38

38
38

38
40
44
44
45
45
45
46
46
46
58
66
72
72
81
83


4.2.4
4.3
4.3.1
4.3.2
4.3.3
4.4
4.4.1
4.4.2
4.4.3

CHƯƠNG V
5. 1
5. 2
CHƯƠNG VI

Các loại bệnh lan và các biện pháp phòng trừ
NỘI DUNG 3: HOÀN THIỆN QUY TRÌNH VI
GHÉP CÂY CAM XÃ ĐOÀI, VÀ BƯỞI DIỄN
Nghiên cứu ảnh hưởng của mắt ghép, thời vụ ghép
trong quá trình vi ghép mắt cây cam Xã Đoài và
bưởi Diễn
Nghiên cứu kĩ thuật chăm sóc, cải tiến chế độ dinh
dưỡng và phòng trừ sâu bệnh cho cây cam Xã Đoài
và bưởi Diễn sau khi ghép ngoài vườn ươm
Các loại bệnh trên cây cam Xã Đoài, bưởi Diễn và
cách phòng trừ sâu bệnh
NỘI DUNG 4. XÂY DỰNG CÁC MÔ HÌNH
Mô hình bạch đàn, keo lai
Mô hình hoa lan
Mô hình cam xã Đoài, bưởi Diễn
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

87
89
89
90
93

95
95
103
107
112
112
112
114


MỤC LỤC BẢNG
Bảng 1: Ảnh hưởng của tuổi chồi lấy mẫu đến khả năng tái chồi của
mẫu cấy tại Thanh Trì, Hà Nội, năm 2008
Bảng 2: Ảnh hưởng của của tổ hợp BAP và α-NAA đến khả năng nhân
nhanh chồi (sau 20 ngày nuôi cấy) tại Hà Nội, năm 2008
Bảng 3: Ảnh hưởng của tổ hợp BAP và IBA đến khả năng nhân nhanh chồi
của các dòng bạch đàn, keo lai (sau 20 ngày) tại Hà Nội, năm 2008
Bảng 4: Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng và phát triển của chồi
bạch đàn U6, PN2, PN14, bạch đàn trắng và keo lai BV10, BV33 invitro tại
Hà Nội, năm 2008
Bảng 5: Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng đến sinh trưởng và phát
triển của chồi Bạch đàn U6, PN2, PN14, bạch đàn trắng và keo lai BV10,
BV33 invitro
Bảng 6: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian chiếu sáng đến sinh
trưởng và phát triển của chồi bạch đàn U6, PN2, PN14, bạch đàn trắng và
keo lai BV10, BV33 invitro tại Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội năm
2008
Bảng 7: Ảnh hưởng của α-NAA tới khả năng ra rễ (sau 20 ngày nuôi cấy) tại
Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội năm 2008
Bảng 8: Ảnh hưởng của IBA tới khả năng ra rễ (sau 20 ngày nuôi cấy) tại

Vĩnh Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội năm 2008
Bảng 9: Ảnh hưởng các loại giá thể đến tỷ lệ sống và tốc độ sinh
trưởng của bạch đàn và keo lai từ nuôi cây mô (sau 4 tháng ra ngôi) tại
Quốc Oai, Hà Nội năm 2009
Bảng 10: Ảnh hưởng của loại giá thể đến tỷ lệ sống và tốc độ sinh
trưởng của bạch đàn và keo lai giâm hom tại Phù Ninh, Phú Thọ năm
2009
Bảng 11: Ảnh hưởng của điều kiện che sáng đến tỷ lệ sống và sinh
trưởng của cây bạch đàn và keo lai khi ra ngôi và giâm hom (sau 4 tuần
theo dõi) tại Phù Ninh, Phú Thọ năm 2009
Bảng 12: Ảnh hưởng của độ ẩm đất bầu và không khí đến tỷ lệ sống và
sinh trưởng của các giống bạch đàn U6, PN14, keo lai BV10 và BV16
ở giai đoạn ra ngôi và giâm hom (sau 4 tuần theo dõi) tại Phù Ninh Phú
Thọ, năm 2009.
Bảng 13: Ảnh hưởng của số lần bón phân N: P: K tỷ lệ: 5: 10: 15 trên
cây bạch đàn, keo lai tại Quốc Oai, Hà Nội năm 2009
Bảng 14: Kết quả điều tra tình hình sâu bệnh hại trên 2 giống bạch đàn
U6, PN14, tại vườn ươm ở Phú Lãm Quốc Oai – Hà Nội, năm 2009
Bảng 15: Danh mục các loại vi sinh vật gây bệnh hại ở keo lai tại Việt Nam

Bảng 16: Thành phần sâu bệnh hại phát hiện được ở trên 2 giống keo
lai được thí nghiệm tại vườn ươm Phú Lãm, Quốc Oai, Hà Nội năm
2009

46
47
49
51
52
53


55
57
60
61
63
64

65
67
68
69


Bảng 17: Các loại thuốc bảo vệ thực vật dùng phòng trừ sâu bệnh cho
bạch đàn và keo lai giai đoạn vườn ươm
Bảng 18: Ảnh hưởng của môi trường MS, MS cải tiến, VW và VW cải
tiến đến khả năng tái sinh chồi và hệ số nhân chồi 2 giống lan Hồ Điệp
trắng môi đỏ, Hồ Điệp trắng môi vàng sau 8 tuần nuôi cấy tại Vĩnh
Quỳnh, Hà Nội năm 2008
Bảng 19: Ảnh hưởng của dịch chiết chuối xanh, dịch chiết khoai tây,
nước dừa đến khả năng phát sinh chồi mới và hệ số nhân chồi của 2
giống lan Hồ Điệp (sau 8 tuần nuôi cấy) tại Thanh Trì, Hà Nội năm
2008
Bảng 20: Ảnh hưởng của các loại môi trường đến khả năng phát sinh
chồi mới và hệ số nhân chồi 2 giống lan Kiếm Hồng Hoàng SaPa và
Xanh thơm Đà Lạt tại Thanh Trì, Hà Nội năm 2008
Bảng 21: Ảnh hưởng của dịch chiết khoai tây, dịch chiết chuối xanhvà
nước Dừa đến quá trình phát sinh chồi mới và hệ số nhân chồi 2 giống
địa lan Kiếm tại Thanh Trì, Hà Nội, năm 2008

Bảng 22: Ảnh hưởng của thời gian và cường độ chiếu sáng đến khả
năng phát sinh chồi, hệ số nhân chồi của các giống lan Hồ Điệp và lan
Xanh thơm Đà Lạt tại Thanh Trì, Hà Nội năm 2009
Bảng 23: Ảnh hưởng của cường độ chiếu sáng đến tỷ lệ tái sinh cây
hoàn chỉnh, sinh trưởng và phát triển trên Hồ Điệp hoa trắng môi vàng
và Xanh Thơm Đà Lạt tại Thanh Trì, Hà Nội năm 2009
Bảng 24: Ảnh hưởng của nhiệt độ phòng nuôi cây đến khả năng tái sinh
protocorm, hệ số nhân và tái sinh cây hoàn chỉnh ở 2 giống hoa lan (8
tuần nuôi) tại Thanh Trì, Hà Nội năm 2009
Bảng 25: Ảnh hưởng của các loại giá thể khác nhau đến tỷ lệ sống và
sinh trưởng của lan Hồ Điệp khi ra ngôi tại Tam Đảo, Vĩnh Phúc năm
2009
Bảng 26: Ảnh hưởng của mắt ghép đến tỷ lệ sống sau ghép
Bảng 27: Ảnh hưởng của thời vụ ghép đến tỷ lệ sống của cây sau ghép
Bảng 28: Ảnh hưởng của các công thức bón phân khác nhau đến sinh
trưởng của cây cam Xã Đoài tại Đông Anh, Hà Nội năm 2009
Bảng 29: Ảnh hưởng của các công thức bón phân khác nhau đến sinh
trưởng của cây Bưởi Diễn tại Đông Anh, Hà Nôi năm 2009
Bảng 30: Ảnh hưởng của các công thức phân bón đến tỷ lệ cây ghép
sống và tỷ lệ cây xuất vườn của cây bưởi Diễn tại Đông Anh, Hà Nội
năm 2009
Bảng 31: Ảnh hưởng của độ tăng chiều dài và số lá đến các chỉ tiêu
sinh trưởng, tốc độ sinh trưởng của bạch đàn và keo lai tại lai tại xã Phú
Mãn Huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, 2009

70
72

74


75
76
78
79
80
85
89
89
91
91
92
98


MỤC LỤC HÌNH
Hình 1: Vườn cây đầu dòng bạch đàn và keo lai tại Phù Ninh, Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ
Hình 2: Các giống cây cam Xã Đoài, bưởi Diễn đầu dòng đang lưu giữ
tại Hà Nội
Hình 3: Các giống lan Hồ Điệp và địa lan đầu dòng
Hình 4: Nuôi cấy mô Bạch đàn ở các tuổi chồi khác nhau: 3 tháng, 6
tháng và 12 tháng tuổi
Hình 5: Kỹ thuật ra bầu vườn ươm
Hình 6: Chế độ che sáng ở cây bạch đàn và keo lai
Hình 7: Các bệnh thường gặp ở cây keo lai và bạch đàn
Hình 8: Lan Kiếm và lan Hồ Điệp được nuôi cấy mô tế bào trước khi ra
ngôi ngoài vườn ươm
Hình 9: Kĩ thuật ra cây lan vườn ươm

38


Hình 10: Cây địa Lan Kiếm và lan Hồ Điệp 2 tháng sau khi ra cây ở
vườn ươm được che sáng bằng 2 lớp lưới đen tại mô hình Tam Đảo,
Vĩnh Phúc
Hình 11: Lan kiếm được trồng trên các giá thể khác nhau tại Viện Di
truyền Nông nghiệp năm 2009-2010
Hình 12: Lan kiếm đóng bầu trên các giá thể khác nhau: dớn dương xỉ và
mụn xơ dừa tỷ lệ 1:1:1 tại vườn Tam Đảo, Vĩnh Phúc 2009-2010
Hình 13: Lan Hồ Điệp trồng trên rổ nhựa chứa giá thể xơ dừa, và rong
biển tỷ lệ 1:1 hay giá thể rong biển trộn với dớn dương xỉ theo tỷ lệ 1:1
tại Tam Đảo, Vĩnh phúc 2008-2009
Hình 14: Một số loại sâu bệnh thường gặp ở cây hoa lan
Hình 15: Kĩ thuật vi ghép mắt cây cam Xã Đoài, bưởi Diễn trong phòng
thí nghiệm
Hình 16: Một số loại sâu bệnh hại cam Xã Đoài và bưởi Diễn
Hình 17: Mô hình sản xuất bạch đàn và keo lai tại xã Phú Mãn Huyện
Quốc Oai, tỉnh Hà Tây và Xã Phù Ninh, Huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ
Hình 18: Mô hình trồng Hoa lan tại Thị trấn Tam Đảo, Vĩnh Phúc
Hình 19: Mô hình cây cam Xã Đoài, bưởi Diễn tại là Hợp tác xã Tằng
My, xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội

