Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Xu Hướng Phát Triển Của Giáo Dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 87 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Trường Đại Học Sư Phạm

NGUYỄN VĂN HỘ
(Biên Tập Và Hệ Thống Hoá Tư Liệu)

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
(Tài Liệu Dùng Cho Học Viên Cao Học QLGD)

THÁI NGUYÊN - 2007


I. GIÁO DỤC Ở THẾ KỶ XXI
1. Giáo dục với khoa học – công nghệ - văn hoá trong phát triển
1.1. Quan điểm về phát triển
Ngày nay người ta thường không còn dựa trên quan điểm thuận kinh tế để coi
phát triển là tăng trưởng một cách hiệu quả, mà cần hiểu rằng: Phát triển là một quá
trình tiến bộ theo nhiều thứ nguyên (lĩnh vực) từ kinh tế, xã hội; chính tri; đến văn hoá;
môi trường sinh thái; tinh thần. Bất kỳ một định nghĩa thích hợp nào về phát triển cũng
phải gồm 5 thứ nguyên: (l) Một thành phần kinh tế tạo ra giàu có và điều kiện cao hơn
về vật chất cho con người; (2) Một thể hiện xã hội được đo bằng phúc lợi y tế, giáo
dục, nhà ở, việc làm, vững chắc sinh thái. trong xu thế tạo lập sự công bằng về cơ hội
cho các tầng lớp dân cư; (3) Một thứ nguyên chính trị về dân chủ, quyền bầu cử, sự
tham gia của dân chúng vào các quyết sách; (4) Một khía cạnh văn hoá thừa nhận các
đặc thù, hài hoà giữa truyền thống và hiện đại, phát huy bản sắc dân tộc, cộng đồng;
(5) Một mẫu hình được tạo lập, có tính phong phú về triết lý tôn giáo và ý nghĩa cuộc
sống.
Theo quan điểm đó, phát triển mang lại cho con người những lợi ích sau đây
nâng cao giàu có; tiến bộ về công nghệ; chuyên môn hoá về thể chế; tăng tự do cho lựa
chọn; quan hệ quốc tế rộng rãi; sự khoan dung đốii với những khác biệt tôn giáo phong
tục, phong cách cá nhân.


Tuy vậy, vẩn còn tồn tại những vấn đề cần suy nghĩ, đó là (1) Một xã hội phát
triển được đảm bào bởi luật pháp, thể chế, liệu có thể đương nhiên dẫn tới sự bình
đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả? (2) Thiên nhiên là "nguyên liệu để con người
khai thác, hay là nơi sinh sống, nơi tạo ra hạnh phúc của con người mà con người phải
giữ gìn, tôn trọng?
1.2. Khoa học và công nghệ vị nhân sinh
Trong bối cảnh một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở tri thức với nguồn lực
con người có trí tuệ và kỹ năng cao là yếu tố trung tâm và là lợi thế so sánh chủ yêu thì
định hướng lớn nhất của khoa học và công nghệ phải là "Khoa học và công nghệ vị
nhân sinh".
Khoa học và công nghệ ngày nay, ngoài những khả năng to lớn hầu như không
có giới hạn trong việc đáp ứng những lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân loại, thì
cũng chứa đựng những nguy cơ và hiểm hoạ nhất là khả năng huỷ diệt toàn bộ nền văn
minh nhân loại.
Việc coi nhẹ tiến bộ xã hội, chỉ đơn thuần chạy theo lợi nhuận siêu ngạch và
tham vọng quyền lực của các tập đoàn thống trị, các công ty siêu quốc gia sẽ tạo ra
nguy cơ làm tha hoá con người, huỷ hoại môi trường sống, điều đó hoàn toàn đi ngược
lại lợi ích nhân văn lâu dài của nhân loại.
2


Phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, định hướng nhân văn của khoa học và
công nghệ phải được thể hiện rõ xét trong việc đảm bảo sáng tạo ra các công nghệ cao
có khả năng tiết kiệm tài nguyên, sử dụng tái tạo các tài nguyên, thăm dò phát hiện các
tài nguyên mới, sử dụng các phế thải công - nông nghìệp, không gây ô nhiễm môi
trường hà khắc phục những khu vực đã bị ô nhiễm. nhằm đảm bảo cuộc sinh tồn bền
vững của các thế hệ hiện tại và cả các thế hệ mai sau.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, công nghệ du nhập môn gắn liền với một
mô thức văn hoá tiêu dùng cụ thể, cũng tiêu biểu cho một trình độ nhất định về khoa
học và công nghệ và văn hoá - xã hội. Vì vậy trong quá trình tiếp nhận công nghệ phải

luôn xem xét tính phù hợp và tính định hướng văn hoá, nhằm góp phần làm thích ứng
các công nghệ nhập một cách hiệu quả, đồng thời tạo lập được năng lực nội sinh của
quốc gia về công nghệ.
Con người cần khôn ngoan hơn, có một nhãn quan rộng lớn hơn về mục đích
cuộc sống, sử đụng thành tựu khoa học và công nghệ một cách hợp lý. Không nên ứng
xử kiểu "người không lồ một mắt", "người hiện đại mà dã man (với thiên nhiên,
muông thú)". Mọi kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ nếu không dựa trên nền
tảng văn hoá sẽ có khả năng mất thăng bằng dẫn đến hiệu quả giảm sút, vì chúng mang
tính ngoại lai, không quan tâm đến sự tham gia của cộng đồng dân chúng, đến truyền
thống, đến sự hoàn thiện của dân tộc. Có định hướng văn hoá khoa học và công nghệ
sẽ được phát triển dựa trên những nguồn lực nội sinh. Sự phát triển nội sinh được thể
hiện trong các mặt kinh tế, xã hội. công nghệ và văn hoá, nó bao hàm 02 điều kiện cơ
ỉan, đó là: (1) được nảy sinh từ bên trong; và (2) hướng vào con người.
1.3. Hướng tới một xã hộihọc tập thường xuyên thích nghi và đa dạng hoá
Do tác động sâu rộng của khoa học và công nghệ, trong bối cảnh một thế giới
bùng nổ thông tin và cạnh tranh để phát triển, lượng tri thức hàng ngày tăng lên gấp
bội. Nhiều thay đổi đang diễn ra, từ khái niệm đến phương châm hoạt động, từ phương
thức tư duy, ra quyết định đến phương thức học tập. Trong khi đó, thời gian vật chất
của con người lại giới hạn. Mỗi cá nhân muốn tồn tại và phát triển, phải học tập
thường xuyên và thích nghi cao độ với những biến động. Vi vậy, xã hội mới phải
hướng tới học tập thường xuyên, trong đó nền giáo dục phải là một hệ thống mở, đa
dạng, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại.
Tính mở, đa dạng và tính linh hoạt của giáo dục được thể hiện ở phương thức tổ
chức, ở phạm vi và quy mô, ở quan điểm, chương trình giảng dạy, và ở cách định
hướng, gợi mở tư duy cho người học. Tính tiên tiến và hiện đại được thể hiện ở mức
độ thường xuyên cập nhật tri thức trong nội dung giảng dạy, đào tạo lại và nâng cao
trình độ cho đội ngũ giáo viên, hiện đại hoá các phương pháp giảng dạy phương tiện
và ngôn ngữ truyền đạt kiến thức, trong xu thế hình thành chương trình giáo dục toàn
cầu. Tính đa dạng còn thể hiện ở chỗ: vấn đề giáo dục không chỉ còn là một lưu tâm
của gia đình, của Nhà nước, nó còn là mối quan tâm lớn và trực tiếp của mỗi cá thể và

3


đặc biệt trà của các các doanh nghiệp sử dụng lao động
1.4. Nguồn nhân lực có khả năng sáng tạo với định hướng nhân văn
Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp giáo dục - đào tạo và
được thể hiện trong các nội dung chủ yếu sau: (1) Đảm bảo kiến thức nền tảng tối
thiểu cần thiết; (2) Tạo ra những phương pháp từ duy tổng quát hệ thống, có thể áp
dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau; (3) Cung cấp cho người học những khả năng lao
động sáng tạo với định hướng nhân văn; (4) Cung cấp cho người học những khả năng
thích nghi cao với những biến động; khả năng đổi mới tư duy; khả hăng độc lập ra
quyết định với tầm nhìn mang tính chiến lược.
Ngày nay, các quốc gia đều tiến hành xây dựng chiến lược phát triển dựa trên cơ
sở huy động tối da năng lực nội sinh, tạo được những khả năng cảm nhận (yếu tố tri
thức, trí tuệ) và khả năng phản ứng thích nghi (yếu tố cơ cấu và tổ chức xã hội với môi
trường toàn cầu hóa đầy biến động. Như vậy, tiều lực khoa học và công nghệ và
nguồm nhân lực được đào tạo có tri thức sẽ là thế mạnh không gì thay thế được góp
phần quyết đinh tạo dựng sức mạnh tổng hợp và năng lực cạnh tranh của quốc gia
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Do đó, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực khoa
học và công nghệ, cũng như cho giáo dục - đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với việc
đảm bảo khả năng cạnh tranh của một nước.
Bài học từ các nền kinh tế thành công đã khẳng định là: trong thời đại ngày nay,
nguồn lực trí tuệ, nhất là trong nghiên cứu phát minh sáng tạo trong quản lý xã hội, và
trong quản lý doanh nghiệp, cùng với năng lực và bản lĩnh đổi mới phương thức tư
duy, là những yếu tố quan trọng bậc nhất nhằm nâng cao vị thế kỉnh tế và chính trị của
quốc gia trên trường quốc tế.
2. Thách thức và kỳ vọng đối với giáo dục ở thế kỷ XXI
1.1. Một số thách thức đối với nhà trường
Toàn cầu hoá, đây là vấn đề đắng nổi lên và liên quan đến toàn bộ hành tinh.
Toàn cầu hóa, bên cạnh những lợi ích to lớn về phát triển kinh tế, có thể làm nảy sinh

