Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC PHẦN CƠ HỌC CHO HỌC SINH DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.56 MB, 100 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với những tình cảm chân thành và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, tác giả
xin trân trọng cảm ơn cô giáo hướng dẫn PGS.TS. Phạm Thị Phú đã định
hướng đề tài và tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Trong quá trình học tập và thực hiện luận văn, tác giả đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các đồng nghiệp, bạn bè và người
thân. Tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng đào tạo Sau đại
học, Khoa Vật lý Trường Đại học Vinh; Ban giám hiệu, Ban KHTN, Tổ bộ
môn Vật lý Trường DBĐH Dân tộc Sầm Sơn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy cô
giáo, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích tác
giả trong quá trình học tập và triển khai thực hiện đề tài.

Nghệ An, tháng 10 năm 2012

Nguyễn Thị Hương


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC......................................................................................................2
Trang..............................................................................................................2
2.3.1 Quy trình thiết kế bài học bằng việc sử dụng Bản đồ tư duy.........48
Kết luận chương 3.......................................................................................91
KẾT LUẬN..................................................................................................93
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BĐTD
DBĐH
DTTS


ĐH
HĐNT
HS
GV
PPDH
QTDH
SGK
THPT
TN
TNSP

:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:

Bản đồ tư duy
Dự bị đại học
Dân tộc thiểu số
Đại học
Hoạt động nhận thức

Học sinh
Giáo viên
Phương pháp dạy học
Quá trình dạy học
Sách giáo khoa
Trung học phổ thông
Thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục thế kỉ XXI thể hiện tư tưởng chủ đạo là lấy học thường xuyên
suốt đời làm nền móng, dựa trên các mục tiêu tổng quát của việc học là học
để biết, học để làm, học để cùng chung sống với nhau và học để làm người,
hướng tới xây dựng một xã hội học tập.
Các nghị quyết của Đảng, Luật Giáo dục đã đặt ra yêu cầu đổi mới giáo
dục Việt Nam, phát triển những giá trị nhân cách tích cực, sáng tạo, năng lực
giải quyết vấn đề cho học sinh.
Một câu hỏi rất thực tế đang đặt ra là làm thế nào để học sinh có thể
tiếp nhận và nhớ một cách đầy đủ lượng tri thức ngày càng tăng của nhân loại
nói chung và kiến thức ở nhà trường nói riêng trong khi quỹ thời gian dành
cho việc dạy và học không thay đổi. Đứng trước thực trạng hiện nay, trong
quá trình dạy học nói chung đa số giáo viên còn nặng về việc thuyết trình, chỉ
chú trọng vào việc hoàn thành bài giảng, chưa chú ý đến việc phát huy nội lực
của học sinh, cũng như định hướng cách học, cách nhớ và cách ghi chép hệ
thống cho học sinh. Trong thực tiễn giảng dạy, tôi nhận thấy trong quá trình
học tập, học sinh tỏ ra rất hứng thú và nhớ rất lâu những kiến thức khi chính
các em là người tự khám phá, tự biết hệ thống và ghi chép một cách logic.
Ngược lại, nếu bắt các em phải ghi nhớ kiến thức một cách thụ động, dồn nén

thì sẽ dẫn đến sự chán nản, ỷ lại, lười học...
Trường Dự bị Đại học Dân tộc thuộc hệ thống các trường Đại học, có
nhiệm vụ bổ túc nâng cao trình độ văn hóa cho học sinh người Dân tộc thiểu
số đã tốt nghiệp THPT thi trượt ĐH vào học. Nội dung chương trình Vật lí
trường DBĐH Dân tộc chủ yếu là ôn tập, hệ thống hóa kiến thức THPT. Có
nhiều nguyên nhân và lý do khác nhau nên kết quả học tập của đại bộ phận
HS còn yếu, HS không tích cực học tập, ỷ vào chính sách dân tộc, không phát

1


huy hết khả năng bản thân. Trong quá trình học tập, nhiều em không biết cách
học, học cái gì, học như thế nào để đạt kết quả cao nhất.
Từ những vấn đề đặt ra ở trên, người giáo viên cần phải thay đổi cách
tư duy, cách chép và cách ghi nhớ ở học sinh bằng cách tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh. Đây là một biện pháp không thể thiếu được
trong dạy học theo quan điểm “Dạy học là phát triển”. Bởi một sự gợi ý khéo
léo có tính chất gợi mở của giáo viên sẽ có tác dụng kích thích tính tự lực và
tư duy sáng tạo của học sinh, lôi kéo học sinh chủ động tham gia vào quá
trình dạy học một cách tích cực, tự giác.
Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của não bộ. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng
hợp hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh.
Bản đồ Tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau. Do đó
có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố
kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương,
mỗi phần. Điều này rất có ý nghĩa đối với HS Dân tộc thiểu số vốn tư duy chủ
yếu vào hình ảnh, tư duy trừu tượng còn nhiều hạn chế so với các đối tượng
HS khác. Do đó, tôi chọn đề tài “ NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ
DUY TRONG DẠY HỌC PHẦN CƠ HỌC CHO HỌC SINH DỰ BỊ ĐẠI