83

39
39
47
59
62
72
81

82

84
84
86
88
90
94
102
106
111


CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Công nghệ sinh học là một lĩnh vực đang được nhiều người quan tâm,
vì đây là một công cụ quan trọng trong chương trình cải thiện giống cây
trồng. Ngày nay nhờ áp dụng công nghệ sinh học mà việc chọn tạo giống cây
trồng được tiến hành nhanh hơn và có thể khắc phục được một số khó khăn
mà các phương pháp chọn giống truyền thống không giải quyết được hoặc
phải mất thời gian rất dài mới đạt được kết quả.
Công nghệ nuôi cấy mô và tế bào đặc biệt là nuôi cấy mô phân sinh
đỉnh sinh trưởng được áp dụng ngày càng nhiều trong sản xuất nông, lâm
nghiệp, đã trở thành một phương tiện để nâng cao sản lượng cũng như hiệu
quả chương trình cải thiện giống cây trồng. Những nền tảng khoa học và công
nghệ của lĩnh vực này là hết sức cần thiết để phát triển công nghệ sinh học mà
đỉnh cao là công nghệ di truyền, đây sẽ là một trong những ngành công nghệ
quan trọng của thế kỷ 21. Việc ứng dụng công nghệ sinh học vào nông nghiệp
để phát triển các giống cây trồng sạch bệnh có giá trị kinh tế cao đang là vấn
đề cấp bách để sản xuất một số lượng hàng hoá lớn phục vụ phát triển nền

nông, lâm nghiệp bền vững trước hết phải kể đến các loại cây như: bạch đàn
lai, keo lai phục vụ cho các nhà máy giấy; các loại cây ăn quả: cam Xã Đoài,
chất lượng cao; bưởi Diễn đặc sản để phục vụ nhu cầu trong nước và tiến tới
xuất khẩu trong những năm tới. Và đặc biệt là các giống hoa cao cấp như lan,
địa lan, hoa lily…có giá trị kinh tế rất cao để phục vụ nội tiêu và xuất khẩu
trong tương lai, hạn chế việc nhập hoa từ một số nước như Trung Quốc, Thái
Lan, Đài Loan đang là vấn đề cấp thiết trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Vì vậy trên cơ sở kế thừa phát triển tiếp những kết quả nghiên cứu về
công nghệ tế bào và chương trình giống nông, lâm nghiệp giai đoạn 20012005, đồng thời nhằm góp phần giải quyết những vấn đề cấp thiết nêu trên,
chúng tôi tiến hành thực hiện dự án sản xuất thử nghiệm “Hoàn thiện quy
trình vi nhân giống để phát triển một số cây trồng có giá trị kinh tế phục
vụ cho chương trình nông, lâm nghiệp bền vững”.
1. 2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
1. 2.1. Cây bạch đàn và keo lai
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Từ năm 1987, Gupta và Mascarenha đã cho biết có trên 20 loài bạch
đàn đã được nhân giống thành công bằng nuôi cấy mô và tạo được cây mô
(Gupta và cs., 1987). Các nhà khoa học Ấn Độ đã tạo thành công cây mô từ
các cây trội bạch đàn E. camaldulensis, E. globolus, E. tereticornis, E.
torelliana và cả từ cây trội có hàm lượng tinh dầu cao của Bạch đàn chanh E.
citriodora (Nguyễn Hoàng Nghĩa , 2000).
Cây mô còn ra hoa và tạo hạt ngay ở hai tuổi rưỡi. Cây mô có nguồn
gốc từ cây ưu việt sinh trưởng nhanh gấp 3 lần và đồng đều hơn là cây mọc từ
hạt của cùng cây mẹ. Tại Australia, nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy
mô đã được áp dụng để nhân nhanh các cây được chọn có tính chịu mặn trong
đất và đang được đưa vào sản xuất lớn cho loài E.camladulensis. Vào năm
1



1987, có khoảng 20,000 cây mô của các dòng vô tính chịu mặn đã được tạo ra
để trồng lại rừng ở các mỏ Bauxite gần Perth, Tây Australia (Gupta, và cs.,
1983).
Trung Quốc cũng là nước ứng dụng sớm và thành công cây nuôi cấy
mô vào trồng rừng diện rộng. Cây được nhân thành công chính là E.urophylla
và một số dòng bạch đàn lai giữa E. grandis với E.urophylla. Đến năm 1991 ở
vùng Nam Trung Quốc, người ta đã sản xuất được trên 1 triệu cây mô của các
cây và các dòng lai đã được chọn lọc (Ikemori, 1987).
Kỹ thuật nuôi cấy mô còn được sử dụng để vận chuyển các cây Bạch
đàn và keo lai nuôi trong ống nghiệm trên một quãng đường dài mà không
gây lên bất kỳ khó khăn nào. Hơn nữa, với kỹ thuật này người ta còn có thể
tuyển chọn được các cây có khả năng kháng bệnh, chịu mặn, chịu lạnh và các
điều kiện khắc nghiệt khác của môi trường. Ngoài ra, nuôi cấy mô tế bào còn
tạo ra một nguồn biến dị mới, biến dị dòng soma, vì vậy làm tăng khả năng
chọn tạo thành công giống mới cho tương lai.
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước của cây bạch đàn, keo lai
a. Nguồn gốc và xuất xứ của cây bạch đàn và keo lai
* Cây bạch đàn
Cây bạch đàn thuộc chi Eucalyptus không phải là loại cây mọc tự nhiên
trong các lâm phận Việt Nam. Loài này xuất xứ từ nước Úc được dẫn giống
bằng hạt đem về trồng ở đất nước ta vào khoảng thập niên 1950 và cho thấy
một số loài rất thích hợp với thổ nghi và khí hậu của Việt Nam, nhất là có thể
trồng tập trung thành rừng trồng phân tán trong đất thổ cư của nhân dân từ
vùng đồng bằng cho đến các vùng bình nguyên và cao nguyên Tiên Khởi ở
Miền Nam, cây bạch đàn mới du nhập được gọi là cây khuynh diệp vì có lá
cong cong hình lưỡi liềm.
Sau ngày 30-4-1975, cây khuynh diệp hay còn gọi là cây bạc hà được
Bộ Lâm Nghiệp đặt tên là cây bạch đàn, có tên khoa học là Eucalyptus spp.
thuộc họ Sim (Myrtaceae). Không phải chỉ có một cây bạch đàn mà tại tại
nước Úc nơi xuất xứ , chi Eucalyptus (tức chi bạch đàn) có ít nhất hơn 70 loài

(species) mọc từ các vùng đồng bằng có độ cao ngang mực nước biển cho đến
các vùng bình nguyên cao nguyên, từ các thung lũng đến đèo núi cao. Ở Việt
Nam chỉ du nhập khoảng 10 loại bạch đàn như:
+ Bạch đàn đỏ : Eucalyptus camaldulensis thích hợp vùng đồng bằng;
+ Bạch đàn trắng: Eu.alba, thích hợp vùng gần biển;
+ Bạch đàn lá nhỏ: Eu. tereticornis, thích hợp vùng đồi Thừa Thiên Huế.
+ Bạch đàn liễu: Eu. exserta , thích hợp vùng cao miền Bắc Việt Nam
+ Bạch đàn chanh: Eu. citriodora, thích hợp vùng thấp, lá có chứa tinh
dầu mùi sả;
+ Bạch đàn lá bầu: Eu. globules, thích hợp vùng cao nguyên;
+ Bạch đàn to: Eu. grandis, thích hợp vùng đất phù sa;
+ Bạch đàn ướt: Eu. saligna, thích hợp vùng cao nguyên Ðà Lạt;

2


+Bạch đàn Mai đen: Eu. maidenii, thích hợp vùng cao như Lâm Đồng
v.v.
Bạch đàn urô (Eucalyptus urophylla) có nguyên sản ở Indonesia, phân
bố từ 7o30 đến 10o vĩ nam và 122 - 127o kinh đông trên các dốc núi và trong
các thung lũng trên các loại đất bazan, diệp thạch (schits) và phiến thạch, đôi
khi mọc ở núi đá vôi. Bạch đàn urô phân bố ở độ cao 300 - 2960 m trên mặt
biển (chủ yếu là ở độ cao 1000 - 2000 m), lượng mưa trung bình hàng năm
600 - 2200 mm với 2 - 8 tháng khô. Các đảo chính có bạch đàn Urô phân bố
tự nhiên là Flores (Egon và Lewotobi), Adona, Pantar, Alor, Wetar và Timor.
Nơi nguyên sản bạch đàn Urô có thể cao 25 - 45 m, cá biệt có thể cao 55 m,
đường kính có thể đạt 1 - 2 m (Turnbull và Brooker, 1978; ldridge và c.s,
1993; Davidson, 1998). Ở những nơi thấp bạch đàn Urô có thể mọc lẫn với
bạch đàn E. alba (Martin and Cossalter, 1975 - 1976). Bạch đàn Urô là loài
cây thích hợp với các lập địa có đất sâu ẩm ở các tỉnh miền Bắc, Bắc Trung

