Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Xu hướng phát triển của công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.09 KB, 11 trang )

Xu hướng phát triển của công nghệ


A. Giới thiệu chung :
Như đã tranh luận ở các phần trước, các thuê bao của mạng ISDN được
phục vụ với các dịch vụ dữ liệu số với tốc độ chậm hoặc trung bình như
tiếng nói, telex, videotext, fax và thông tin dữ liệu vì các đường dây thuê
bao kim loại đã được số hoá. Bên cạnh những dịch vụ kể trên, các thuê
bao còn yêu cầu các dịch vụ bǎng rộng như loại dịch vụ CATV, Video
phones (điện thoại có hình) hay Video conference (toạ đàm có hình ảnh).
Truyền dẫn số sử dụng cáp kim loại hiện có chỉ có thể tải được một
lượng thông tin hạn chế trong chế độ giao diện cơ bản 2B+D 144Kbps.
Thậm chí, nếu dùng phương pháp truyền dẫn 4 dây thì lượng thông tin
tối đa tải trên cáp kim loại không vượt quá 1,5 đến 2Mbps. Tuy nhiên
các dịch vụ hình (video), như mô tả trong hình 3.65 lại cần có hàng chục
Mbps đến hàng trǎm Mbps thông tin và các đường thuê bao hiện có
không thể đáp ứng được các dịch vụ này.
Kết quả là người ta cần có mạng ISDN bǎng rộng có khả nǎng xử lý các
dịch hình (video) kèm theo chức nǎng của mạng ISDN. Phương tiện
truyền dẫn có thể có cho các loại dịch vụ này bao gồm các loại cáp đồng
trục, cáp quang và các thuê bao số không dây dùng viba.

Hình 3.65. Các yêu cầu về dịch vụ thuê bao
trong tương lai và lượng thông tin
Đôi khi người ta dùng cáp đồng trục trong CATV. Tuy nhiên do giá
thành cao và do độ rộng dải tần bị hạn chế cho nên người ta không dùng
nó làm phương tiện truyền dẫn bǎng rộng. Các tuyến truyền dẫn không
dây có thể được thiết lập một cách nhanh chóng không phụ thuộc vào
địa hình của khu vực. Những đường này cũng có thể dễ dàng thích ứng
được với những thay đổi trong nhu cầu về thông tin và mật độ phân phối
của thuê bao. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều đầu tư hơn cho việc thiết lập


đường dây. Vì nhu cầu phát triển các vùng xa xôi như thị trấn vùng núi
cao, hải đảo ngày càng tǎng và công nghệ MIC (IC dùng cho viba số) đã
sẵn sàng cho thương mại hoá. Các thiết bị thu và phát không dây trở nên
gọn nhẹ và đỡ tốn kém hơn. Cũng do vậy, người ta mong muốn sử dụng
rộng rãi công nghệ cao. Tuy nhiên do các vấn đề kinh tế kỹ thuật và do
thiếu nguồn sóng nên có vẻ nó không được sử dụng rộng rãi như là một
phương tiện truyền dẫn chính trong mạng ISDN bǎng rộng. Thay vào đó
nó chỉ được dùng để hỗ trợ cho phương tiện truyền dẫn chính. Cuối cùng
cable quang có thể được sử dụng làm phương tiện truyền dẫn. Công
nghệ thông tin liên lạc quang học được dùng rộng rãi trong các hệ thống
liên lạc nội bộ cỡ nhỏ hoặc vừa, hệ thống tổng đài đường dài liên tỉnh
dung lượng lớn, hệ thống truyền dẫn quang học dưới biển vì công nghệ
đang được cải tiến và giá cáp quang đang giảm dần.
Như đã bàn luận từ trước, người ta có thể dùng chúng một cách dễ dàng
trong mạng thuê bao. Tuy nhiên cáp sợi quang học hiện nay đang còn có
những khó khǎn trong việc cung cấp nguồn nuôi cho thuê bao bằng dây
có lõi, đây là vấn đề đặc biệt nảy sinh trong mạng thuê bao. Và tất nhiên,
cáp sợi quang đắt hơn nhiều so với cáp đôi. Nhưng nó có lợi thế là hạn
chế sự mất đường truyền ở mức tối đa, hiện tượng xuyên âm đường kính
sợi dây nhỏ hơn, khả nǎng điều tiết dải tần rộng nhất sẽ làm cho phương
tiện truyền dẫn trên cáp quang trở thành một trong các phương tiện
truyền dẫn chính.
ở nhiều nước phát triển, các công trình nghiên cứu về hệ thống thuê bao
quang học đã được tiến hành. Một số công trình đang được đưa ra thử
nghiệm trên thực tế với hàng ngàn thuê bao.
B. Hệ thống thuê bao quang.
Phần dưới đây sẽ giải thích kỹ về các điểm cần xem xét khi áp dụng
công nghệ thông tin quang học với các thuê bao.
Một hệ thống thuê bao quang học sẽ được thiết lập với một giả thiết là
các đường dây thuê bao kim loại hiện có sẽ được thay thế bằng cáp

quang. Như với các cáp đang có hiện nay cáp quang bao gồm cáp ngầm,
cáp treo, cáp dây. Vì cáp quang có nhiều đặc tính khác biệt so với các
loại cáp hiện hành nên việc thiết kế các đầu nối, cách bố trí, độ dài và
lắp đặt cần phải làm thật chính xác. Điều đó có nghĩa là, (không giống
cáp đồng hiện nay) khi ghép nối hai dây cáp quang thì hiện tượng hụt đi
là không tránh khỏi. Cũng do đó, cần phải tính thêm một lượng cáp
quang dự trữ khi bố trí đường cáp quang để chuẩn bị ghép nối các đường
dây trước khi sắp xếp lại các mạng thuê bao. Các phương pháp nối cáp
hiện nay gồm ghép nối hợp nhất và phương pháp sử dụng các đấu nối.
Cách thứ nhất thường được dùng trong các tủ đấu nối đặt ngầm hoặc
treo để thực hiện các đấu nối dưới mặt đất, treo cao hoặc giữa các cáp đã
có sẵn. Cách thứ hai chủ yếu hay được áp dụng cho MDF (giá đấu dây)
ở các phòng chuyển mạch, các thiết bị đầu cuối treo và cáp thuê bao
ngoài trời. Một khi cáp quang đã được nối với các thuê bao như mô tả ở
trên, thì các thuê bao thông giao các đường cáp này, sẽ đồng thời có dịch
vụ tiếng nói và chức nǎng đảm bảo từ xa (hàng chục bps cho dịch vụ dữ
liệu tốc độ thấp) và các dịch vụ bǎng rộng gồm từ vài chục đến vài trǎm
Mbps như video. Quá trình thương mại hoá hệ thống thuê bao cáp quang
sẽ được thực hiện trong khoảng 10 đến 20 nǎm tới. Vì thế khó có thể
thiết kế một cách chính xác các loại dịch vụ mà nó sẽ cung cấp trong
tương lai. Nhìn chung, các loại dịch vụ được cung cấp thông qua ISDN

×