những mặt trái. Toàn cầu hoá có thể nuôi dưỡng quá trình chia rẽ, dẫn đến các xung
đột. Ở thế kỷ XXI nhà trường có nhiệm vụ chuẩn bị cho học sinh sống trong một thế
giới quốc tế hoá, trong sự biến động và hiểu biết giữa các nền văn hoá, nhưng cũng
phải rất nhạy cảm đề phòng các nguy cơ do chủ nghĩa cá nhân gây nên và chủ nghĩa
một quốc gia không biên giới.
Ngoài ra, cũng xuất hiện một thách thức khác, liên quan đến công nghệ truyền
thông. Sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật truyền hình, trò chơi điện từ và mternet đã
làm đảo lộn quan niệm của chúng ta về không gian và thời gian, đan chéo giữa thực và
ảo. Chúng ta có thể quan sát thấy sự hình thành một nền văn minh mới, không bình
thường - văn minh ảo. Rất nhiều thanh thiếu niên đã không phân biệt được giữa phóng
sự với phim viễn tưởng. Liên lạc tức thì bằng Internet đã thăng các biên giới và
4


khoảng cách. Truyền thông tức thời đã làm nảy sinh một hướng phổ cập mới về thời
hạn ngắn. Thông tin được truyền đi đồng thời với tri thức mới. Nhà trường phái đồng
thời biết khai thác thường xuyên các công nghệ này và dạy học sinh sử dụng, đồng
thời phải tìm ra những điểm cốt yếu của công nghệ mới trong lĩnh vực truyền thống.
Thách thức tiếp theo liên quan đến hố ngăn cách (sự bất bình đẳng) giữa các
nước giàu và nghèo ngày càng gia tăng. Nhà trường còn chuẩn bị cho học sinh có hiểu
biết về cạnh tranh kinh tế, phát triển tinh thần sáng tạo và khuyến khích ý thức hợp tác
và tương trợ. Dây chuyền có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của mọi xã hội trong
thế kỷ XXI là: kiến thức – thành thạo công việc –sáng tạo kiến thức - thuyền bá/phổ
biến kiến thức.
2.2. Cần giáo dục phong cách làm việc theo “kíp”
Phương pháp sư phạm truyền thống hiện nay thích hợp với xã hội ổn định, xã hội
ở trạng thái tĩnh, phát triển chậm chạp. Do vậy phải thoát ra khỏi lôgic rất riêng của
nhà trường và cần chuẩn bị cho học sinh làm việc và học tập theo nhóm, theo ê kíp.
Phần lớn các phàn nàn từ phía chủ doanh nghiệp hiện nay không liên quan đến việc
thiếu kiến thức, mà liên quan đến thái độ/hành vi thực hiện công việc. Nhà trường cần

giáo dục cho học sinh có thái độ làm việc cẩn thận, tôn trọng thời hạn hoàn thành,
chuyên cần, có lương tâm nghề nghiệp, tự trọng, cải tiến công việc, nghe và tôn trọng
người khác, có khả năng thích ứng với tình huống, có ý thức tự lực. Đó là những phẩm
chất cao, mà thực tế sự đòi hỏi và cũng là mục tiêu mà nhà trường cần vươn tới. Điều
muốn nhấn mạnh ở đây là làm việc theo ê kíp sẽ là yêu cầu quan trọng, vì nó có ưu thế
đối với tương lai. Trong những năm tôi dây, các nước phát triển đều sẽ có các dự án về
giáo dục, học tập và giảng dạy theo ê kíp.
3. Một số kiến nghị về giáo dục hiện đại ở nước ta
3.1. Xây dựng động lực cho phát triển đất nước
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, cần tạo lập những thang giá trị mới của xã hội,
thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đó là: tôn vinh trí tuệ
và tinh thần doanh nghiệp; phát huy cao độ năng lực, tiền của, trí tuệ và tinh thần yêu
nước, ý chí đồng thuận của mọi tầng lớp, mọi cộng đồng người Việt trong nước và ở
nước ngoài, phục vụ công cuộc chấn hưng quốc gia, không phân biệt sở hữu, tầng lớp,
chủng tộc… tất cả cùng hướng vào mục tiêu "dân giàu, nước mạnh", sớm sánh vai với
các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Những động lực mới sẽ tạo nên một năng lực xã
hội mạnh mẽ, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, mà các
tầng lớp sau đây phải gánh vác nghĩa vụ trụ cột, đó là: các nhà chính trị - lãnh dao; các
nhà doanh nghiệp; tầng lớp trí thức; đội ngũ công chức; và đông đảo người lao động
lành nghề.
3.2. Thúc đẩy năng lực tạo ra trí thức từ một nền giáo dục hiện đại
Vai trò quan trọng được tổng kết trong ba điều kiện sau đây để một quốc gia hội
5


nhập vào kinh tế tri thức ở thế kỷ XXI:
* Phải xây dựng được một tư duy, đặc biệt là tư duy quản lý kinh tế - xã hội luôn
đổi mới;
* Phải xây dựng được một nền giáo dục hiện đại, lành mạnh và tiên tiến;
* Phải có kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng thông tin - truyền thông rộng khắp

và tiên tiến.
"Một yếu tố mang tính quyết định, và quan trọng nhất là năng lực tạo ra tri thức.
Đây cũng là một khâu còn yếu kém ở nước ta. Hệ thống giáo dục - đào tạo và nghiên
cứu khoa học và công nghệ vẫn chưa tìm được những giải pháp thoả đáng và một bộ
máy đủ năng lực và bản lĩnh để thực hiện những đổi mới và cải cách cần thiết".
3.3. Những quyết định cần có sự tham dự của người dân địa phương
Kinh tế, dưới góc độ văn hóa - xã hội, không chỉ đơn thuần là năng suất thu nhập
đảm bảo đời sống vật chất; không chỉ là kinh tế “tự cung tự cấp” hay “kinh tế hàng
hóa” mà nó còn là biểu hiện về nhận thức, tư duy của cộng đồng trong điều kiện môi
trường sinh thái tự nhiên với những hành động ứng xử thông qua tập quán nếp sống,
tỉn ngưỡng.
Chẳng hạn, Chính sách định canh, định cư với những mục đích tốt đẹp, nhưng
trong nhiều trường hợp do chưa quan tâm đến khía cạnh văn hoá, truyền thống của
cộng đồng dân tộc thiểu số, đã bộc lộ một số mặt hạn chế, tác động tiêu cực đến phát
triển. Chẳng hạn về mặt sinh thái đã làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống người dân
H'mông, từ phương thức làn nương rẫy chuyển sang làm lúa nước, họ không kế thừa
được tri thức, kinh nghiệm sản xuất truyền thống và khả năng thích ứng với môi
trường vùng cao đã được tích luỹ lâu đời. Khai thác vùng đất mới với kỹ thuật mới
người H'mông đầy bỡ ngỡ và gặp nhiều khó khăn trong kỹ thuật canh tác ruộng nước
do đó họ lại tiếp tục phá rừng, làm nương rẫy ở những nơi mới định cư.
Vì vậy cần khuyến khích sự tham dự nhiều hơn của dân chúng vào các chương
trình và dự án. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy rằng những nỗ lực phát triển mà
không tham khảo và lôi kéo người thụ hưởng địa phương tham gia thì khả năng thất
bại cao hơn, hoặc thiếu tính bền vững. Tính tham dự được coi là một yếu tố cơ bản để
dự án thành công vì nó giúp người dân chuyển mình từ vị trí người thụ hưởng đơn
thuần sang vị trí là đối tác tích cực trong quá trình phát triển của cộng đồng.
4. Suy ngẫm về khích lệ sáng tạo và dinh dưỡng tài năng
Qua những bài học thành công của các quốc gia, có thể thấy rằng: một yếu tố
quan trọng, cần thiết trong cơ cếê chính sách nềăm phát triển kinh tế tri thức là có một
nề giáo dục khích lệ tư duy sáng tạo, dinh dưỡng tài năng. Trong những thập kỷ gần

đây, một số quốc gia châu Á đã có những thành công nổi bật về khía cạnh này. Tuy
nhiên đối với các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nước ta, trong bối cảnh của
6


nền kinh tế chuyển đổi và đang đứng trước rất nhiều khó khăn thách thức, thì những
khuyến cáo sau dây rất đáng suy nghĩ trong quá trình xây dựng cơ chế phát triển kinh
tế trí thức và nền giao dục hiện đại cho thế kỷ XXI:
"Châu Á đánh giá thấp tầm quan trọng của óc sáng tạo và tất nhiên phải trả giá.
Hơn 1.000 năm trước đây, khi châu Âu còn đắm chìm trong đen tối thì nền văn minh
Trung Hoa ở đời Đường đã vươn tới tột đỉnh. Khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, triết học,
y khoa của Trung hoa đã từng một thời phát triển ở mức hàng đầu thế giới. Nhưng thời
hoàng kim đã không còn nữa. Tại Trung Hoa, những trường đại học, nơi nuôi dưỡng
và phát triển sức sáng tạo, đã từ lâu không còn được trợ cấp đầy đủ và bị xem là nơi
của những kẻ chỉ thích phát biểu theo tư duy riêng. Tuy vậy một niềm tinvào nền giáo
dục phương Tây vẫn khiến các viên chức Chính phủ đưa con cái mình đi du học tại các
trường đại học trên thế giới (kiểu Stanfords), với mong muốn ở những nơi đó bọn trẻ
sẽ thu thập được những tri thức mới.
Như vậy đó, chân Á vẫn thừa nhận sự tiến bộ trong nền giáo dục phương Tây,
nhưng họ phủ nhận một nét đặc biệt nhất trong cách giáo dục của phương Tây: đó là
lòng khoan dung với những cá tính dị biệt và sự khuyến khích khả năng sáng tạo độc
lập trong mỗi con người. Bởi chính sự dị biệt và khả năng sáng tạo độc lộp của từng
cá thể mới đem tới sự thịnh vượng trí tuệ cho từng xã hội, từng quốc gia. Nếu thiếu
vắng sự phục hưng trí tuệ thì châu Á sẽ còn tiếp tục thất thoát chất xám cho phương.
Tây” (Ronhie Chan, Chủ tịch Hội châu Á Hồng Kông, Newsweek, 4-2001).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tầm nhìn Việt Nam - 2020, Chuyên đề phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ 2001 - 2020, Hà Nội, 2000.
2. Ngô Thế Tùng: Kinh thế tri thức - Xu thế mới của xã hội thể kỉ XXI, Nxb. Bắc
Kinh, 1997.