Bộ và Tây Nguyên. Các xuất xứ có triển vọng nhất cho vùng Trung tâm miền
Bắc là Lewotobi và Egon Flores (Nguyễn Dương Tài, 1994; Lê Đình Khả,
1996). Egon Flores cũng là một trong những xuất xứ có triển vọng nhất ở
Mang Linh và Lang Hanh của vùng Đà Lạt (Lê Đình Khả, 1996; Phạm Văn
Tuấn và cs., 2000). Còn ở vùng Đông Hà xuất xứ có sinh trưởng nhanh nhất
trong cả khảo nghiệm là Lembata trong điều kiện canh tác chưa cao sau 8,5
năm xuất xứ này có chiều cao 13,2 m với đường kính ngang ngực 11,4 cm,
thể tích thân cây 154,4 dm3.
Khảo nghiệm loài/xuất xứ bạch đàn tương đối đồng bộ ở một số vùng
sinh thái trong cả nước đã được thực hiện từ năm 1980 đến những năm gần
đây. Đáng chú ý là tổng kết về khảo nghiệm xuất xứ bạch đàn Caman (E.
camaldulensis) và Bạch đàn têrê (E. tereticornis) (Hoàng Chương, 1996),
khảo nghiệm xuất xứ bạch đàn Urô tại một số tỉnh vùng trung tâm miền Bắc
(Nguyễn Dương Tài (1994), đánh giá tổng hợp các loài bạch đàn (Hoàng
Chương, 1991; Lê Đình Khả, 1996; Phạm Văn Tuấn và cs, 2000). Khảo
nghiêm xuất xứ bạch đàn được xây dựng vào năm 1991 tại Đông Hà tham gia
khảo nghiệm là các xuất xứ thuộc loài E. urophylla, E. cloeziana và E. pellita,
E.tereticornis, E. camaldulensis và E. grandis. Đánh giá khảo nghiệm năm
1996 cho thấy sau 5 năm trồng các loài bạch đàn có triển vọng nhất trong
khảo nghiệm tại đây là E. urophylla, E.cloeziana và E. pellita, còn E. grandis
tuy có sinh trưởng nhanh ở vùng cao Đà Lạt, song lại sinh trưởng tương đối
chậm ở vùng thấp Đông Hà (Lê đình Khả, 1996).
* Cây keo lai
Keo lai là tên gọi của giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng (Acacia
mangium) và keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Đây là giống có nhiều đặc
điểm hình thái trung gian giữa bố và mẹ, đồng thời có ưu thế lai rõ rệt về sinh
trưởng nhanh, có hiệu suất bột giấy, độ bền cơ học và độ trắng của giấy cao
hơn hẳn các loài bố mẹ, có khả năng cố định đạm khí quyển trong đất nhờ các
nốt sần ở hệ rễ.
Ở Việt Nam có hơn 15 loài keo Acacia bản địa phân bố tại nhiều vùng

trong cả nước (Nguyễn Tiến Bân và cs., 2003), song hầu hết đều ở dạng cây
3


bụi hoặc dây leo, ít giá trị kinh tế, trong lúc ở Australia (Úc) có đến hơn 660
loài keo Acacia (BoLand và cs.,), với nhiều loài cây gỗ lớn. Một số nước như
Papua New Guinea (PNG) cũng có các loài Acacia kích thước lớn, sinh
trưởng nhanh, dễ thích ứng với điều kiện đất trống đồi núi trọc ở nước ta. Vì
thế việc nhập nội một số loài Keo nhiệt đới từ các nước này để trồng khảo
nghiệm nhằm chọn được loài và xuất xứ thích hợp với một số vùng sinh thái
chính của nước ta là hết sức cần thiết. Từ đầu những 1960, keo lá tràm
(Acacia auriculiformis) đã được nhập vào trồng thử ở vùng Đông Nam Bộ,
một số loài Keo khác cũng được trồng thử tại Đà Lạt, trong đó có loài
A.podariifolia mà về sau đã trở thành cây tượng trưng cho vùng Đà Lạt với
tên gọi quen thuộc là cây "Mimosa". Từ năm 1980, đặc biệt là từ đầu những
năm 1990, một số loài Keo khác được tiếp tục nhập vào trồng thử và được
đưa vào khảo nghiệm ở nước ta. Các loài keo nhập vào Việt Nam được chia
thành ba nhóm là các loài keo vùng thấp, các loài keo chịu hạn và các loài keo
vùng cao. Đến nay, sau khoảng 10 năm khảo nghiệm đã thấy được một số loài
và xuất xứ có triển vọng gây trồng ở một số vùng sinh thái của nước ta.
Các loài keo vùng thấp là những loài có diện tích trồng rừng lớn nhất ở
nước ta. Có thể nói gần 40% diện tích trồng rừng ở vùng đồi thấp hiện nay là
keo lá tràm và keo tai tượng, vì thế nghiên cứu chọn giống cho các loài keo
vùng thấp từ khâu khảo nghiệm xuất xứ đến chọn lọc cây trội, lai giống và
khảo nghiệm giống là có ý nghĩa rất thiết thực trong sản xuất lâm nghiệp. Đầu
những năm 1980 bốn loài keo vùng thấp là keo lá tràm (A.ausiculiformit), keo
tai tượng (A.mangium), keo lá liềm (A.crassicarpa), và keo nâu (A.
alaucocarpa) đã được nhập trồng thử tại Ba Vì (Hà Tây), Hóa Thượng (Thái
Nguyên) và Trảng Bom (Đồng Nai). Đánh giá sơ bộ năm 1991 đã thấy trong
4 loài Keo được trồng thử năm 1982 tại Ba Vì và năm 1984 tại Hóa Thượng

thì ba loài Keo có sinh trưởng nhanh là keo tai tượng, keo lá liềm và keo lá
tràm trong đó keo lá tràm là loài có sinh trưởng nhanh trong năm đầu (Lê
Đình Khả, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1991).
- Chọn loài và xuất xứ thông qua các khảo nghiệm
+ Khảo nghiệm đồng bộ các xuất xứ của 5 loài keo
Trong các năm 1990 - 1991 thông qua các dự án UNDP một bộ giống
39 xuất xứ của 5 loài keo vùng thấp đã được khảo nghiệm nhằm tại Đá Chông
(huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây), Đông Hà (Quảng Trị) và Đại Lải (Vĩnh Phúc).
Đến nay một số khảo nghiệm vẫn còn được duy trì, một số khảo nghiệm
không còn nữa. Đá Chông thuộc huyện Ba Vì (Hà Tây) ở vĩ độ 21o07' Bắc,
kinh độ 105o26' Đông, lượng mưa 1680 mm/năm, tháng có lượng mưa hơn
100 mm là các tháng 5- tháng 10, số giờ nắng là 1620 giờ/năm. Đại Lải (Vĩnh
Phúc) ở vĩ độ 21o10' Bắc, kinh độ 105o17' Đông, lượng mưa 1500 mm/năm,
tháng có lượng mưa hơn 100 mm là các tháng 5- tháng 9, số giờ nắng là 1700
giờ/năm. Đông Hà (Quảng Trị) ở vĩ độ 16o50' Bắc, kinh độ 107o05' Đông,
lượng mưa 2370 mm/năm, tháng có lượng mưa hơn 100 mm là các tháng 8tháng 12, số giờ nắng. Tham gia các khảo nghiệm năm 1990 tai Đá Chông
(Hà Tây) và tại Đông Hà là các lô hạt của CSIRO (Australia) gồm 13 xuất xứ
keo lá tràm (A. auriculiformis), 9 xuất xứ keo tai tượng, 9 xuất xứ keo lá liềm
4


(A. crassicarpa), 5 xuất xứ keo nâu (A. aulacocarpa) và 3 xuất xứ keo quả
xoắn (A.cincinnata). Hạt của các xuất xứ này được lấy từ các bang
QueensLand (Qld) và Northern Territoria (NT) của Australia; cũng như Papua
New Guinea (PNG) và Indonesia (Indo). Giống được trồng đối chứng ở một
số nơi là nòi địa phương lấy từ Đồng Nai (ĐN) của keo tai tượng và keo lá
Tràm.
+ Keo lá tràm (A.auriculiformis) có nguồn gốc từ Australia, Papua New
Guinea (PNG) và Indonesia (Indo), phân bố chủ yếu ở vĩ độ 8 - 16o Nam, ở
độ cao 100 - 400 m trên mặt biển, lượng mưa 1400 - 3400 mm/năm, song có

thể chịu được lượng mưa 500 - 1000 mm/năm Doran và cs., 1997). Keo lá
tràm thường có kích thước trung bình, thân ngắn nhiều cành nhánh, song trên
các lập địa tốt loài này có thể cao 30 m với đường kính 80 cm và thân thẳng
đơn trục (Pinyopusarerk, 1990), gỗ có tỷ trọng 0,5 - 0,6, thậm chí 0,7 nhiệt trị
4800- 4900 Cal/kg (Viện Hàn lâm khoa học Mỹ, 1984), có thể dùng làm gỗ
củi, làm giấy, làm gỗ xây dựng và gỗ đồ mộc. Keo lá tràm ở nước ta được
trồng lần đầu ở Đồng Nai vào năm 1960, đến nay đã trở thành giống địa
phương được dùng trồng rừng ở nhiều nơi.
+ Keo tai tượng (A.mangium) có nguồn gốc từ Australia, Papua New
Guinea và Indonesia, chúng phân bố chủ yếu ở vĩ độ 8 - 18o Nam, độ cao 300
m trên mặt biển, lượng mưa 1500 – 3000 mm/năm (Doran, Turnbull, và cs.,
1997). Tuy mới được đưa vào nước ta đầu những năm 1980, song Keo tai
tượng đang được trồng rất phổ biến ở nhiền nơi. Keo tai tượng có thân cây
thẳng đẹp, sinh trưởng nhanh hơn keo lá tràm. Gỗ keo tai tượng có tỷ trọng
0,45 - 0,50 ở giai đoạn sau 12 tuổi có thể đạt 0,59 (Razali & Mohd, 1992),
thích hợp cho sản xuất gỗ lớn, gỗ dán, ván dăm, làm giấy. Keo tai tượng đang
được trồng ở nhiều nơi để làm nguyên liệu cho công nghiệp.
+ Keo lá liềm (A.crasscicarpa) có nguồn gốc từ Australia, Papua New
Guinea và Indonesia, có phân bố ở vĩ độ 8 - 20o Nam, độ cao 5 - 200 m trên
mặt biển, lượng mưa 1000 -3500 mm/năm, gỗ có tỷ trọng 0,6 - 0,7 thích hợp
cho xây dựng, làm đồ mộc (Doran, Turnbull và cs., 1997). Keo lá liềm là loài
cây mới được đưa vào trồng ở nước ta vào đầu những năm 1980, là loài có
sinh trưởng nhanh nhất trong các loài keo ở vùng thấp, có thể gây trồng trên
đất cát nội đồng có lên líp ở tỉnh Thừa Thiên Huế, đồng thời có thể sinh
trưởng trên các lập địa đất đồi ở nhiều vùng trong cả nước.
+ Keo nâu (A.aulacocarpa) có nguồn gốc từ Australia, Papua New
Guinea và Indonesia (Thomson, 1994). Những xuất xứ được nhập vào Việt
Nam chủ yếu ở các nhóm thuộc vĩ độ 6 - 20o Nam, có lượng mưa 1000 - 3000
mm/năm (Thomson, 1994), trong đó nhóm xuất xứ Papua New Guinea có
kích thước lớn, có thể cao 40m, nhóm ở Australia có thể có dạng cây bụi hoặc