HỌC DÂN TỘC”.
2. Mục đích nghiên cứu
Hướng dẫn học sinh DBĐH Dân tộc sử dụng Bản đồ tư duy trong ôn
tập hệ thống hóa kiến thức phần Cơ học nhằm tạo hứng thú học tập, bồi
dưỡng tư duy hệ thống hóa, khái quát hóa, giúp học sinh ghi nhớ tốt từ đó
nâng cao chất lượng dạy học ở trường DBĐH Dân tộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình dạy học Vật lý ở trường DBĐH Dân tộc
- Lý thuyết về Bản đồ tư duy
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phần Cơ học thuộc chương trình Vật lí trường DBĐH Dân tộc.

2


- Vận dụng Bản đồ tư duy vào việc tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh DBĐH Dân tộc trong các bài học ôn tập và hệ thống hóa kiến thức.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu hướng dẫn học sinh DBĐH Dân tộc sử dụng Bản đồ tư duy để ôn
tập hệ thống hóa kiến thức phần Cơ học sẽ tạo được hứng thú học tập cho học
sinh, giúp học sinh ghi nhớ tốt từ đó nâng cao được chất lượng nắm vững kiến
thức của học sinh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận vấn đề phát huy tính tích cực của học sinh.
6.2. Nghiên cứu chương trình khung, chuẩn kiến thức Vật lí của HS ở
trường DBĐH Dân tộc.
6.3. Nghiên cứu lý luận về Bản đồ tư duy.
6.4. Nghiên cứu nội dung phần Cơ học
6.5. Thực trạng nhận thức và vận dụng Bản đồ tư duy vào việc thay đổi
cách ghi nhớ và ghi chép của HS trường DBĐH Dân tộc.

6.6. Thiết kế các Bản đồ tư duy điển hình phần Cơ học thuộc chương
trình Vật lí trường DBĐH Dân tộc.
6.7. Thiết kế các tiến trình dạy học với các Bản đồ tư duy đã xây dựng.
6.8. Thực nghiệm sư phạm, đánh giá kết quả nghiên cứu.
7. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra: quan sát, phỏng vấn, test
- Thực nghiệm sư phạm
- Thống kê toán học

3


8. Đóng góp của luận văn
- Góp phần hiện thực hóa việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học
Vật lí ở trường DBĐH Dân tộc.
- Đề xuất quy trình hướng dẫn HS lập Bản đồ tư duy để tổng kết bài
học, tổng kết chương, tổng kết phần.
- Xây dựng được 5 Bản đồ tư duy sử dụng cho dạy học phần Cơ học
cho HS DBĐH Dân tộc.
- Thiết kế được 3 bài học sử dụng Bản đồ tư duy trong phần Cơ học
cho dạy học ở một số bài học, tổng kết chương, tổng kết phần cho HS DBĐH
Dân tộc.
9. Cấu trúc luận văn
- Mở đầu (04 trang)
- Nội dung: Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy
học Vật lý ở trường Dự bị Đại học Dân tộc (31 trang)
Chương 2: Vận dụng Bản đồ tư duy dạy học phần Cơ học cho học sinh
Dự bị Đại học Dân tộc (40 trang)

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm (16 trang)
- Kết luận
- Phụ lục (27 trang)

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BẢN ĐỒ
TƯ DUY TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ Ở TRƯỜNG
DỰ BỊ ĐẠI HỌC DÂN TỘC

4


1.1. Tổng quan về Bản đồ tư duy
Từ trước đến nay, với phương pháp học truyền thống chúng ta đều ghi
chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng, con số hay khoa học hơn là cách
gạch đầu dòng, tóm ý. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một
nửa của bộ não – não trái, mà chưa sử dụng chức năng nào bên não phải, nơi
giúp chúng ta xử lý các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian. Hay nói
cách khác, chúng ta vẫn thường đang chỉ sử dụng 50% khả năng bộ não của
chúng ta khi ghi nhận thông tin. Với mục tiêu giúp sử dụng tối đa khả năng
của bộ não, Tony Buzan đã đưa ra Bản đồ tư duy (Mind Map) để giúp mọi
người thực hiện được mục tiêu này. Đó là lý do tại sao BĐTD được gọi là
công cụ ghi chép tối ưu.
Việc giúp HS phát triển tư duy để vận dụng vào học tập là một trong
những mục tiêu quan trọng hàng đầu của những người làm công tác giáo dục.
Mặt khác, hiện nay không chỉ phần đông HS mà cả GV đều nhận định là nội
dung chương trình Vật lí phổ thông khá nhiều và rộng vì thế việc tiếp thu và
nhớ bài của các em rất khó khăn. Nhằm hướng các em đến phương pháp học
tích cực và tự chủ, nâng cao kỹ năng trí tuệ và khả năng tư duy mạch lạc,
chúng tôi xin trình bày một công cụ học tập mới - Bản Đồ Tư Duy.
Bản đồ tư duy được phát triển vào cuối thập niên 60 (của thế kỉ 20) bởi