3. Đặng Ngọc Dinh. Kinh tế trí thức và công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại
hoá đất nướcđến năm 2020, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2000.
4. Chiến lược giáo dục quốc gia đến năm 2010, Nxh. Giáo dục, Hà Nội, 2002.
5. Phan Đình Diêu: Khoa học và Tổ quốc. Nxb 2001
II. XU THẾ BIẾN ĐỔI GIÁO DỤC TRONG THẾ KỶ XXI
1. Triển vọng của các môn học ở thế kỷ 21
Những thay đổi nhanh chóng ngày nay khiến các nhà giáo dục phải thừa nhận
một thực tế là các kiến thức văn hoá cổ kim đông tây có lẽ ít nhiều đã lỗi thời. Những
kiến thức ửô phải dùng đến hàng chồng sách để chú thích, những đề toán số học hắc
búa, mà sau khi ra trường lại suốt đời không cần dùng đến, đang làm hao tổn một cách
7


vô ích tỉnh lực và nhiệt tình của lớp học sinh trẻ tuổi. Đứng trước sức ép của tương lai,
các học sinh được quyền có những kỹ năng và quan niệm sinh tồn trong sự biến đổi
của lịch sử, và được quyền có nhu cầu thủ tiêu những bức tranh chân thực của các xã
hội tương lai. Việc thiết lập những môn học mới mẻ, có đầy đủ những quan niệm về
tương lai, và những thực tiễn giảng dạy tương quan phải được ứng dụng vào cuộc
sống, giúp học sinh thích ứng với xã hội thực tại và hướng về tương lai
Các môn học “thế kỉ 21” đã được đưa ra. Khôpmen đã dự đoán trong quyển
‘Tương lai của ngành giáo dục” sáu nội dung chính của các môn học ở thế kỉ 2 1 :
1. Tiếp cận và sử dụng tin học
2: Bồi dưỡng tư tư duy mạch lạc: bao gồm phân biệt được ngữ nghĩa học, lôgic
học, số học, soạn thảo trên máy tính, phương pháp dự đoán, tính sáng tạo tư duy.
3. Bồi dưỡng những kỹ năng thông đại hiệu qủa: bao gồm diễn thuyết trước
đông người, ngữ pháp, tu từ, hội hoạ, nhiếp ảnh, quay phim, vẽ đổ án v.v... ~
4. Tìm hiểu con người và môi trường sống: gồm các môn vật lý, hoá lý, hoá học,
thiên văn học, địa chất và địa lý học, tiến hoá luận, dân số v.v...
5. Tìm hiểu con người và xã hội: gồm luật tiến hoá của nhân loại, sinh lý học,
ngôn ngữ học, văn hoá nhân loại học, tâm lý học xã hội, chủng tộc học, pháp luật, hình

thái biến đổi ngành nghề, vấn đề tồn tại và tiếp diễn của loài người v v..
6. Năng lức cá nhân: gồm sự cân bằng sinh lý, huấn luyện mưu sinh và tự vệ, an
toàn, dinh dưỡng, vệ sinh, giới tính, tiêu dùng và tài sản của cấ nhân, phương thức học
tập tối ưu và sách lược, nghệ thuột nhớ, động cơ tự thân và nhận thức tự thân v.v…
Bảng liệt kê môn học của Khôpmen tuy rất rộng, nhưng lại là nội dung giáo dục
hoàn chỉnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc bố trí các môn học này là nhằm chú
trọng hơn đến vai trò và địa vị con người trong xã hội; và năng lực thích ứng vớí tương
lai.
Càc môn học "Thế kỷ 21" được bắt đầu mở ra ở toàn nước Mỹ, được sự hoan
nghênh mạnh mẽ của quảng đại thày trò. Trường tiểu học Miep, Alintơn ở Bang
Viêcginia thiết kế môn "Kế hoạch tương lai", làm cho học sinh làm quen với sự phát
triển của tương lai và dự kiến sự lựa chọn ngành nghề. Giáo sư địa lý học Aplô của
trường đại quan tâm.
Có thể khái quát một số nguyên tắc của các môn học thế kỷ 21 :
1. Giúp cho học sinh thích nghi với xã hội.
2. Giúp cho học sinh tự lý giải.
3. Giúp cho học sinh vị thành niên lý giải sự đầu tư của mình đối với tương lai.
4. Giúp học sinh tìm hiểu phương hướng có tính biến đổi của xã hội và định vai
trò của mình trong quá trình biến đổi đó.
8


5. Giúp học sinh mang những điều học tập ở nhà trường, chuyển hoá thành trách
nhiệm tương lai.
Môn học "Thế kỷ 21" không mang hội dung giáo dục truyền thống. Thày giáo và
các nhà nghiên cứu dự đoán và đánh giá thành tích cũng như năng lực của học sinh
dựa trên chất lượng tham gia học tập và công tác của học sinh chứ không phải ở trí thớ
của họ bởi lẽ, những trí nhớ vô dụng không phải là sự hiểu biết của họ.
Các môn học “Thế kỷ 21” dẫn dắt học sinh tìm ra lĩnh vực rộng lớn mà nền giáo
dục truyền thống rất ít đề cập đến, ví như lý thuyết trò chơi, chọn quyết định trong điều

kiện không xác định, phân tích giá trị, phân tính nội dung, điều khiển học v.v... Tuy
hình thức biểu hiện chủ đề của môn học “Thế kỷ 21 " có sự khác nhau trong cải cách
giáo dục của các nước, nhưng về bản chất, lại đều có tính chất chung của nó. Nói
chung, các học giả về tương lại đều thích phương pháp “học tập trong thao tác thực
tế”. Nội dung của môn học không còn là hệ thống kiên thức ổn định và bất biến, tuyệt
đối khách quan nữa; mục liêu của môn học cũng không còn hoàn toàn như dự định
trước, mà đã trở thành quá trình thày trò cùng tìm tòi kiến thức mới.
Có thế thấy trước, việc cải cách giáo dục của các nước được triển khai với chủ đề
các môn học "thế kỷ 21" sẽ phá vỡ những tập tục cũ của nền giáo dục truyền thống,
làm cho lớp học được mở rộng; các thày giáo từ chỗ giảng dạy, hành nghề theo truyền
thống, trở thành người hợp tác để làm cho học sinh tiến vào xã hội tương lai, cuối cùng
sẽ chuẩn bị học sinh đóng trọn vai trò của mình đối với tương lai, tích cực hướng vào
mục tiêu lớn ngày một lành mạnh - nỗ lực xây dựng một tương lai tươi đẹp và hợp lý.
2. Kỹ thuật giảng dạy đa phương tiện mới mẻ
Kỹ thuật đa phương tiện (Munỉmedia) là loại kỹ thuật đang được chú ý nhất, đó
là cơ sở quản lý và xử lý theo kiểu tin học thế kỉ 21. Trước đây, máy tỉnh chỉ có thể xử
lý đơn cực là văn tự và chữ số, cùng lắm là hình họa, gây cảm giác đơn điệu, cứng
nhắc, khô khan, dễ nhàm chán. Kỹ thuật đa phương tiện là xử lý tổng hợp kiểu trao đổi
trên máy vi tính cả về chữ viết, hình họa, hình ảnh, câm thanh v.v... chúng thiết lập
mốí liên kết lôgíc, tập hợp thành một hệ thống. Lợì dụng kỹ thuật đa phương tiện để
giở "thư mục" điện tử, dùng ngón tay chỉ vào bất cứ vị trí nào trên màn hình dều có thể
tìm ra những tình tiết lý thú; sờ tay vào bầu trời; vào tầng mây sẽ chui ra một chiếc
máy bay: chạm tay vào vòm cây, một con chim nhỏ sẽ rẽ lá bay ra. Xem kịch truyền
hình, nếu không thích thú, ta có thể thay đổi tình huống kịch, để các diễn viên biểu
diễn theo ý muốn của ta. Học phát âm một từ tiếng Anh, nếu phát âm đúng, máy tính
sẽ khích lệ ta, nếu đọc sai. máy tính sẽ nhắc nhở ta và bảo ta phải sửa âm.
Theo đà phát triển của kỹ thuật đa phương tiện, tuột hình thức giảng dạy mới
được hình thành - sự xuất hiện của hệ thống giảng dạy máy tính đa phương tiện. Nó là
thang máy tính mà thày giáo giảng qua máy chủ và các học sinh nghe giảng qua mạng
máy tính. Thày giáo nói với học sinh qua một máy chủ diều khiển đến từng máy trong