cây gỗ nhỏ (Thomson, 1994). Gỗ keo nâu có tỷ trọng 0,6 - 0,7 (Keating và
Bolza, 1982), có thể dùng để sản xuất giấy (Clark và cs., 1991), đóng thuyền
và làm đồ mộc (Keating và Bolza, 1982).
+ Keo quả xoắn (A.cincinnata) có nguồn gốc từ Australia, phân bố ở vĩ
độ 16 - 28o Nam, độ cao 150 - 800 m trên mặt biển, lượng mưa 2000 - 3500
mm/năm, có thể sống được ở nơi có lượng mưa 1200 - 1500 mm/năm, cây có
5


thể cao 25 m, song ở những nơi khô hạn chỉ cao khoảng 10m (Doran và
Turnbull, 1997), gỗ có tỷ trọng 0,5 - 0,6, rất thích hợp cho sản xuất bột giấy
(Clark, và cs., 1991). Khảo nghiệm ở núi Đá Chông được trồng năm 1990 trên
đất pheralit đỏ vàng phát triển trên sa thạch, đất tương đối sâu (trên 50 cm),
theo khối 49 cây, lặp lại 3 lần ngẫu nhiên không đầy đủ.
- Số liệu thu thập năm 1999 cho thấy tại Đá Chông ở Ba Vì ở giai đoạn
9 tuổi thể tích than cây trung bình của 5 loài keo được khảo nghiệm là:
+ Keo lá liềm có thể tích thân cây 221 dm3/cây,
+ Keo tai tượng có thể tích thân cây 191 dm3/cây,
+ Keo lá tràm có thể tích thân cây 192 dm3/cây,
+ Keo nâu có thể tích thân cây 103 dm3/cây,
+ Keo quả xoắn có thể tích thân cây 94 dm3/cây.
Như vậy 3 loài cây có sinh tưởng nhanh và có triển vọng gây trồng ở
các tỉnh phía Bắc là keo lá liềm, keo tai tượng và keo lá tràm.
Khảo nghiệm so sánh một số xuất xứ keo tai tượng, keo lá tràm, keo lá
liềm, keo nâu (A.aulacocarpa) và keo quả xoắn (A. cincinnata) cũng được
Trung tâm nghiên cứu cây nguyên liệu giấy Phù Ninh xây dựng tại Mang
Giang (Gia Lai) trên đất Bazan và đất đồi phân hóa từ đá granit năm 1992
(Mai Đình Hồng, Huỳnh Đức Nhân, Cameron, 1996). Số liệu đo đếm ở giai
đoạn 4 năm tuổi (1996) cho thấy, keo lá liềm, keo tai tượng và keo lá tràm là
những loài có sinh trưởng nhanh nhất. Đánh giá sinh trưởng trên cả hai lập địa

đã thấy các xuất xứ Bloomfield (Qld) và Pongaki (PNG) có sinh trưởng nhanh
nhất trong 4 xuất xứ của keo tai tượng. Các xuất xứ Coen River (Qld) và
King's Plain (Qld) có sinh trưởng nhanh nhất trong 4 xuất xứ của keo lá tràm.
Keo quả xoắn là loài có sinh trưởng kém nhất. Keo lá liềm (xuất xứ ChiliBeach - Qld) chỉ được khảo nghiệm trên đất phân hoá từ đá granit và là loài
có sinh trưởng nhanh nhất ở đây. Những xuất xứ có triển vọng này về cơ bản
vẫn giống với những xuất xứ đã được đánh giá và đề xuất trước đây (Lê Đình
Khả, 1996, Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997, Nguyễn Hoàng Nghĩa, Lê Đình Khả,
1997, Nguyễn Hoàng Nghĩa, Lê Đình Khả, 2000).
b. Tình hình nghiên cứu nhân giống mô và hom đối với cây bạch đàn và
keo lai
* Cây bạch đàn
Từ năm 1993 cùng với việc nhập công nghệ nuôi cấy mô của Trung
Quốc thì Xí nghiệp giống thành phố Hồ Chí Minh (Công ty giống lâm nghiệp)
đã nhập một số dòng vô tính bạch đàn như U6, GU8, W4, W5, W6; Trung
tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh cũng nhập công nghệ nuôi cấy mô và
dòng U6. Từ năm 1995 đến năm 2003, Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù
Ninh đã tiếp tục chọn lọc và đưa vào khảo nghiệm một số dòng bạch đàn Urô
tại vùng Trung tâm miền Bắc có so sánh với một số dòng bạch đàn được nhập
từ Trung Quốc. Sau khi có kết quả khảo nghiệm Bộ NN&PTNT đã có quyết
định công nhận một số dòng vô tính là giống tiến bộ kỹ thuật và cho trồng
trên diện rộng ở những nơi có điều kiện tương tự. Dưới đây là một số kết quả
nghiên cứu khảo nghiệm dòng vô tính cho các dòng đã được nhập hoặc chọn
lọc nói trên.
6


- Chọn dòng vô tính bạch đàn urô (E. urophylla)
Chọn lọc cây trội bạch đàn urô phối hợp với nhân giống sinh dưỡng và
khảo nghiệm dòng vô tính đã được Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh
thực hiện từ năm 1995 đến nay nhằm tạo các dòng vô tính có năng suất cao

cho sản xuất nguyên liệu giấy. Từ các cây trội được chọn Trung tâm cây
nguyên liệu giấy Phù Ninh đã có hai đợt khảo nghiệm dòng vô tính trong các
năm 1995-1998 và 1998-2003.
Khảo nghiệm lần đầu được tiến hành trong các năm 1995-1998 cho 16
dòng bạch đàn urô được chọn lọc tại chỗ và nhân giống bằng hom như PN2,
PN3, PN4, PN14, PN18, PN19, PN231, v.v., cũng như các dòng được nhập từ
Trung Quốc như U16, GU, cây mô U16 và cây hạt lấy giống từ rừng sản xuất
đại trà tại địa phương. Kết quả khảo nghiệm dòng vô tính tại Sóc Đăng và Gia
Thanh cho thấy sau hơn 3 năm (39 tháng) hai dòng bạch đàn urô có năng suất
và chất lượng cây cao nhất là PN2 và PN14 có thể tích thân cây 19,6-22,5
dm3/cây (tại Sóc Đăng) và 22,0-26,6 dm3/cây (tại Gia Thanh), trong khi các
dòng được nhập từ Trung Quốc như U16 và GU chỉ đạt năng suất 14,5-16,0
dm3/cây tại Sóc Đăng và 13,8-14,4 dm3/cây tai Gia Thanh, còn thể tích thân
cây của giống sản xuất mọc từ hạt của bạch đàn urô là 11,5-15,5 dm3/cây
(Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh, 1998). Hai dòng bạch đàn PN2 và
PN14 đã được Bộ NN&PTNT công nhận là Giống tiến bộ kỹ thuật tại quyết
định số 3645 KHCC-NNNT ngày 28 tháng 12 năm 1998.
Khảo nghiệm lần thứ hai được tiến hành trong các năm 1998-2003
được tiến hành cho 36 dòng gồm các dòng bạch đàn urô được chọn tại vùng
Trung tâm miền Bắc gồm các giống GU1, GU8, U6, W4 và W5 cùng giống
đối chứng là cây hạt của bạch đàn urô lấy từ sản xuất. Kết quả khảo nghiệm
dòng vô tính tại một số xã thuộc huyện Tam Nông và Đoan Hùng cho thấy
sau 4- 5 năm ba dòng bạch đàn Urô PN10, PN 46 và PN47 là những dòng có
thể tích thân cây tương ứng là 101, 127 và 103,6 dm3/cây với năng suất tương
ứng là 23, 38 và 30 m3/ha/năm, trong giống đối chứng là cây hạt của bạch đàn
urô chỉ có thể tích thân cây 41,4-43,8 dm3/cây và năng suất chỉ đạt 8-10
m3/ha/năm (Nguyễn Sỹ Huống, Huỳnh Đức Nhân, Nguyễn Thái Ngọc,
Nguyễn Văn Thạnh, 2003). Các dòng bạch đàn PN10, PN46 và PN47 đã được
Bộ NN&PTNT công nhận là Giống tiến bộ kỹ thuật tại quyết định số
2722/KHCC-NNNT ngày 7 tháng 9 năm 2004 để phát triển ở vùng Trung tâm

miền Bắc.
Các nghiên cứu về cải thiện giống cho loài cây này đã được tiến hành
và bước đầu đã đạt được những kết quả rất triển vọng, như đã chọn lọc được
một số xuất xứ tốt là Lewotobi, Lembata và Egon; một số tổ hợp lai UC (E.
urophylla x E. camaldulensis), UE (E. urophylla x E. exserta) có thể tích thân
cây vượt từ 24 đến 140% so với xuất xứ tốt nhất (Lê Đình Khả và cs., 2003).
Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ chú trọng về cải thiện khả năng sinh
trưởng và chất lượng thân cây mà chưa chú trọng nhiều đến cải thiện các tính
chất gỗ như tỷ trọng gỗ, hàm lượng xenlulose. Các nghiên cứu về ảnh hưởng
của khả năng sinh trưởng và tính chất gỗ của bạch đàn đến hiệu quả của quá
trình sản xuất cho thấy các tính trạng có ảnh hưởng lớn nhất đến nâng cao
7


hiệu quả trồng rừng, cũng như giảm giá thành của quá trình sản xuất bột giấy
là sinh khối, tỷ trọng gỗ và hiệu suất bột giấy (Borallho và cs., 1993; Greaves
và cs., 1997).
- Chọn dòng vô tính và khảo nghiệm bạch đàn Caman (E.
camaldulensis)
Chọn lọc và khảo nghiệm dòng vô tính bạch đàn Caman sinh trưởng
nhanh được Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện Khoa học lâm
nghiệp Viêt Nam thực hiện từ năm 1993 cho 38 cây trội của bạch đàn Caman,
nhân giống bằng hom và khảo nghiệm dòng vô tính tại Cẩm Quỳ (Hà Tây).
Kết quả đánh giá khảo nghiệm ở giai đoạn 7 tuổi cho thấy trong 38 dòng được
đưa vào khảo nghiệm chỉ dòng 22 và dòng 7 có thể tích thân cây đặc biệt cao
(103 dm3 và 80 dm3/cây), tiếp đó là các dòng số 24 và 26 có thể tích thân cây
75,9 và 70 dm3/cây, trong lúc giống đối chứng là bạch đàn urô có thể tích thân
cây 52,2 dm3/cây, còn đối chứng là bạch đàn thể tích thân cây 29 dm3/cây,
một nửa số dòng cây trội được chọn có thể tích thân cây chỉ đạt 14,4-28,5
dm3/cây (Lê Đình Khả và cs., 2003). Điều đó cho thấy để có dòng vô tính

năng suất cao phải tiến hành chọn lọc và khảo nghiệm cho nhiều cây trội.
Chọn lọc và khảo nghiệm dòng vô tính bạch đàn Caman chống chịu
bệnh được nhóm đề tài chọn giống kháng bệnh phối hợp với Trung tâm khoa
học sản xuất Đông Nam Bộ thực hiện tại vùng Đông Nam Bộ và một số nới
khác cho thấy từ 50 dòng vô tính có sức sinh trưởng mạnh và không bị bệnh
được chọn trong khảo nghiệm năm 1998 tại vùng Sông Mây (Đồng Nai) đã
chọn ra 10 dòng có sinh trưởng nhanh nhất và ít bị bệnh để khảo nghiệm lại
tại Sông Mây, Bầu Bàng (Bình Dương) và ở Huế. Đánh giá kết quả khảo
nghiệm năm 2004 cho thấy chỉ có hai dòng SM16 và SM123 có thể tích thân
cây tương ứng là 69,96 và 70,26 dm3/cây, có chỉ số bệnh là 1,06 và 0,17 (mức
bị bệnh cao nhất là điểm 4, khi hơn 75% số lá bị bệnh và hơn 75% số cành bị
chết do bệnh), trong lúc các dòng còn lại nếu có chỉ số bệnh thấp thì thể tích
thân cây chỉ đạt 37,59-55,62 dm3/cây hoặc cây có thể tích thân cây 68,56
dm3/cây thì chỉ số bệnh đến 1,43 (Nguyễn Hoàng Nghĩa, Phạm Quang Thu,
Nguyễn Văn Chiến, 2004). Hai dòng SM16 và SM23 đã được Hội đồng khoa
học Bộ NN&PTNT đề nghị công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật.
- Lai giống một số loài bạch đàn
Từ năm 1991 Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng đã tiến hành chọn
lọc cây trội và ghép cho một số cây bạch đàn urô (E. urophylla -U), bạch đàn
Caman (E. camandulensis -C) và bạch đàn liễu (E. exerta -E). Sau đó, trong
các năm 1996 - 2000, đã nghiên cứu đặc điểm di truyền, cất trữ hạt phấn và
tiến hành lai giống cho ba loài bạch đàn nói trên. Bằng phương pháp thụ phấn
có kiểm soát (control pollination) đã tiến hành lai thuận nghịch (reciprocal
hybridisation) và tạo ra hơn 70 tổ hợp lai (hybrid combination) gồm các cây
lai khác loài (interspecific hybrids) và cây lai trong loài (intraspecific
hybrids). Các tổ hợp lai được tạo ra gồm các nhóm UC, CU, UE, EU, CE, EC
và UU đã được khảo nghiệm tại các nơi có điều kiện lập địa khác nhau như
Thuỵ Phương (Hà Nội), Ba Vì (Hà Tây) và một số nơi khác ở Việt Nam.

8



Nghiên cứu tiềm năng bột giấy đã được thực hiện cho một số tổ hợp lai
đại diện như E1C4, U29C4, U29E1, E1U29 và các bố mẹ của chúng là U29,
E1, xuất xứ Kenendy River của bạch đàn trắng Caman, xuất xứ Egon Flores
của bạch đàn urô v.v.. Các số liệu thu được cho thấy ở giai đoạn 3 tuổi cây lai
có tỷ trọng gỗ và hàm lượng cellulose tương đương hoặc cao hơn các loài bố
mẹ, trong lúc hiệu suất bột giấy và các tính chất cơ học của giấy như độ chịu
kéo, độ chịu gấp, chỉ số xé và độ trắng của giấy lại tương tương với các loài
cây bố mẹ. Chứng tỏ cây lai không những sinh trưởng nhanh mà tiềm năng
bột giấy cũng không kém các loài cây bố mẹ (Lê Đình Khả, Hoàng Quốc
Lâm, Nguyễn Việt Cường, 2002). Từ khảo nghiệm giống lai đã chọn được
hơn 30 cây lai tốt nhất thuộc 8 tổ hợp lai khác nhau được Bộ NN và PTNT
công nhận là giống tiến bộ kỹ thuật. Sau khi nhân giống sinh dưỡng và khảo
nghiệm dòng vô tính tại một số vùng sinh thái đã thấy một số dòng vô tính rất
có triển vọng. Những giống này không những tiếp tục sinh trưởng nhanh hơn
các loài bố mẹ mà còn nhanh hơn các dòng E. urophylla được chọn lọc PN2
và PN14 cũng như các dòng U6 và GU8 được nhập vào Việt Nam trong
những năm gần đây. Những dòng có sinh trưởng nhanh nhất là những dòng
thuộc các tổ hợp U29E1, U29E2, U15E4, C2U17 và U29C3 được khảo
nghiệm tại Tam Thanh. Khảo nghiệm giống lai tại một số nơi khác cũng thu
được kết quả tương tự (Nguyễn Việt Cường, 2003). Điều đó chứng tỏ lai nhân
tạo có ý nghĩa to lớn trong cải thiện giống bạch đàn.
Bạch đàn dòng U6 được ưa chuộng bởi tính vượt trội của nó, như sinh
trưởng nhanh, dáng thon, tỉa cành tự nhiên tốt, độ che phủ của tán lá cao và
chất lượng sợi gỗ đạt hiệu quả cao cho sản xuất giấy. Độ tăng chiều cao có thể
đạt tới 3,9m - 4,1m/năm. Theo dự kiến dòng bạch đàn U6, sau 7- 8 năm sản
lượng cây đứng có thể đạt từ 120-150m3/ha, nếu được trồng ở tầng đất sâu,
ẩm, được chăm sóc tốt có thể rút ngắn chu kỳ, nó lại phù hợp với nhiều lập
địa khác nhau. Ngoài ra, trồng bạch đàn dòng U6 còn có tác dụng cải tạo môi

trường đất, nước và không khí. Nhiệt độ mặt đất dưới tán rừng U6 thấp hơn
nơi đất trống 100C, thấp hơn 60C so với những tán rừng các cây khác. Bạch
đàn dòng U6 có tính vượt trội như vậy, nhưng khi nhân giống muốn giữ
nguyên được tính chất của nó thì phải bằng con đường vô tính, tức là bằng
công nghệ mô và hom. Công trình khoa học nhân giống bạch đàn dòng U6
bằng công nghệ môvà hom đã được tặng nhiều giải thưởng như Huy chương
Vàng hội chợ triển lãm Tuần Lễ Xanh Quốc tế -Việt Nam lần thứ 3, năm
2007. Năm 2008 lại được đề nghị tặng thưởng Cúp Vàng "Thương hiệuNhãn hiệu" lần thứ III.
- Nhân giống bằng giâm hom và nuôi cấy mô
Nhân giống bằng hom (cutting propagation) là phương pháp dùng một
phần lá, một đoạn thân, đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới gọi là cây
hom. Nhân giống hom là phương thức nhân giống giữ được các biến dị di
truyền của cây mẹ lấy cành cho cây hom, giữ được ưu thế lai của đời F1 và
khắc phục được hiện tượng phân ly ở đời F2, rút ngắn chu kỳ sinh sản và thời
gian thực hiện chương trình cải thiện giống cây rừng và là phương thức góp
phần bảo tồn nguồn gen cây rừng. Nhân giống bằng hom cũng là phương
9


pháp có hệ số nhân giống lớn nên được dung phổ biến trong nhân giống cây
rừng, cây cảnh và cây ăn quả. Tuy vậy nhân giống bằng hom có thể gặp hiện
tượng bảo lưu cục bộ (topophisis) là hiện tượng mà cây hom tiếp tục phát
triển theo các đặc tính của cành mang hom cả về tập tính sinh trưởng lẫn phát
triển giai đoạn (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003).
Các nhân tố ảnh hưởng đến thành công của nhân giống hom là đặc
điểm di truyền của loài, tuổi cây mẹ lấy cành, vị trí cành và tuổi cành, sự tồn
tại của lá trên hom, các chất kích thích ra rễ, điều kiện sinh sống của cây mẹ
lấy cành, giả thể giâm hom, thời vụ giâm hom và các điều kiện ngoại cảnh
khác như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm v.v. (Lê Đình Khả, 2003). Các chất kích
thích ra rễ được dùng chủ yếu là IBA (Indole butiric acid), IAA (indoleacetic

acid), NAA (naphthyl acetic acid), 2,4-D (2,4-dichlorophenoxyacetic
acid),v.v.
Trước năm 1995 các chất này được dùng chủ yếu ở dạng dung dịch có
nồng độ thấp, khoảng 50-300 ppm xử lý trong thời gian 3 giờ. Từ năm 1996
đến nay thuốc bột (0,25- 1,0%) là dạng thuốc được dùng chủ yếu khi nhân
giống hom ở quy mô sản xuất; ngoài ra, dạng dung dịch nồng độ cao 1000 3000 ppm cũng được dùng để xử lý hom giâm trong thời gian 1- 3 giây.
Nghiên cứu của nhiều tác giả đã thấy rằng thuốc giâm hom có hiệu quả nhất
và được dung phổ biến nhất là IBA dạng bột ở nồng độ 0,75 - 1,0%, tiếp đó là
dạng thuốc nước nồng độ cao (1000 - 3000 ppm). Đây là những dạng thuốc
rất tiện dụng trên quy mô lớn ở điều kiện sản xuất. IBA đang được dùng làm
thuốc gốc để sản xuất các chế phẩm dạng thuốc bột kích thích ra rễ trên thị
trường thế giới (Lê Đình Khả, Đoàn Thị Mai, 2002). Giá thể giâm hom
thường dùng là cát sông, hoặc hỗn hợp cát sông + than trấu, hoặc cát sông +
xơ dừa. Độ ẩm giá thể thích hợp thay đổi theo từng loài cây, song thích hợp
nhất thường là 50-70%. Mùa giâm hom có tỷ lệ ra rễ cao nhất cho các loài cây
lá rộng thường là mùa mưa và thường là tháng 5 đến tháng 10. Đây cũng là
những tháng cây có khả năng ra chồi nhiều nhất, cắt được nhiều hom nhất.
- Nhân giống bạch đàn bằng kĩ thuật nuôi cấy mô
Nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu và khảo nghiệm xuất xứ
cũng như khả năng chọn cây trội bạch đàn từ giai đoạn còn nhỏ, thử nghiệm
giâm hom bạch đàn bằng một số loại thuốc và nồng độ thuốc khác nhau.
+ Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu giấy Phù Ninh đã nghiên cứu xuất
xứ bạch đàn E.urophylla trong vùng nguyên liệu giấy sợi Bắc Bộ.
+ Viện Khoa học Lâm nghiệp đã có nhiều công trình nghiên cứu về thử
nghiệm thuốc giâm hom cho các loài bạch đàn khác nhau.
+ Trường Đại học Lâm nghiệp trong những năm vừa qua đã có một số
đề tài và công trình nghiên cứu về thử nghiệm giâm hom loài bạch đàn và
bước đầu đã có một số kết quả nhất định.
+ Nguyễn Ngọc Tân và Trần Hồ Quang thuộc Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam nghiên cứu nhân giống cây lai giữa bạch đàn liễu và bạch