9


mạng học sinh ngồi nghe thày giáo giảng trước màn hình máy tính. Trong cách giảng
dạy đa phương tiện, học sinh học tập với tự cách là chủ thể.
Kỹ thuật đa phương tiện sẽ làng thay đổi rất lớn giáo trình và giáo án. Giáo trình
không chỉ vẻn ven là những cuốn sách in, mà còn là loại sách giáo khoa điện tử có đủ
cả chữ nghĩa, hình ảnh và tiếng lưu .
Kỹ thuật đa phương tiện sẽ làm cho hình thức giảng dậy sống động, các biện
pháp giảng dạy càng đa dạng hoá.
Kỹ thuật đa phương tiện ủng hộ các phương thức học tập khác nhau, biến sự tiếp
thu thụ động thông tin thành chủ động tiếp thu thông tin, kích thích tính sáng tạo của
học sinh.
Mạng máy tính đa phương tiện càng thuận lợi cho việc thực luật giáo dục từ xa,
các học sinh ở vùng biên giới cũng có thể nghe được, nhìn được, các nhà khoa học nổi
tiếng ở các thành phố lớn. Kỹ thuật đa thương tiện có khả năng biến việc giảng dạy ở
lớp làm chính thành lấy việc giảng dạy tại gia làm chính, và việc tiếp tục giảng dạy
toàn toàn có thể hướng về gia đình. Theo dự đoán của các chuyên gia, sau khi xa lộ
thông tin xây dựng xong, thông qua việc giảng day từ xa theo kiểu trao đổi giữầnhi
phía, thời gian học tập của học sinh có thể giảm 40% so với trước, nhưng kiến thức thu
nhận được sẽ tăng 30%, chi phí cũng tiết kiệm được 30%.
Có thể dự kiến, theo đà mỗi ngày một hoàn thiện mau lẹ của kỹ thuật thông tin và
kỹ thuật máy tính, trong tương lai không xa, phạm vi sử dụng kỹ thuật đa phương tiện
sẽ càng ngày càng mở rộng.
3. Các công ty đại học mọc lên ồ ạt
Đứng trước những yêu cầu nảy sinh của xã hoọi đang thay đổi từng ngày, giáo
dục không chỉ là niềm hứng thú tao nhã - một sự thụ hưởng văn hoá, mà nó còn là
công cụ quan trọng tạo ra lợi nhuận cho xã hội và bồi dưỡng những nhân tài mới cho
xã hội. Những chuyển biến ưhay đổi quan điểm này, ấp ủ và làm nẩy nở trong lòng nó
một biến đổi kinh ngạc trong nền giáo dục Âu - Mỹ ở những năm 90 - Trường đạihọc

trở thành công ty. Sự biến đổi này thể hiện dấu ấn nào đó của việc cải cách giáo dục
đại học trong giai đoạn giao thời thế kỷ.
Năm 1969 , Trường đại học Cambridge có cả 700 năm lịch sử đã đầi tiên bước
vào con đường “Công ty đại học”. Đại học Cambridgẹ đã dành một khoảng đất của
mình xây dưng vườn khoa học Cambridge. Cambridge đã tập kết đa số công ty kỹ
thuật và các ngành nghề của nó, bao gồm phần cứng và phần mềm máy tính, các máy
móc khoa học điện tử, kỹ thuật sinh vật v.v... đồng thời lắp đặt các loại thiết bị có thể
sử dung chung. Vì một loạt công ty kỹ thuật này có đủ năng lực nghiên cứu và chế tạo,
thiết kế, sản xuất những sản phẩm chất lượng cao, nên các công ty này đã làm cho tỷ lệ
lợi tức của vườn khoa học Cambridge tăng vụt lên. Cambridge đã thể hiện rõ cho
Chính phủ và thế giới biết: Trường đại học có thể đóng góp công sức cho sự phát triển
10


xã hội, có thể cung cấp cho xã hội những nhân tài hàng đầu, có thể cung cấp cho ngành
giáo dục kinh nghiệm đầu tiên về cải cách phương thức giảng dạy, về học đi đôi với
hành, tăng cường giáo dục ít chiều sâu. Sự liên kết giữa trường đại học với công ty có
thể sáng tạo ra những sản phẩm kỹ thuật phong phú và hùng hậu, tạo ra hàng loạt nhân
tài và những kinh nghiệm giảng dạy phong phú.
Ngày nay, các nước đều đang lập các vườn khoa học, các khu công nghiệp xung
quanh trường đại học, trường đại học liên kết với các xí nghiệp ngày một nhiều, và trở
thành một khối; Công ty đại học đang trở thành xu thế phát triển tất yếu, tạo thời cơ
phát triển cho trường đại học và xí nghiệp.
Quan sát một cách tổng thể việc sáng lậu ra các công ty đại học những năm gần
đây ở Mỹ và một số nước châu Âu về đại thể có những đặc điểm sau:
1. Dùng phương thức thị trường để thu hút sinh viên, mời các học giả nổi tiếng
đến dạy.
2. Công ty hoá trường đại học tức là có thể làm cho việc giảng dạy và nghiên cứu
khoa học trực tiếp hướng về sản xuất, về quản lý kinh doanh, có thề làm gia tăng thu
nhập tài chính, và nhân đó, không ngừng cải thiện điều kiện xây dựng trường, nâng

cao địa vị của nhà trường.
3. Công ty hoá trường đại học làm cho mối quan hệ giữa xí nghiệp và giáo dục
ngày càng mật thiết, trường đại học và xí nghiệp tương hỗ, tương lợi, bình đẳng về lợi
ích trên phương tiện dịch vụ kỹ thuật, do vậy mà tăng cường hợp tác giữ hai bên.
Do những ưu điểm dễ thấy như vậy, các "Công ty đại học" đang mọc lên như
nấm, từ trước Mỹ đến châu Âu, nổi tiếng tới toàn thế giới. Những công ty đại học với
những hình thức khác nhau và sự ra đời của xí nghiệp hoá trường đại học, báo trước xu
thế quan trọng của sự phát triển giáo dục.
4. Xu thế toàn dân học tập suốt đời phát triển mạnh
Năm 1972, ủy ban quốc tế đưa ra bản báo cáo có lên gọi là "Sự tồn tại của học
hội: Giáo dục thế gỉới hôm nay và ngày mai”, báo cáo này đã chính thức xác nhận
bằng văn bản lý luận giáo dục suốt đời do Cục truởng Cục tổ chức giáo dục suốt đời
Paolô Langơ đưa ra giữa những năm 60. Hai mươi năm nay, quan niệm giáo dục suốt
đời dần dần thâm nhập sâu vào lòng người. Nguyên tắc giáo dục suốt đời được thế giới
tiếp thu một cách phổ biến.
Mục tiêu giáo dục suốt đời tiến hành ở các nước đã chỉ ra xu thế chung: Việc
giáo dục sau này nên tuỳ theo thời điểm, nhu cầu của mỗi cá nhân, dùng phương pháp
có hiệu quả nhất, cung cấp cho họ những kiến thức và kỹ năng thiết yếu. Nó vạch ra
phương hướng chung của giáo dục trong tương lai, với ý nghĩa là đưa giáo dục vào cả
đời người, biến việc học tập thành quá trình không ngừng nâng cao năng lực. Trong xã
hội tương lai khoa học phát triển cao độ và xã hội biến đổi dữ đội, con người cần được
11


bồi dưỡng những năng lực thích ứng với những biến đổi đó, cần có ý thức về tương lai,
cần có năng lực suy nghĩ và lý giải tương lai, những năng lực ấy có được lời tuỳ thuộc
vào tính liên tục và tính kịp thời của giáo dục; tuỳ thuộc vào đặc trưng cơ bản của việc
thúc đẩy và cấu thành tương lai của giáo dục; tính chất suốt đời.
Xã hội truyền thống chia đời người thành 3 giai đoạn: đến trường, làm việc và
nghỉ hưu. Nền giáo dục truyền thống cho rằng số kiến thức và kỹ năng học được ở

trường lúc còn trẻ về cơ bản có thể dùng cho suốt đời. Thế nhưng theo đà phát triể
mạnh mẽ và nhanh chóng của KHKT, chế độ giáo dục truyền thống này đã bộc lộ rõ
rằng những thiếu sót của nó. Một cuộc điều tra khoá học sinh tốt nghiệp năm 1970 ở
Mỹ đã chứng tỏ rằng đến năm 1980, kiến thức của họ đã hao mòn mất 50%; đến năm
1986 thì số kiến thức này đã lão hoá hoàn toàn. Nước ta cũng đã có cuộc điều tra đối
với số học sinh thuộc bộ nôn khoa học nhất định năm 1965, kết quả chứng tỏ, đến năm
1970, kiến thức của họ đã lạc hậu 45%, đến năm 1975, tỷ lệ này lên tới 75%. Mặc dù
phương pháp tính toán sự mòn cũ của kiến thức có khác nhau, nhưng ngày nay, sự
bùng nổ về kiến thức thông tin học nhiều đến mức không nghiên cứu kỹ được, thì khối
lượng kiến thức được ứng dụng của một nhân viên KHKT chỉ có khoảng 20% kiến
thức học được ở trường học truyền thống; 80% số kiến thức còn trống là do nhu cầu
công việc và đời sống mà không học được, đó là một sự thực rất rõ ràng. Dựa vào
điểm đó, các nước phát triển nhấn mạnh việc tăng cường giáo dục tại chức, tích cực
thực hiện giáo dục suốt đời. Theo thực tiễn của nhiều quốc gia Âu - Mỹ, thì việc giáo
dục suốt đời sẽ dược tiến hành rộng rãi trong phạm vi toàn cầu trong tương lai, không
chỉ bao gồm việc gỉáo dục ở trường truyền thống trước tuổi đi làm - mà còn mở rộng
giáo dục vỡ lòng về trí tuệ cho các em trước khi đi học với giáo dục tiểu học được tăng
cường thêm một bước. Ngoài ra, còn tiếp tục giáo dục sau trung học, saụ đại học, bổ
sung kiến thức và bồi dưỡng tạì chức kỹ năng kỹ thuật cho các thạc sĩ, tiến sĩ, thực
hiện giáo dục tại chức và giáo dục cho người già. Ở một số nước, thậm chí còn có cả
giáo dục về cái chết trước khi chết, các quan tâm đến tuổi sắp về thế giới bên kia và sự
chuẩn bị về tâm lý cho người già.
Về mặt thời gian, giáo dục sẽ kéo dài suốt đời người, về mặt không giam. giáo
dục sẽ mở rộng đến toàn xã hội. Điều đó không những chỉ hàm chứa ý nghĩa là trong
xã hội tương lai, mỗi người đều tiếp thu giáo dục và học tập bất cứ lúc nào và ở đâu
mà còn hàm chứa ý nghĩa mỗi người trong xã hội tương lai đều học tập qua việc tham
dự những hoạt động xã hội, và cả xã hội tương lai sẽ gánh vác chức năng giáo dục.
Việc thúc đẩy toàn dân giáo dục suốt đời đòi hỏi luật pháp bảo đảm mỗi người
không phân chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo tín ngưỡng đều có quyền bình đẳng
có cơ hội học nghề thành công. "Sự bình đẳng có cơ hội học nghề thành công" tức là