đàn trắng bằng phương pháp nuôi cấy mô. Kết quả nghiên cứu cho thấy: việc
nhân chồi bạch đàn lai đạt kết quả tốt trên môi trường MS có bổ sung 0,3-0,5
mg/l BAP và 0,2 mg/l Kinetin. Môi trường ra rễ thích hợp là 1/2 MS + 1 mg/l
10


IBA (tỷ lệ ra rễ đạt 80% sau 12 ngày) (Nguyễn Ngọc Tân, Hồ Trần Quang,
1996).
+ Mai Đình Hồng thuộc Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu giấy Phù
Ninh (Phú Thọ) nghiên cứu nuôi cấy mô Bạch đàn E.urophylla . Tác giả cho
rằng, môi trường nhân nhanh thích hợp là MS + 0,5mg/l BAP + 0,25 mg/l
NAA, môi trường ra rễ tối ưu là 1/4 MS + 1mg/l IBA (Mai Đình Hồng,
1999; Ngô Quang Đê, Nguyễn Hữu Vinh , 1997).
+ Đoàn Thị Mai và các cs., 2004 thuộc Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam nghiên cứu nuôi cấy mô bạch đàn lai E.urophylla x E.
camaldulensis. Các tác giả cho rằng dùng riêng rẽ BAP tỏ ra thích hợp hơn so
với dùng phối hợp với Kinetin trong việc kích thích tạo chồi (Đoàn Thị Mai
và cs., 2004). Tuy nhiên tất cả các công trình nghiên cứu đã công bố ở trên
hầu như mang tính chất thử nghiệm và đối tượng chủ yếu tập trung vào loài
bạch đàn trắng E. camaldulensis. Những nghiên cứu có liên quan đến đối
tượng bạch đàn E.urophylla với mục tiêu phục vụ sản xuất còn ít và bị hạn
chế.
* Cây keo lai
Giống lai tự nhiên đầu tiên được phát hiện ở Việt Nam là giống lai giữa
bạch đàn Caman (E. camaldulensis) với bạch đàn đỏ (E. robusta) có thể tích
thân cây gấp 2-3 lần các loài cây bố mẹ (Lê Đình Khả, 1970). Tuy vậy, thành
tựu nổi bật của công tác cải thiện giống cây rừng ở nước ta là sử dụng giống
keo lai tự nhiên. Keo lai là tên gọi tắt của giống lai tự nhiên giữa keo tai tượng
(A. mangium) với keo lá tràm (A. auriculiformis). Đến nay keo lai đã được
trồng trên 28 tỉnh và hai tổng công ty và đang được coi là một trong những

giống cây trồng chính để làm nguyên liệu cho công nghiệp. Năm 1995 diện
tích trồng keo lai mới 160 ha thì đến hết năm 2004 diện tích trồng keo lai
trong cả nước đã hơn 130.000 ha, riêng năm 2003 đã trồng 46.000 ha. Đến
nay diện tích trồng keo lai đạt gần 450.000 ha. Keo lai của ta cũng đang được
một số nước quan tâm gây trồng.
- Nhân giống keo lai bằng giâm hom
Keo lai là giống lai đời F1 nên khi dùng hạt lấy từ cây keo lai để trồng
rừng thì rừng trồng mới (tức đời F2) sẽ bị thoái hoá và phân ly không những
về hình thái mà cả sinh trưởng, làm cho năng suất rừng keo lai giảm xuống
thấp hơn cả rừng trồng keo tai tượng (Lê Đình Khả, và cs., 1998). Vì thế ngay
từ năm 1997, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có khuyến nghị
không dùng hạt keo lai để gây trồng rừng mới mà nên dùng phương pháp
nhân giống sinh dưỡng bằng giâm hom hoặc cây nuôi cấy mô để tạo cây con
keo lai cho trồng rừng. Ngay khi keo lai được chọn tạo Trung tâm nghiên cứu
giống cây rừng đã nghiên cứu nuôi cấy mô và giâm hom thành công cho keo
lai (Nguyễn Ngọc Tân, và cs., 1995; Đoàn Thị Mai, và cs., 1999; Lê Đình
Khả và cs., 1999) và đã tổ chức nhiều lớp tập huấn về kỹ thuật nhân giống
hom cho hơn 40 tỉnh ở Việt Nam. Hiện nay kỹ thuật nhân giống hom keo lai
đã được nhiều cơ sở trong nước áp dụng thành công. Nhiều lâm trường và
hợp tác xã đã có thể nhân giống keo lai bằng hom để trồng rừng.

11


- Nhân giống keo lai bằng nuôi cấy mô
Cùng với việc gây trồng keo lai là sự phát triển của kỹ thuật nhân giống
bằng nuôi cấy mô và giâm hom, đặc biệt kỹ thuật nhân giống hom đã mở rộng
đến tận các lâm trường và hợp tác xã. Nuôi cấy mô keo lai ở nước ta người
đầu tiên tiến hành nuôi cấy mô là Nguyễn Ngọc Tân và cs.,1995. Sau đó Đoàn
Thị Mai và cs., 1998, 2004) đã hoàn thiện thêm một số khâu và đã chuyển

giao kỹ thuật nhân giống keo lai bằng nuôi cấy mô cho nhiều cơ sở trong
nước.
Ngoài các dòng keo lai BV10, BV16 và BV32 là giống quốc gia cùng
các dòng TB3, TB5, TB6, TB12 đã được công nhận trước đây, năm 2004 Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận thêm dòng KL2 cho vùng
Đông Nam Bộ. Gần đây một số dòng keo lai mới cũng đang được một số đơn
vị chọn tạo và khảo nghiệm. Cùng với keo lai tự nhiên chúng ta cũng tạo được
một số tổ hợp và một số dòng keo lai nhân tạo sinh trưởng nhanh, làm phong
phú thêm tập đoàn giống keo lai ở nước ta. Nghiên cứu của Trung tâm nghiên
cứu giống cây rừng đã thấy keo lai có hình thái lá, vỏ cây, quả và hạt cũng
như có tỷ trọng gỗ trung gian giữa keo tai tượng và keo lá tràm (Lê Đình Khả
và cs., 1993), trong khi có sinh trưởng nhanh gấp 1,5-3,0 lần các loài keo bố
mẹ nên có tiềm năng bột giấy cao hơn (Lê Đình Khả, Lê Quang Phúc, 1995;
Lê Đình Khả, Lê Quang Phúc, 1999). Keo lai cũng có lượng nốt sần và có khả
năng cải tạo đất cao hơn các loài keo bố mẹ (Lê Đình Khả, Ngô Đình Quế,
Nguyễn Đình Hải, 2000). Tuy vậy đây là cây lai đời F1 vì thế nếu dùng hạt để
trồng rừng thì ở đời F2 bị thoái hoá và phân ly (Lê Đình Khả, và cs., 1998)
nên phải nhân giống sinh dưỡng bằng nuôi cây mô và giâm hom. Nhờ áp
dụng kỹ thuật nhân giống bằng nuôi cấy mô (Nguyễn Ngọc Tân, và cs., 1997;
Đoàn Thị Mai, và cs., 1999) và giâm hom mà các dòng keo lai đã được đưa
vào sản xuất trên quy mô lớn ở nước ta. Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng
đã dùng thuốc bột TTG (tên viết tắt của Trung tâm nghiên cứu giống cây
rừng) để nhân giống mô-hom cho keo lai. Xử lý bằng thuốc bột TTG1 có thể
làm cây mô ra rễ hơn 90% trên môi trường cát tinh và hom giâm ra rễ hơn
80% ở quy mô sản xuất.
Những nơi keo lai sinh trưởng nhanh là Hàm Yên (Tuyên Quang), Bình
Thanh (Hòa Bình), Đông Hà (Quảng Trị), Long Thành (Đồng Nai) sau 5-7
năm trồng có thể đạt năng suất 43- 45 m3/ha/năm. Ngay tại nơi có đất nghèo
dinh dưỡng và bị laterit hóa tương đối mạnh như ở Ba Vì, keo lai cũng có thể
đạt năng suất 15 m3/ha/năm, trong khi năng suất cuả Keo tai tượng cũng chỉ

đạt 9 m3/ha/năm (Nguyễn Ngọc Dao, 2003). Tại các tỉnh vùng Đông Nam Bộ
và được trồng thâm canh keo lai có thể cho năng suất 35 - 40 m3/ha/năm trên
diện rộng (Lê Đình Khả, và cs., 1999, Nguyễn Ngọc Dao, 2003), vì thế keo
lai đang được phát triển mạnh ở các tỉnh miền Trung và miền Nam nước ta.
Ngoài ra, một số thí nghiệm cũng cho thấy các biện pháp thâm canh cũng có
vai trò rất trọng trong tăng năng suất giống (Lê Đình Khả, Hồ Quang Vinh,
1998).
Những dòng keo lai có sinh trưởng nhất cũng là những dòng có thân
cây thẳng, đơn trục và cành nhánh nhỏ, chỉ số chất lượng thân cây cao nhất.
12


Những dòng keo lai sinh trưởng kém cũng là những dòng có chất lượng thân
cây kém nhất. Từ kết quả khảo nghiệm dòng vô tính đã chọn được 5 dòng keo
lai BV10, BV16 BV29, BV32 và BV33 có năng suất và chất lượng thân cây
cao nhất được Bộ NN&PTNT cho khảo nghiệm trên diện rộng ở một số vùng
sinh thái chính trong nước từ năm 1996. Đây cũng là những dòng có khả năng
chịu hạn khá hơn hoặc tương đương các loài keo bố mẹ, có hàm lượng
cellulose cao, có hiệu suất bột giấy và độ bền cơ học của giấy cao hơn các loài
keo bố mẹ, cũng như cao hơn bạch đàn Caman được trồng làm đối chứng.
Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã phối hợp với CSIRO xác đinh các
alen trên các locus của các phân tử ADN bằng phương pháp "in dấu vân tay
ADN" (DNA fingerprinting) theo 2 microsatelite A030 và A435 và đã thấy
rằng các dòng vô tính này có các alen thật sự khác nhau (Butcher, 2001). Từ
kết quả khảo nghiệm giống trong những năm qua, một số dòng keo lai đã
được Bộ NN&PTNT công nhận giống là:
- Giống quốc gia gồm các dòng keo lai BV10, BV16 và BV32 (theo
Quyết định số 132/ KHCNNNNT ngày 17 tháng 1 năm 2000).
- Giống tiến bộ kỹ thuật gồm các dòng keo lai TB03, TB05, TB06,
TB12 (theo Quyết định số 3118/ KHCN-NNNT ngày 9 tháng 8 năm 2000),

KL2 (theo Quyết định số 2722/ KHCNNNNT ngày 7 tháng 9 năm 2004).
- Dòng keo lai KL2 do Trung tâm cây nguyên liệu giấy Phù Ninh khảo
nghiệm tại Đại An (Đồng Nai) ở giai đoạn 4,5 tuổi cũng có thể tích thân cây
140 dm3/cây, trong lúc của keo tai tượng là 44 dm3/cây, còn của Keo lá tràm
là 37 dm3/cây (Nguyễn Sỹ Huống, Huỳnh Đức Nhân và cs., 2003). Ngoài các
dòng keo lai được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận như
BV5, BV16, BV32, TB3, TB5, TB6, TB12 và KL2, một số dòng keo lai khác
đã được chọn thêm và đưa vào khảo nghiệm. Đến nay, sau 3 năm khảo
nghiệm đã thấy rằng một số dòng như BV71, BV75 có năng suất và hiệu suất
bột giấy tương đương các dòng keo lai BV10, BV16, BV32 (Nguyễn Đình
Hải, 2002, Đoàn Văn Lâm, 2004) là có triển vọng cho trồng rừng.
1.2.2. Cây hoa lan
1.2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Hoa lan là một loài hoa vương giả nhờ giá trị thẩm mỹ và giá trị kinh tế
to lớn của nó. Chính vì vậy từ lâu nhiều nước trên thế giới đã tập trung vào
nghiên cứu toàn diện về hoa lan. Vì hoa lan thuộc họ lan Orchidaceae có tới
25.000 đến 30.000 loài phân bố ở khắp nơi trên trái đất, rất đa dạng về mầu
sắc, hương thơm và chủng loại. Do đó người ta chỉ lựa chọn ra những loài có
giá trị thẩm mỹ cao nhất và những loài có giá trị kinh tế cao nhất để thuần
hóa, lai tạo giống và đặc biệt là đầu tư vào kỹ thuật nhân giống để phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Theo thống kê của Trung tâm thương mại quốc tế từ những năm 50 của
thế kỷ 20 mậu dịch hoa cây cảnh thế giới đạt 3 tỷ USD, đến năm 1985 đạt 15
tỷ USD, năm 1990 đạt 30,5 tỷ USD, đến nay đạt hơn 200 tỷ USD. Trung
Quốc phát triển nghề trồng hoa khoảng 20 năm trở lại đây với diện tích
336.000 ha chiếm 1/3 diện tích trồng hoa trên thế giới. Năm 2000 đạt 2 tỷ
cành, doanh thu hơn 1 tỷ USD. Đài Loan sản xuất 13.000 ha, doanh thu đạt
13



400 triệu USD trong đó hoa lan chiếm hơn 150 triệu USD tập trung chủ yếu
vào các loại hoa lan Hồ Điệp, lan Vũ Nữ và lan Kiếm Cymbidium. Thái Lan
là nước trồng và xuất khẩu hoa lan lớn nhất thế giới với 610 loài và 1.000
giống trên diện tích 2.300 ha đạt tới 25.900 tấn và doanh thu đạt 500 triệu
USD (ITC 2008).
Hiện nay, Thái Lan là nước xuất khẩu hoa lan đứng đầu thế giới, có
180 phòng nuôi cấy invitro hiện đại và hoa lan thương mại ở Băng Cốc và các
vùng phụ cận (Đồng Văn Khiêm, 1995). Nhờ khả năng thực hiên công nghệ
nuôi cây mô và lai tạo, năm 1993 Thái Lan cung cấp 80% cho thị trường Anh,
75% cho Hà Lan về hoa cắt cành, 5 triệu cành cho Nhật (Ngô Quang Vũ Hoa cảnh T10, 2002). Ở Đài Loan do có điều kiện khí hậu thuận lợi nên có
thể sản xuất hoa tươi quanh năm. Đài Loan chú trọng nhiều vào sản xuất hoa
lan Hồ Điệp, hiện nay nước này đã tạo ra một số giống lan Hồ Điệp qúy với
nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau.
1.2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam chúng ta diện tích trồng hoa cây cảnh cả nước là 15.000 ha
bao gồm nhiều loại hoa chủ yếu là cúc, hồng, đồng tiền, cẩm chướng, lay ơn
còn hoa lan thì rất ít khoảng 150-180 ha tập trung chủ yếu ở Lâm Đồng, thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, SaPa… Doanh thu trồng hoa đạt từ 230 – 450 triệu
đồng/ha. Có những mô hình trồng hoa lan kết hợp nuôi cá cảnh, hay trồng hoa
Lily đạt 1-2 tỷ đồng/ha. Cả nước xuất khẩu chỉ được 25 triệu USD bằng 1/10
so với Singapo, 1/16 so với Đài Loan và bằng 1/20 so với Thái Lan. Trồng
hoa lan hiệu quả hơn 70-80 lần so với trồng lúa, nhưng đầu tư ban đầu lớn,
trong đó chi phí nhập khẩu giống tới 70% vì giống ở trong nước còn thiếu,
chưa đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng mặc dù đã có hàng chục cơ
sở nuôi cấy mô nhưng qui mô nhỏ, công nghệ lạc hậu (Phạm S., 2009).
Đối với hoa lan, sản xuất của nước ta còn mới mẻ, chưa đáp ứng được
nhu cầu tiêu thụ trong nước và ngoài nước cả về số lượng và chất lượng,
chủng loại hoa. Hiện nay các phòng nuôi cấy mô nhân giống hoa lan bằng
phương pháp gieo hạt trong phòng thí nghiệm hoặc nuôi cấy đỉnh sinh trưởng,
sau đó cấy chuyển và tạo cây hoàn chỉnh. Từ năm 2004, Viện Khoa học kĩ

thuật Nông nghiệp miền Nam đã phổ biến “Quy trình công nghệ cao sản xuất
hoa lan”, quy trình tập chung cho 2 loài là lan Hoàng Thảo và lan Hồ Điệp
(Lê Kim Đào và cs., 2009).
Nhằm cung cấp cây giống hoa lan cho sản xuất, các tác giả Nguyễn
Quang Thạch, Nguyễn Thị Lý Anh tại Viện Sinh học Nông Nghiệp thuộc
Trường Đại Học Nông Nghiệp I, Hà Nội đã nghiên cứu và hoàn thiện quy
trình nhân giống lan Hồ Điệp bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào, quy
trình này đã được Bộ NN&TPTNT công nhận là tiến bộ kỹ thuật và mỗi năm
đơn vị đã cho ra đời hàng vạn cây giống hoa lan cho sản xuất. Bên cạnh đó,
các tác giả Đỗ Năng Vịnh, Đoàn Duy Thanh, Hà Thị Thúy và cs (2005-2010)
của viện Di Truyền Nông Nghiệp cũng đã tập trung nghiên cứu ra các môi
trường để sử dụng trong nhân giống invitro cây lan Hồ Điệp, cây lan Hoàng
Thảo, cây lan Đai Châu ... để nâng cao tỷ lệ sống cũng như chất lượng cây
giống khi ra ngôi ngoài vườn ươm.
14


Tại Trung tâm kỹ thuật Rau Hoa Quả, Hà Nội trong 2 năm trở lại đây,
phòng nuôi cấy mô hoạt động cho ra đời mỗi năm hàng vạn cây giống lan Hồ
Điệp và hàng vạn cây giống khác.
Tại Viện Nghiên cứu Rau Quả, Đặng Tiến Đông và cs., 2009 đã tiến
hành dự án KC-04-DA-09-06/10 hoàn thiện quy trình sản xuất hoa lan Hồ
Điệp ở quy mô công nghiệp từ khâu nhân giống, ra cây, chăm sóc xử lí ra hoa
theo ý muốn và đã rất thành công (Nguyễn Văn Tỉnh, Đặng văn Đông và cs.,
2010).
Tại Viện Di Truyền Nông Nghiệp, Phạm Thị Liên và cs., 2010 đã tuyển
chọn được 3 giống lan Hoàng Thảo chịu lạnh thích hợp với điều kiện trồng
trọt ở các tỉnh phía Bắc là HT1; HT2; HT3 từ tập đoàn nhập nội của Thái Lan
đồng thời tiến hành nhân giống bằng nuôi cấy mô, ra cây và hoàn thiện quy
trình trồng hoa thương phẩm 3 giống hoa lan này.

Nghiên cứu về các giá thể: Theo Việt Chương, Nguyễn Việt Thái
(2002), Trần Duy Quý và cs., 2005 có thể sử dụng than hoa, dớn, xơ dừa, rễ
lục bình, vỏ thông để trồng lan Hồ Điệp, còn đối với các loại địa lan Kiếm là
các loại dớn, xơ dừa, xỉ than, bọt núi lửa .. đây là các vật liệu dễ kiếm ở Việt
Nam. Có thể dùng một lọai giá thể phối trộn các loại giá thể trên với nhau tùy
thuộc vào điều kiện từng vùng và từng độ tuổi của lan.
Nghiên cứu về về phân bón đã được tác giả Nguyễn Xuân Linh (1998)
khuyến cáo nên tưới phân cho lan lúc sáng hay chiều mát, không nên tưới
vào buổi trưa. Bình thường tưới 1lần trên 1 tuần. Nguyễn Công Nghiệp
(2000) đã kết luận, mùa tăng trưởng của hoa lan nên dùng phân tổng hợp N:
P: K loại 30:10:10 con khi cây chuyển sang giai đoạn hình thành, phân hóa
chồi hoa và khi chớm nở hoa thì phải dùng phân có nồng độ lân cao để màu
sắc hoa thắm và đậm hơn như phân N:P:K loại 6: 30: 30.
1.2. 3. Cây cam Xã Đoài (Citrus sinentis), bưởi Diễn (Citrus grandis)
1.2.3.1.Nguồn gốc của cây cam Xã Đoài và bưởi Diễn
Cam là loài cây ăn quả cùng họ với bưởi. Nó có quả nhỏ hơn quả bưởi,
vỏ mỏng, khi chín thường có màu da cam, có vị ngọt hoặc hơi chua. Loài cam
là một cây lai được trồng từ xưa, có thể lai giống giữa loài bưởi và quýt. Nó là
cây nhỏ, cao đến khoảng 10 m, có cành gai và lá thường xanh dài khoảng 410 cm. Cam bắt nguồn từ Đông Nam Á, có thể từ Ấn Độ, Việt Nam hay miền
nam Trung Quốc. Vương quốc của cam Xã Đoài chính là bốn xã Sông Con,
Vân Du, Xã Đoài 1, Xã Đoài 2 của tỉnh Nghệ An một trong những vùng đặc
chủng của cây ăn trái có múi nổi tiếng với có gần 8.000 ha trồng cam. Ðây là
loại cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế khá cao, nên được nhà vườn trồng
nhiều trong những năm gần đây.
Cam Xã Đoài không phải là giống cam bản địa của Việt Nam mà nó
được người Pháp nhập nội đưa vào trồng từ những năm 40 của thế kỉ trước và
trồng đầu tiên ở Thôn Xã Đoài, xã Nghi Diên, Nghi Lộc tỉnh Nghệ An nên
được gọi là cam Xã Đoài. Giống này có cây cao trung bình từ 3,5-4m, tán lá
rộng 4-4,5 cm, phân cành tương đối thấp, ít gai và gai ngắn. Lá to, chiều dài
lá 8-9 cm, rộng 5-6 cm và có cánh lá rộng, khung cành thưa hơn các giống