mỗi người đều có thể được giáo dục thích đáng, đều có thể đạt tới chuẩn mực giáo dục
khiến họ vừa lòng. Ngày nay. người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một mục
tiêu trọng yếu của dân cầu hoá giáo dục. Mặc dù mục tiêu này không thể thực hiện tức
12


thời, song người ta vẫn không mất lòng tỉn, và đang cố gắng đấu tranh với sự thất học
về nghề nghiệp.
5. Làn sóng tư doanh hoá trường công
Mở đầu những năm 90 ở một số thành phố Mỹ xuất hiện làn sóng tư doanh hoá
trường công, hướng cải cách này đã gây ra sự chú ý lớn và sự phản ứng mạnh mẽ trên
toàn cầu. Tuy nhiên nhiều quốc gia phát triển đã học tập làm theo và đang có những
tác dụng đáng kể.
Sự xuất hiện của làn sóng tư doanh hoá trường công có nguyên nhân sâu xa về
lịch sử và hiện thực.
Lấy trường công làm cơ cấu giáo dục là thể hiện sự dân chủ, là thực hiện sự bình
đẳng dân tộc và sự đồng đều về cơ hội kinh tế, luôn luôn được coi là liều "thuốc vạn
năng" và được chấp nhận, nhất là trong giai đoạn phồn vinh của những năm 60. Song
bất đầu từ những năm 70, nguy cơ chính trị và kinh tế xã hội buộc người ta phải nhìn
nhận lại chức năng về hiệu quả của các trường công. Kết quả điều tra phát hiện ra rằng
trường công không phải là vạn năng chúng không phải luôn luôn đào tạo ra những học
sinh thích ứng với yêu cầu của quốc tế và trong nước.
Một số trường tư, ở nức độ nhất định đòi chi phí ít hơn trường công. Mặc dù
trường tư có một số đặc tính khác như mở rộng mâu thuẫn chủng tộc và tôn gúao, phân
cácht giàu nghèo rõ ràng, song xét về ý nghĩa giáo dục, một số trường tư mới thực sự
là trường học, những học sinh được đào tạo ở đây mới là những học sinh chân chính.
Tư doanh hoá trường công đại thể được phân thành một số hình thức cơ bản:
* Công ty nhận kinh doanh. Cách làm đó bắt đầu từ năm 1992 đã trở thành cuộc
thí điểm bước đầu. Thành phố Bantỉmore mang 9 trường công giao cho công ty giáo
dục (EAI) kinh doanh, Công ty đảm nhận làm sạch trường lớp, đồng thời nâng cao

thành tích dạy học không khống chế việc bổ nhiệm thày giáo và trả lương cho giáo
viên rộng rãi.
* Ngoài việc các trường công do các công ty bao thầu kinh doanh ra, mấy năm
gần đây ở Mỹ còn xuất hiện chế độ cho phép cá nhân mở trường và quản lý trường
công. Đó có thể là trường mới xây dựng và cũng có thể là trường công sẵn có. Quyền
pháp nhân độc 1ập được luật pháp bảo hộ.
Mặc dầu mô típ tư doanh hoá trường công là muôn hình, muôn vẻ, song chúng có
nhiều điểm chung: 1-bất luận là mô típ nào, đều là sự tuyên chiến với chế độ trường
công hiện hành: 2-cơ sở lý luận của nó đều bắt nguồn từ lý luận tư hữu hoá. 3-Mục
đích cuối cùng của nó đều thực hiện giảm chi, tăng thành quả, nâng cao chất lượng
giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh có nhiều nãng lực cạnh tranh giành được sự tán đồng
và ủng hộ của công chúng.
Tuy nhiên, dù điều hành theo phương thức công ty tư nhân, trường học không thể
13


dành cho thương nhân quản lý. Trường học không thể biến thành một "cửa hàng"
thuần tuý điều đó được quyết định bởi bản chất nhà trường là nơi giáo dục con người.
Về chuyện đó, Hội trưởng Hội Giáo dục toàn nước Mỹ, Kiơn Gaigơ nhận thức rất tỉnh
táo, ông nói: "Biến nhà trường thành thực thể doanh lợi, thành thực thể kinh tế thuần
tuý, thì không thể thu được thành tựu vè giảng dạy". Đấy là khuynh hướng cần phải
tránh trong khi phát triển tư doanh hoá trường công.

14


III. TƯ TƯỞNG CHIẾN LƯỢC CHUNG CỦA THẾ GIỚI
VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
1. Về tuyên ngôn của Hội nghị quốc tế lần thứ hai về giáo dục, tổ chức tại
Washington D.C từ 25 đến 29/12/1998

* Tại Hội nghị này các nhận định cơ bản được tập trung vào các vấn đề sau:
+ Nền kinh tế thế giới đang ở trong quá trình toàn cầu hoá. Quá trình này làm
cho trách nhiệm đầu tư của Chính phủ và các thành phần nhà nước đối với các dịch vụ
xã hội giảm đi và nhà nước không còn chịu hầu hết các trách nhiệm đảm bảo các
quyền lợi của người làm việc và gia đình họ.
+ Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhằm làm
giảm bớt đến mức tối đa vai trò của Chính phủ và các thành phần nhà trước, đặc biệt
trong các lĩnh vực giáo dục và y tế. Điều này làm tăng cường các cơ hội cạnh tranh của
các cá nhân.
+ Quá trình toàn cầu hoá kinh tế đang làm thay đổi một cách cơ bản nội dung và
phương thức tuyển mộ lao động. Việc sử dụng các công nghệ ngày càng phát triển đòi
hỏi các nội dung và phương thức đào tạo tiến bộ lực lượng lao động nếu muốn họ thực
sự có thể tham gia vào các thị trường lao động một cách thuận lợi.
* Hội nghị quốc tế về giáo dục lần thứ hai đã xem xét các vấn đề sau:
Giáo dục đào tạo và phát triển kinh tế ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau. Các
nền kinh tế đòi hỏi cần được sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, với sự đào tạo có
thể đáp ứng quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế, ngược lại Giáo dục lại cần đến các
nguồn tài chính cung cấp bởi các nền kinh tế ngày càng phát triển.
+ Giác dục đã và sẽ tiếp tục đảm nhận vai trò quan trọng trong việc đào tạo nên
các công dân có đủ khả năng tham dự vào các hoạt động trong các xã hội đang ngày
càng trở nên phức tạp hơn, đa văn hoá với tư tưởng dân chủ, công bằng xã hội, đoàn
kết và hoà bình. Bởi vậy, Giáo dục hoàn toàn không chỉ phục vụ mục đích lợi nhuận
kinh tế.
* Dựa trên những nhận định cơ bản như vậy, hội nghị Quốc tế lần thứ hai về
Giáo dục đã nêu lên các khuyến nghị với các Chính phủ và các tổ chức trên thế giới về
những tư tưởng chiến lược cơ bản cần giáo dục đào tạo trong những thập kỉ tới. Các
khuyến nghị tập trung vào các ý tưởng cơ bản sau:
1. Các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần lưu ý tới xu hướng toàn cầu hoá của
nền kinh tế và ảnh hưởng của nó tới việc đào tạo và sử dụng các nguồn nhân lực. Mối
quan hệ giữa xu hướng phát triển kinh tế và giáo dục đã dẫn tới những thay đổi về bản

chất và nội dung giáo dục đào tạo thế hệ trẻ.
2. Các thảo luận cần thiết để xây dựng các kiến thức và sự hiểu biết, vấn đề hết
15


sức quan trọng đối với hoạt động của giáo viên, phải là những vấn đề cần được quan
tâm hàng đầu của các tổ chức và công đoàn giáo dục.
3. Các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần có các hoạt động tích cực để đảm
bảo phổ cập và miễn phí giáo dục phổ thông cơ sở đó là quyền lợi của người lao động.
4. Các Chính phủ và các tổ chức quốc tế cần phối hợp trong việc thiết lập các cơ
quan hoặc cá nhân ở mỗi nước để tạo nên một mạng lưới nhằm cùng nhau thảo luận và
xây dựng các điều kiện cần thiết cho giáo dục và lao động.
5. Cải cách giác dục với những thay đổi cơ bản về hội dung và phương thức giáo
dục đào tạo phải được đặt ra ở các quốc gia để đáp ứng các nhu cầu của cá nhân và xã
hội trong những thay đổi lớn lao của thời đại.
6. Các Chính phủ cần xem xét với các điều kiện cụ thể của mỗi nước xác lập các
điều chỉnh cần thiết về các chính sách về thuế nhằm mục tiêu có thể tăng mức đầu tư
cho giáo dục ít nhất là 6% tổng thu nhập quốc nội (GNP).
2. Diễn đàn về Giáo dục quốc tế của các nước thuộc khối APEC
Tại diễn đàn về các vấn đề toàn cầu hoá với chủ đề “Quyền của trẻ em đối với
giáo dục phổ thông phổ cập và miễn phí” năm 1998, các khuyến nghị cơ bản đã được
nêu ra đối với các Chính phủ thuộc các nước APEC (Asia Pacific Economic
Cooperation):
Ở thế kỉ 21 vấn đề kiến thức phải được đặt ra như là ưu tiên hàng đầu trong các
chiến lược phát triển của một quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là giáo dục,
phải là trọng điểm ưu tiên của các chính sách phát triển quốc gia nhằm tạo điều kiện
cho mỗi cá nhân được tiếp nhận các đào tạo cần thiết chuẩn bị cho việc tham gia vào
cuộc sống.
- Giáo dục phổ thông là công cụ chủ chốt cho tự do, hoà bình, tiến bộ và công lý.
- Mỗi trẻ em cần được học và thành tích học tập của trẻ em phải là quyền lợi và

sự đóng góp của mỗi con người chứ không phải do hoàn cảnh gia đình của chúng
quyết định.
Diễn đàn APEC bày tỏ sự lo ngại trước nguy cơ các Chính phủ cắt giảm các phân
bổ cần thiết cho giáo dục do những khó khăn do cuộc khủng hoảng về kinh tế trong
khu vực gây ra. Diễn đàn khuyến nghị các Chính phủ nên coi gương một số Chính
phủ, trong đó có Malayxia, mặc dù chịu những tổn hại nặng nề do khủng hoảng kinh tế
gây ra, vẫn cam kết một cách mạnh mẽ duy trì các phân bổ tài chính cần thiết cho giáo
dục, và có nghĩa là cho tương lai của các quốc gia đó.
Diễn đàn APEC nêu lên một số khuyến nghị cơ bản sau đối với các Chính phủ
của các nước thuộc khối:
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục hoặc cho các quốc gia đang phải đối mặt với
16


nhiều khó khăn do khung hoảng kinh tế gây ra.
- Tăng cường các hoạt động hợp tác chặt chẽ với các tổ chức giáo viên để xây
dựng các chính sách phù hợp với xu thế toàn cầu hoá.
- Xây dựng các chiến lược cụ thể để đảm bảo công nghệ thông tin có thể được
tiếp cận và phổ cập với tất cả mọi trẻ em trong khi vẫn tiếp tục đảm bảo duy trì các
truyền thống văn hoá và công nghệ của thời kì quá độ.
- Xây dựng và ban hành các điều luật cụ thể chống lại việc lạm dụng lao động trẻ
em, chống lại việc một số cá nhân và tổ chức đã bóc lột sức lao động của trẻ em và
ngăn cản quyền lợi học lập của trẻ em.
- Thực hiện các cam kết mang tính chiến lược sâu để đảm bảo giáo dục cho tất cả
mọi người và chấm dứt tình trạng lạm dụng lao động của trẻ em:
+ Phản đối các chính sách kinh tế, xã hội nhằm tạo ra việc lạm dụng lao động
của trẻ em.
+ Xây dựng và ban hành các văn bản luật cần thiết và có hiệu quả.
+ Xây dựng các chính sách giáo dục cụ thể của Chính phủ và tạo ra các nguồn
lực nhằm cung cấp giáo dục tiểu học có chất lượng, phổ cật và miễn phí, giáo dục

trung học, tăng cường các dịch vụ đặc biệt của giáo dục, cũng như giáo dục nghề và
giáo dục sau PUH.
+ Tăng cường đào tạo huấn luyện, cải thiện điều kiện làm việc của đội ngũ giáo
viên.
+ Tìm kiếm điều kiện tăng thu nhập và các cơ hội làm việc của cha mẹ.
- Các Chính phủ cần nghiên cứu lại các điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, đặc
biệt xem lại các chính sách cụ thể về thuế để có thể tìm được cơ hội đầu tư cho giáo
dục ít nhất 6% GNP. Đồng thời các quốc gia ìân cùng nhau bàn bạc, thoả thuận về
thuế đối với các giao dịch tài chính quốc tế nhằm giúp các nước nghèo đạt được chỉ
tiêu này.
- Tập trung vào các hoạt động nghiên cứu trong giáo dục và tăng cường chia xẻ
các kết quả nghiên cứu giữa các quốc gia vì lợi ích của quá trình giáo dục, của giáo
viên và của học sinh.
Diễn đàn APEC khẳng định mỗi mặt giáo dục mang tíng địa phương và dân tộc
nhưng mặt khác các nhà lãnh đạo chính phủ cần nhận thức được các thách thức đặt ra
cho giáo dục chính là thách thức đặt ra cho nền văn hoá nhân loại mà các quốc gia cần
phối hợp hoạt động để thực hiện những chính sách chung, đồng thời hỗ trợ các nước
láng giềng đạt được các chuẩn mực mong muốn về giáo dục.

17


IV. ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1. MỸ
1. Một số tình hình chung
Trung tâm quốc gia về thống kê Giáo dục (NCES, Natỉonal Centrer for
Educatỉonal Statỉstỉcs) tại Mỹ là tổ chức có chức năng thu thập phân tích và báo cáo
các số liệu có liên quan tới giáo dục của Mỹ và các nước khác. Trung tâm này có trách
nhiệm cung cấp các số liệu về các nhu cầu ưu tiên của giáo dục, đồng thời cung cấp
các chỉ số và tiêu chí chính xác, đầy đủ và đáng tỉn cậy về tình trạng và xu thế của giáo

dục.
Thg 4 năm 1997 NCES th hiện hàng loạt điều tra về giáo dục tại Mĩ và một số
nước và đa đưa ra một số nhận định quan trọng trong số các nhận định này, có một số
nhận định đáng chú ý như sau:
- Năng suất lao động của người lao động ở Mĩ đã không ngừng tăng từ sau đại
chiến thế giới lần thứ hai nhưng mức tăng năng suất lao động giảm từ sau năm 1973.
Đặc biệt mức tăng năng suất lao động ở Mĩ chậm hơn các nước phát triển khác.
- Sự phát triển của Giáo dục từ lâu đã là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự
tăng năng suất lao động. Các nước công nghiệp phát triển có mức năng suất lao động
cao đều là các nước có lực lượng lao động có trình độ giáo dục cao.
Các số liệu thống kê đồng thời cũng chỉ ra là giáo dục đã làm tăng cường tính ổn
định nghề nghiệp của người lao động ở Mĩ , cho phép những người lao động có trình
độ giáo dục tốt hơn có thể duy trì nghề nghiệp của họ là có thể dễ dàng tìm được việc
làm trong điều kiện kinh tế thay đổi. Mối quan hệ giữa giáo dục và tình trạng thất
nghiệp chính là một tiêu chí biểu thị ảnh hưởng của Giáo dục và năng suất lao động
chung.
- Hiệu suất giáo dục của Mĩ tăng trong vòng 20 năm qua, tỉ lệ thanh thiếu niên
trong độ tuổi l8-24 hoàn thành giáo dục trung học đã tăng từ 83% ở năm 1972 lên 86%
ở năm 1994. Số học sinh tốt nghiệp trung học học tiếp đại học và cao đẳng cũng tăng
lên từ 49% (1972) đến 62% (1994). Tuy nhiên rất nhiều sinh.viên đăng kí học cao học
và đại học đã không kết thúc khoá học. Năm 1994 tỉ lệ sinh viên như vậy chỉ là 27%
tức là chỉ hơn đôi chút con số ở thời điểm 20 năm trước đó.
- Mặc dù tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp cao đẳng và đại học ở Mĩ cao nơn nhiều so với
nhiều nước khác trên thế giới nhưng hiệu suất gíao dục của Mĩ tăng chậm hơn so với
các nước công nghiệp phát triển khác.
- Học sinh Mĩ thua kém học sinh nhiều nước về thành tích học Toán và khoa học
nhưng học sinh Mĩ có khã năng dẫn đầu về thành tích đọc (reading)
- Trình độ đọc viết ("Litency" - được hiểu là kĩ năng diễn đạt, kết hợp, so sánh,
đối lập các thông tin, sử dụng các tài liệu viết thông dụng) củả một tỉ lệ cơ bản lực
18



lượng lao động Mĩ rất nạn chế. Chỉ có một tỉ lệ nhỏ người lao động có trình độ đọc
viết thực sự cao.
2. Phương châm giáo dục ở thế kỉ 21 của Mĩ
* Hội đổng Phát triển Bền vững của Mĩ trực thuộc Tổng thống đã xác định vai trò
của giáo dục như là một thành tố quan trọng trong chiến 1ược dài hạn nhằm tái xây
dựng các cộng đồng và quốc gia trong thế kỉ 21. Theo cách đó nước Mĩ đặt ra phương
châm Giáo dục vì sự phát triển bền vứng (Educatio for Sustainability).
Phương châm này được hiểu như sau:
Đảm bảo cho tất cả mọi công dân Mĩ có cơ hội bình đẳng để tiếp nhận giáo dục
và học tập suốt đời, nhằm chuẩn bị cho họ các lao động có ý nghĩa, cuộc sống với chất
lượng cao và sự hiểu biết cần thiết có liên quan tới sự phát triển bền vững.
* Các tiêu chí nhằm xác định thành tựu của giáo dục vì sự phát triển bền vững
cũng được xác định như sau:
+ Cơ hội tiếp cận thông tin: Số lượng lớn người dân trong cộng đồng được trang
bị cơ hội tiếp nhận thông tin:
+ Sự phát triển các chương trình dạy học: Số lượng các chương trình, tài liệu dạy
học và cơ hội đào tạo được tăng cường nhằm dạy các nguyên tắc về sự phát triển bền
vững.
+ Các chuẩn quốc gia: Số lượng lớn hệ thống các nhà trường thực hiện dạy học
theo chuẩn quốc gia.
+ Sự tham gia của cộng đồng: Số lượng lớn các trường học và cộng đồng tham
gia vào các chương trình giáo dục suốt đời thông qua các hình thức học tập chính quy
và phi chính quy.
+ Thành tích học tập quốc gia: Thành tích học tâp của học sinh Mĩ được đánh giá
bằng các hệ thống test quốc gia.
+ Tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh, sinh viên: Tỉ lệ tăng lên của sinh viên tốt nghiệp
đại học, cao đẳng và tỉ lệ tăng của số học sinh tham dự học tại các trường cao đẳng,
dạy nghề v.v...