khác. Khối lượng quả nặng trung bình từ 250-300 gram, đường kính qủa trung
15


bình 6,8-7,8 cm, vỏ mỏng dày chừng 3mm. Năng suất> 45kg/cây, độ đồng
đều và hình dạng kích thước quả (%)>80, tỉ lệ phần ăn được>80%, số lượng
hạt/quả 10-15 hạt. Hình dạng quả và màu sắc quả tròn đều, vàng da cam,
nhẵn; màu sắc thịt quả là vàng đỏ, da cam; độ dai vách múi dòn và dễ tách; độ
mịn và mọng nước của thịt quả là mịn, đồng nhất, mọng nước; hương và vị
quả thơm, ngọt đậm. Cam Xã Đoài có hai dạng quả, một là dạng quả hơi dẹt,
và một là dạng dạng quả hơi thuôn. Người dân đánh giá quả hơi thuôn ngon
hơn quả dẹt.
Cam Xã Đoài đã trở thành thương hiệu nổi tiếng của Việt Nam do
người dân xứ Nghệ liên tục chọn lọc được các dòng thích nghi cao và cho
năng suất quả, phẩm chất ngon không thua kém gì nơi xuất xứ. Vì cam Xã
Đoài thích ứng rất rộng đặc biệt là khi trồng ở các vùng núi cao có khí hậu
mát như Mộc Châu, Sơn La hoặc các vùng núi như Hương Sơn, Hương Khê
Hà Tĩnh, mã quả rất đẹp và chất lượng ngon (Ngô Hồng Bình và cs., 2005).
Vì vậy trong dự án của chúng tôi tập trung vào nhân giống cam Xã Đoài quả
hơi thuôn. Những cây đầu dòng đang được lưu trữ tại Viện Rau quả và Viện
Di truyền Nông nghiệp thông qua kĩ thuật vi ghép mắt.
Bưởi Diễn được trồng ở làng Phú Diễn (Từ Liêm, Hà Nội), ra hoa vào
đầu Xuân, và khi Thu đến, những trái bưởi vàng rực đã lúc lỉu trên cành. Theo
các cụ lão làng của Đức Diễn kể lại, thì khoảng đầu thế kỷ 20, ông Lý Khang
lên chơi Đoan Hùng, nhận thấy giống bưởi nơi đây ngon ngọt quá mới xin về
trồng. Cây bưởi gốc của nhà ông đã cho cành chiết tới hàng trăm nhà khác,
nhưng giá trị trên thương trường thì chưa có ai khẳng định. Tuy nhiên theo
nghiên cứu của Khuất Hữu Trung và cs., 2009 trong đề tài KC-04-06-10 khi
đánh giá về đa dạng di truyền tập đoàn bưởi bản địa của Việt Nam bằng các
chỉ thị phân tử SSR đã khẳng định rằng giống bưởi Diễn và bưởi Đoan Hùng

là hai giống khác nhau về mặt di truyền. Điều này đã loại bỏ giả thuyết mà
dân gian lâu nay vẫn cho rằng bưởi Diễn có nguồn gốc từ bưởi Đoan Hùng
mà thực ra bưởi Diễn được người dân chọn lọc và biến thành loại quả đặc sản
nổi tiếng của vùng Phú Diễn, Từ Liêm, Hà Nội. Điều này đã được khẳng định
là bưởi Diễn khi đem trồng ở những nơi khác thì không còn ngon bằng trồng
tại chính Phú Diễn. Sau ngày Cách mạng thành công, sinh thời Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã về thăm Phú Diễn, Bác trồng cây đa lưu niệm, căn dặn cán bộ
nhân dân đẩy mạnh sản xuất, quan tâm tới trồng cây ăn quả. Từ đó phong trào
trồng cây ăn quả tại vườn nhà và vườn quả của người cao tuổi Phú Diễn ra
đời. Sau khi có chủ trương đổi mới kinh tế, Đảng Ủy Phú Diễn đã mạnh dạn
đưa vào nghị quyết việc "chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng cây ăn quả, tập
trung trồng bưởi - một giống cây đặc sản của địa phương." Thế là cây bưởi đã
từ vườn nhà trở thành hàng hóa chính.
Bưởi Diễn có mùi thơm đặc biệt, đến vườn bưởi, chưa thấy bưởi đã
thấy thơm ngan ngát. Khi cây có tuổi từ 7 tuổi, năng suất >100 kg/cây; khối
lượng quả trung bình từ 800-1000g; độ đồng đều và hình dạng, kích thước
quả >70%; tỉ lệ phần ăn được >60%; số lượng hạt trên quả <50%; hình dạng
và màu sắc vỏ quả tròn, hơi dẹt, vàng cam nhẵn; màu sắc thịt quả vàng xanh;
độ dai của vách múi dòn, dễ tách; độ mịn mọng nước của thịt quả mịn, đồng
16


nhất, mọng nước; hương và vị qủa ngọt, không the đắng; độ Brix (%) từ 1214.
Mùa thu hoạch bưởi Diễn bắt đầu vào khoảng hai tháng trước Tết, bưởi
được trảy xuống xếp vào các kệ trong nhà. Bưởi Diễn càng để lâu thì vỏ càng
ngót nước nhưng vị ngọt lại càng đậm. Ðến cuối thu, quả bưởi khô quắt lại
nhưng múi bưởi vẫn mọng đầy nước và hương vị không hề thay đổi.
Cam Xã Đoài và bưởi Diễn là cây ăn quả đặc sản ở nước ta, là loại cây
xóa đói giảm nghèo và hiện nay thực chất nhiều hộ gia đình nông dân đã làm
giàu từ các loại cây này. Sản xuất cam Xã Đoài và bưởi Diễn đang là thế

mạnh và rất phổ biến tại các tỉnh Bắc Trung bộ, vùng đồng bằng sông Hồng
và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Nhiều tiến bộ kỹ thuật mới cũng đã được áp
dụng góp phần cải thiện và nâng cao năng suất chất lượng quả đáng kể. Ngay
từ khâu sử dụng cây giống, việc nhân giống bằng mắt ghép hầu như đã thay
thế cây giống gieo từ hạt và cành chiết. Cây giống tạo ra bằng phương pháp
ghép khắc phục được sự truyền bệnh từ cây mẹ sang cây con, cây có bộ rễ
khỏe chống chịu với ngoại cảnh và thời tiết khá hơn, thời gian cho quả nhanh.
Trừ các vườn cũ đã già cỗi, còn lại phần lớn các vườn trồng cam Xã Đoài,
bưởi Diễn hiện nay đều sử dụng cây giống là cây ghép. Cam Xã Đoài và bưởi
Diễn mang lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên việc khai thác hết tiềm năng của
các loại cây này vẫn cần phải khắc phục được những hạn chế, đặc biệt là công
tác phòng trừ sâu bệnh, chúng không những làm giảm năng suất sản lượng
quả mà còn làm giảm tuổi thọ của cây, rút ngắn chu kỳ kinh doanh vườn. Vì
vậy trong dự án này chúng tôi tập chung vào sản xuất các giống cam Xã Đoài
và bưởi Diễn sạch bệnh trong nhà lưới ở giai đoạn vườn ươm nhằm cung ứng
một phần giống cây trồng này cho các trang trại, nhà vườn và các hộ nông dân
hiện nay.
1.2.3.1. Tình hình nghiên cứu sản xuất cây có múi trên thế giới
Cam, bưởi thuộc loại quả tươi cao cấp, có giá trị dinh dưỡng, giá trị sử
dụng và giá trị kinh tế cao. Trong suốt mấy thế kỷ qua, ngành sản xuất cây có
múi trên thế giới không ngừng tăng nhanh và mức tiêu thụ quả của thị trường
thế giới cũng ngày một cao hơn do trồng cây có múi chóng được thu hoạch và
lãi suất luôn luôn cao. Theo FAO, năm 2000 tổng sản lượng quả có múi của
thế giới đạt trên 85 triệu tấn, tăng trưởng hàng năm 2,85%. Bình quân trên thế
giới khoảng 7kg/người/năm (FAO, 2010). Các nước sản xuất cam chính vụ,
niên vụ 2009-2010 trên thế giới là Braxin 17,75 triệu tấn tăng so với niên vụ
2007/2008 là 16,85 triệu tấn. Ở Mỹ niên vụ 2009/2010 đạt 7,4 triệu tấn, thấp
hơn niên vụ 2007/2008 là 9,14 triệu tấn. Còn ở Trung Quốc, niên vụ
2007/2008 là 5,45 triệu tấn, đứng tiếp theo là Ai Cập, Mexico, Nam Phi và
Thỗ Nhĩ Kì (FAO, 2009/2010). Còn nước tiêu thụ quả tươi trung bình

năm/người ở một số nước như Trung Quốc là ít hơn 1kg/người/năm trong khi
đó ở Nhật Bản là 18kg/người/năm, ở Mỹ là 6kg/người/năm so với mức bình
chuẩn của thế giới là 7kg/người/năm (FAO, 2010).
Trên thế giới hiện nay tập chung rất mạnh vào cải tạo các giống cam,
quýt, bưởi không hạt nhờ kết hợp kĩ thuật lai xa, cứu phôi, tạo dòng tứ bội để
lai với lưỡng bội để tạo ra các dòng tam bội không hạt hay xử lý đột biến
17


×