* Các mục tiêu cụ thể của Giáo dục vì sự phát triển bền vững nhằm thể hiện được
phương châm giáo dục vì sự phát triển bền vững: Nước Mĩ đã xác định các mục tiêu
cụ thể nhằm đạt được sự phát triển bền vững:
+ Đảm bảo nhận thức và sự biểu biết về phát triển bền vững phải có mặt trong ý
thức của tất cả mọi tầng lớp xã hội.
+ Đảm bảo có các đối thoại thường xuyên giữa các cử tri và nghị sĩ về sự phát
triển bền vững để tạo ra sự nhất trí cao.
19


+ Phát triển các kĩ năng, thái độ, động cơ và giá trị nhằm tạo ra các hành động vì
sự phát triển bền vững và tạo ra các cam kết mạnh mẽ đối với các hoạt động cá nhân
và tập thể vì một thế giới phát triển bền vững.
* Các nguyên tắc của giáo dục vì sự phát triển bền vững ở thế kỉ 21 của Mĩ.
+ Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải lôi kéo được sự tham dự của tất cả mọi
người, bao gồm các trường học, cộng đồng. Các nhà giáo dục phải vượt ra khỏi “các
bức tường của nhà trường” để lôi kéo cha mẹ học sinh, cộng đồng, các cơ quan chính
phủ vào quá trình giáo dục. Các trường cao đẳng, đại học phải hoạt động trong sự kết
hợp với các nhà trường khác và các cộng đồng nhằm thực hiện các đề tài nghiên cứu
và cung cấp các dịch vụ, giải quyết các vấn đề của cộng đồng.
+ Giáo dục vì sự phát triển bền vững cần thể hiện mối quan hệ giữa giáo dục
chính quy và phi chính quy.
+ Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải thể hiện được tính liên kết. Tính liên
kết ở dây được thể hiện ở tinh thần liên môn, sự liên kết giữa tất cả các môn học, mối
liên hệ về địa lí và văn hoá.
+ Giáo dục vì sự phát triển bền vững phái nhấn mạnh tính thực tiễn của quá trình
dạy học.
+ Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải là quá trinh học tập suốt đời đối với
mọi công dân.
3. Kế hoạch 10 điểm cụ thể của Tổng thống Mĩ về giáo dục ở thế kỉ 21

Nhằm thể hiện phương châm và các mục tiêu giáo dục của Mic , ngày 21/5/1997
Tổng thống Mĩ Clintơn đã tuyên bố kế hoạch 10 điểm cụ thể của Giáo dục Mĩ ở thế kỉ
21, kêu gọi các cha mẹ, giáo viên, học sinh, các thương gia, các nhà lãnh đạo và các
công chức Mĩ cùng hoạt động nhằm thực hiện một kế hoạch tham vọng là nước Mĩ sẽ
có được một nền giáo dục tốt nhất ở thế kỉ 21. Kế hoạch gồm các điểm tóm tắt sau:
1. Xây dựng chuẩn quốc gia nghiêm khắc và hệ thống test về tập đọc ở lớp 4 và
test Toán ở lớp 8 nhằm đảm bảo học sinh phải nắm vững các kiến thức cơ bản.
2. Đảm bảo mỗi lớp học phải có giáo viên giỏi và tận tuỵ.
3. Dạy học sinh đọc thành thạo ở cuối lớp 3.
4. Lôi cuốn cha mẹ tham gia tích cực vào giáo dục trẻ tứ trước tuổi đến trường.
5. Mở rộng các cơ hội lựa chọn trường học trong hệ thống các trường công đảm
bảo cho các bậc cha mẹ có thể chọn được trường thích hợp nhất cho con em mình.
6. Đảm bảo sự an toàn, kỉ luật, không có nạn ma tuý trong các trường học với sự
duy trì các giá trị Mĩ.
7. Hiện đại hoá các nhà trường cùng với việc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất các
20


nhà trường.
8. Mở rộng cửa các trường cao đảng và đại học cho tất cả những ai làm việc và
học tập chăm chỉ.
9. Tạo điều kiện cho tất cả mọi người có điều kiện tiếp tục phát triển học vấn và
kĩ năng cần thiết mà họ mong muốn bằng việc tăng cường các cơ hội đào tạo và huấn
luyện tại chức.
10. Thực hiện việc nối mạng internet của mọi lớp học và mọi thư viện vào năm
2000 nhằm giúp tất cả mọi học sinh được phổ cập công nghệ tin học.
2. PHÁP
Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đã nêu lên 49 nguyên tắc mới cho giáo dục, trong đó
có thể thấy rõ những tư tưởng cơ bản như: giảm nhẹ chương trình, rút ngắn giờ học đối
với học sinh trung học, theo dõi cá nhân học sinh chặt chẽ, nâng cao địa vị và chất

lượng giáo viên, gắn nhà trường với xí nghiệp… Đây là các vấn đề đang được thảo
luận hết sức rộng rãi.
Trong 49 nguyên tắc này có thể thấy rõ một số điều quan trọng sau:
1. Mục tiêu đào tạo của trường trung học: Trường trung học là nơi đàotạo các
công dân của một xã hội tương lai. Trường học phải phát triển được trong họ “óc phê
phán và ý thức cảnh giác đối với mọi hình thức gian trá và cực quyền"
2. Chương trình dạy học:
* Làm cho chương trình trong trường học trở thành khuôn mẫm. Kể cả đối với
trường tư, chương trình cũng phải được xác định tương ứng với "chính sách chung về
quy hoạch lãnh thổ và công bằng xã hội". Sự điều tiết này là cần thiết để dập tắt hiện
tượng chủ nghĩa riêng biệt đang lan rộng trong một số cơ sở trường học.
* Chương trình quốc gia phải chuẩn bị cho sự chuyên môn hoá, gắn chặt với
nghề nghiệp ở giai đoạn cuối.
* Chương trình phải mang tới cho học sinh một "nền văn hoá chung", bao gồm
sự hiểu biết về xã hội những yếu tố về pháp luật, các nguyên tắc chi phối cuộc sống ...)
và một tập hợp các kiến thức khoa học cơ bản và đồng bộ.
3. Giáo dục hướng nghiệp: Mỗi năm học một thông tin mới nhất về hướng
nghiệp sau trung học được thông báo đến trường học sinh và cha mẹ học sinh; giới
thiệu “khung đào tạo của vùng và triển vọng của việc làm" cũng như thông báo về các
địa chỉ cần thiết.
4. Giáo dục cá nhân: Chú trọng tới việc dạy học theo cá nhân. Những sự kèm cặp
cá nhân thường xuyên cho phép học sinh đang gặp những khó khăn trong một môn học
nhận được những lời khuyên, nhận được sự giúp đỡ cần thiết và kịp thời từ phía giáo
viên.
21


5. Tính liên môn: Giảm bớt tình trạng nhiều môn học bằng việc tăng cường các
môn học kết hợp.
6. Liên kết trong giáo dục: Tăng cường sự liên hệ giữa nhà trường và các xí

nghiệp. Trường trung học là nơi "tuyên truyền các sáng tạo công nghệ và cái cách
nghề nghiệp". Ngược lại, các xí nghiệp tìm được ở các nhà trường “các trung tâm
nguồn trong việc đào tạo và sáng tạo công nghệ".
7. Các trường trung học nghề: Trường trung học nghề phải thích nghi với khu
vực, việc đào tạo phải phù hợp với sơ đồ đào tạo nghề nghiệp được xác định trong kế
hoạch giáo dục của khu vực.
8. Đánh giá:
* Vẫn giữ kì thi tú tài nhưng có thay đổi và giảm nhẹ đôi chút. Nó chỉ còn là
"một kì kiểm tra bình thường cỡ quốc gia".
* Sử dụng một "Sổ học bạ mở rộng" để đánh giá chung và toàn diện năng lực và
phẩm chất của mỗi các nhân học sinh.
* Một kì hni mới ở lớp đệ nhất. Ngoài việc kiểm tra môn tiếng Pháp học sinh
phải viết 1 tài liệu nghiên cứu về 1 chủ đề tự chọn khoảng 20 trang và bảo vệ trước 1
hội đồng đánh giá.
9. Thời lượng học tập:
* Một trường trung học mở cửa hơn. Mọi học sinh đều có quyền có "một thời
gian có mặt hàng tuần là 35 giờ" tại trường, việc này cho phép học sinh có thể tìm thấy
sự giúp đỡ hay lấy tư liệu để làm bài.
* Ưu tiên cho việc đọc sách. Thời gian rỗi cần phải được dùng để “đọc các tác
phẩm bổ sung hay tạp chí”, mà mỗi môn học đòi hỏi và được phát triển khi chấm bài.
* Các giờ lên lớp. Trong giảng dạy phổ thông, học sinh chỉ còn có 28 giờ nghe
giảng; trong giảng dạy công nghệ hay chuyên ngành 30 giờ, ít nhất 20% số giờ 1ên lớp
được dùng vào các công việc làm có hướng dẫn.
* Bài tập ở trường trung học. Việc giảm số giờ nghe giảng đă dành ra từ 5 đến 9
giờ cho phép những học sinh muốn làm bài tập có sự giúp đữ của giáo viên.
* Những hoạt động ngoài nhà trường thích hợp. Những "hoạt động văn hoá xã
hội và thể thao" được tăng cường để lôi kéo học sinh vào cuộc sống tập thể.
10. Giáo viên
* Thời gian biểu của giáo viên đã được đảm bảo chuyển từ 18 xuống 15 giờ và
đối với các thạc sĩ giảm lừ 15 xuống còn 14 giờ. Nhưng họ phải đảm bảo 4 giờ có mặt

và hoạt động sư phạm trong nhà trường (đối với thạc sĩ là 3 giờ), tức là 132 giờ một
năm.
22


* Chỉ có 15 giờ lên lớp (15 giờ giảng dạy tương ứng với những giờ có mặt trước
học sinh, kể cả những công việc hướng dẫn học sinh làm bài tập hoặc thực hành không
tính đến những nhiệm vụ truyền thống như chuẩn bị bài, chấm bài và các cuộc gặp gỡ
phụ huynh học sinh).
* Tăng cường làm việc theo nhóm giáo viên để chia xẻ và học hỏi lẫn nhau.
* Làm mèm dẻo và linh hoạt việc trực của giáo viên.
* Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên: Mỗi giáo viên có quyền hưởng ít nhất 35
giờ cho việc đào tạo tiếp tục hàng năm, thực hiện ngoài giờ trực và giờ lên lớp.
* Chú trọng việc đào tạo các nhà quản lí giáo dục.
3. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA TRUNG QUỐC 1996-2000
3.1. Phương châm
3.1.1. Giáo dục hướng về hiện đại hoá
Trung Quốc nếu muốn đạt được mục tiêu chiến lược và vươn tới trình độ của các
nước phát triển hạng trung vào giữa thế kỉ sau, thì phải duy trì được lực đẩy mạnh mẽ
của tiến bộ khoa học kĩ thuật, của sự phồn vinh kinh tế và sự phát triển xã hội trong
một thời gian dài. Nhưng cơ sở vật chất của lực đẩy đó lại chịu sự quyết định của trình
độ phát triển giáo dục. Bởi vậy, trong thời kì chiến lược này, cần không ngừng tăng
nhanh tốc độ phát triển giáo dục. Chỉ có đặt giáo dục vào vị trí chiến lược ưu tiên phát
triển, không ngừng tăng tỉ trọng đầu tư cho giáo dục, không ngừng nâng cao địa vị của
giáo dục tỏng xã hội, không ngừng điều chỉnh bước đi của giáo dục theo yeu cầu của
giáo dục trong xã hội, làm cho giáo dục phát triển đồng bộ với kinh tế, gắn chặt chẽ
với kinh tế và trong điều kiện có thể được, phát triển đi trước một cách thích đáng, thì
mới có thể làm cho tiếnh trình hiện đại hoá Trung Quốc tiến lên một các thuận lợi. Bên
cạnh đó, bản thân giáo dục cũng phải không ngừng điều chỉnh cơ cấu và phương thức
phát triển nhằm cung cấp cho công cuộc xây dựng hiện đại hoá Trung Quốc và phát

triển kinh tế một nguồn trí lực đầy đủ và có hiệu quả.
3.1.2. Giáo dục hướng ra thế giới
Hiện nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đều mở cửa để hội nhập với thị
trường thế giới rộng lớn, giáo dục không thể đứng ngoài tiến trình lịch sử đó. Sự phát
triển của giáo dục các nước không những phải hài hoà, đồng bộ với sự phát triển tổng
thể của giáo dục thế giới và kinh tế thế giới. Sự phát triển của giáo dục thế giới và kinh
tế thế giới không những trực tiếp ảnh hưởng đến trình độ và phương hướng phát triển
của giáo dục và kinh tế Trung Quốc mà sự tăng tốc của tiến trình nhất thể hoá kinh tế
thế giới, sự quyết liệt không ngừng cạnh tranh quốc tế cũng dòi hỏi giáo dục Trung
Quốc trong thế kỉ 21 phải đào tạo ra nhiều nhân tài thích ứng với sự thay đổi của kinh
tế thế giới và có thể tham gia vào cuộc cạnh tranh quốc tế.

23


3.1.3. Giáo dục hướng tới tương lai
Cống hiến của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế, nhất à sự phát triển kinh tế
tương lai, to hay nhỏ, chủ yếu là do việc giáo dục và đào tạo quốc dân có thể thoả mãn
đến mức nào yêu cầu của tương lai về nhân tài. Cho nên, giáo dục cần phải quy hoạch
phát triển theo yêu cầu của tương lai.
3.1.4. Giáo dục phải phục vụ việc nâng cao tố chất của con người
3.1.5. Giáo dục phục vụ phát triển kinh tế
3.2. Mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục trung quốc
1. Đần tư cho giáo dục chiếm 80% tổng giá trị sản xuất quốc dân, tức là đạt mức
xấp xỉ 13 nghìn tỉ đồng.
2. Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm, tức là giáo dục từ 6 đến 18 tuổi (hoặc giáo
dục nghĩa vụ 15 năm, tức là bao gồm 3 năm mẫu giáo). Trong đó (tính theo giáo dục
nghĩa vụ 15 năm):
+ Trẻ em đi nhà trẻ, mẫu giáo là 110 triệu;
+ Học sinh tiểu học là 175 triệu;

+ Học sinh trung học các loại là 155 triệu.
3. Tỉ lệ vào đại học đạt trên 60%. khoảng 57.600.00 người.
4. Nghiên cứu sinh đạt 2.100.000-2.500.000 người. Hàng năm có từ 700.000800.000 người được nhận học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ.
5. Số giáo viên đạt mức 32 triệu người. Trong đó : Giáo viên mẫu giáo: 7,3 triệu;
giáo viên tiểu học: 45 triệu; giáo viên trung học: 11,92 triệu; giáo viên đại học: 3,7
triệu.
3.3. Các giai đoạn chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc
3.1.1. Giai đoạn thứ nhất (1996-2010): Đây là giai đoạn điều chỉnh từng bước tỉ
lệ giữa 3 cấp giáo dục, làm cho chúng thích ứng với sự phát triển kinh tế. Phổ cập toàn
diện giáo dục nghĩa vụ 9 năm, xoá mù chữ cho những ngươi ở độ tuổi thanh niên và
trung niên, đưa tỉ trọng người có trình độ gitáo dục đại học trong dân số lên mức của
các nước phát triển trung bình. Cải thiện khá lớn điều kiện dạy học, nâng cao chất
lượng và hiệu quả của các loại trường học các cấp.
Mục tiêu cụ thể của giai đoạn này là:
Đầu tư cho giáo dục chiếm 4% tổng giá trị quốc dân, khoảng 800 tỉ đồng.
* Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 9 nãm. Duy trì học sinh tiểu học ở mức
130 triệu, trung học cơ sở 63 triệu, tỉ 1ệ vào học trung học cơ sở đạt 95%; phổ cập giáo
dục nghĩa vụ 9 nãm ở khu vực chiếm 95% dân số.
24


* Xoá mù chữ cho thanh niên và trung niên; hạ tỉ lệ thanh niên và trung niên mù
chữ xuống khoảng 1 %, nâng tỉ lệ người lớn biết chữ lên 90%-95%, thông qua học văn
hoá và học kĩ thuật để củng cố thành quả xoá mù chữ.
* Phát triển trung học nghề nghiệp và trung học phổ thông, tăng số học sinh của
các loại trường thuộc giai đoạn trung học lên khoảng 35 triệu người, đạt tỉ lệ nhập học
trên 50%. Học sinh trung học phổ thông đạt 14 triệu người, học sinh trung học nghề
nghiệp đạt 21 triệu người.
* Phát triển thích đáng giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp ở trình độ đại
học. Tăng số sinh viên các trường đại học lên 12,6 triệu nguời, tỉ lệ nhập học đạt

khoảng 15%. Số nghiên cứu sinh đạt mức 30-35 vạn người; hàng năm trao học vị Thạc
sĩ và Tiến sĩ cho trên 10 vạn người.
3.1.2. Giai đoạn hai (2011-2030):
Giai đoạn này sẽ điều chỉnh thêm một bước tỉ lệ của ba cấp giáo dục. Từng bước
tăng tỉ trọng giáo dục đại học, phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm; trình độ và
chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông về cơ bản đạt tới hoặc tiếp cận trình độ các
nước phát triển trung bình trên thế giới. Giáo dục kĩ thuật nghề nghiệp bám sát sự phát
triển khoa học kĩ thuật tiên tiến của quốc tế. Giáo dục tại chức trở thành một hệ thống
đan xen nhiều chiều đạt tỉ lệ ngày càng lớn. Nâng cao chất lượng xoá mù chữ. Tỉ trọng
người có trình độ đại học gần bằng mức chung của các nuớc phát triển. Cải thiện cơ
bản điều kiện dạy học của các loại trường học, nâng chất lượng và hiệu quả giáo dục
lên hàng đầu của thế giới.
Mục tiêu cụ thể là:
* Đầu tư cho giáo dục cheếm 6% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 3,84
– 4,62 nghìn tỉ đồng.
* Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm. Duy trì số học sinh tiểu học ở
mức 166 triệu người; học sinh trung học khoảng 146 triệu người; tỉ lệ học sinh vào học
trung học phổ thông, trung học kĩ thuật, trung học nghề nghiệp đạt khoảng 95%; phổ
cập giáo nghĩa vụ 12 năm ở các vùng chiếm 95% dân số.
* Nâng cao chất lượng xoá mù chữ 90% -95% người lớn có năng lực giao tiếp
bằng văn tự và năng lực đọc hiểu nói chung theo yêu cầu của xã hội đương thời; củng
cố thành quả xoá mù chữ bằng các con đường học tập và ứng dụng đa dạng.
* Nhanh chóng phát triển và phát huy vai trò ngày càng quan trọng của giáo dục
tại chức; khoảng 1/10 số cán bộ tại chức sẽ được đào tạo dài hạn theo phương thức
thoát li sản xuất hoặc thoát li một nửa thời gian sản xuất; tiến nành đổi mới tri thức
bằng các hình thức khác nhau.
* Phát triển nhanh giáo dục đại học và giáo dục trên đại học (như: học viên
nghiên cứu kết hợp nghiên cứu và dạy học, học viên nghiên cứu lí luận cơ bản, v.v…)
25



×