Tony Buzan [28] như là một cách để giúp học sinh "ghi lại bài giảng" mà chỉ
dùng các từ khóa và các hình ảnh. Các ghi chép này sẽ nhanh hơn, dễ nhớ và
dễ ôn tập hơn. Giữa thập niên 70, Peter Russell [29] đã làm việc chung với
Tony và họ đã truyền bá kỹ xảo về Mind Map cho nhiều cơ quan quốc tế cũng
như các học viện giáo dục.
1.1.1. Định nghĩa về Bản đồ tư duy
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Bản đồ tư duy như sau:

5


“Một bản đồ tâm trí là một sơ đồ được sử dụng để đại diện cho các từ,
các ý tưởng, nhiệm vụ, hoặc các mục khác liên quan đến và sắp xếp xung
quanh một từ khóa trung tâm hay ý tưởng”.
“Bản đồ tư duy là phi tuyến tính kỹ thuật cho các thông tin bản đồ bằng
cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, hình dạng và màu sắc, hữu ích để chụp hình
đầu ra của các buổi động não” [30].
“Bản đồ tư duy là một đại diện của một chủ đề hoặc đề tài trong đó các
từ khóa và ý tưởng được tổ chức đồ họa” [31].
Ở mức độ nghiên cứu của đề tài thì BĐTD được định nghĩa khái quát
như sau:
Bản đồ Tư duy (Mind Map) là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp
hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh.
BĐTD là một hình thức ghi chép sử dụng từ khóa, chữ số, màu sắc và
hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa bản đồ là một ý tưởng
hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát
triển bằng các nhánh tượng trưng cho những ý chính và đều được nối với ý
trung tâm.
Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh nhỏ nhằm nghiên cứu

chủ đề ở mức độ sâu hơn. Những nhánh nhỏ này lại tiếp tục được phân thành
nhiều nhánh nhỏ hơn, nhằm nghiên cứu vấn đề ở mức độ sâu hơn nữa. Nhờ sự
kết nối giữa các nhánh, các ý tưởng cũng có sự liên kết dựa trên mối liên hệ
của bản thân chúng, điều này khiến BĐTD có thể bao quát được các ý tưởng
trên một phạm vi sâu rộng mà một bản liệt kê ý tưởng thông thường không
thể làm được [2], [7].
Cơ chế hoạt động của
BĐTD chú trọng tới hình ảnh,

6
Hình 1.1. Cấu trúc của BĐTD


màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Vì thế, BĐTD còn là công
cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau. Do đó, có thể vận dụng
BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học,
ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi phần, và giúp cán bộ quản
lí giáo dục lập kế hoạch công tác.
1.1.2 Những ưu điểm của Bản đồ tư duy trong quá trình dạy học [8]
- Dễ nắm bắt được trọng tâm của vấn đề .
- Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ.
- Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu.
- Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả.
- Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình.
- Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên tiết
kiệm thời gian soạn giáo án, học sinh hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn.
1.1.3. Bản đồ tư duy có thể sử dụng vào những việc nào?
- Ghi nhớ chi tiết cấu trúc đối tượng hay sự kiện mà chúng chứa các mối
liên hệ phức tạp hay chồng chéo.
- Tổng kết dữ liệu.

- Hợp nhất thông tin từ các nguồn nghiên cứu khác nhau.
- Động não về một vấn đề phức tạp.
- Trình bày thông tin để chỉ ra cấu trúc của toàn bộ đối tượng.
- Ghi chép (bài giảng, phóng sự, sự kiện…).

7


1.1.4. Các ứng dụng của Bản đồ tư duy trong dạy học
Những ứng dụng của BĐTD bao gồm việc phân tích, giải quyết vấn đề,
nhớ, viết luận, quản lý và hội họp trong phạm vi cá nhân, gia đình, trong các
lĩnh vực kinh doanh, giáo dục và các lĩnh vực chuyên môn khác.
Trong giáo dục, BĐTD là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập
ở trường phổ thông, Dự bị Đại học, cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng
giúp GV và HS trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng
tạo, học tập thông qua sơ đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn
sách, bài báo, hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra
ý tưởng mới…Sau đây là một số ứng dụng cụ thể của BĐTD trong dạy học:
- Lập kế hoạch:
GV có thể dùng BĐTD lập kế hoạch giảng dạy, kế hoạch chủ nhiệm cho
một năm học, một học kỳ, một tháng hay kế hoạch cho một tuần cụ thể.
Dùng BĐTD lập kế hoạch năm học giúp GV và HS có cái nhìn tổng quát
về chương trình học cũng như các chương trình hoạt động ngoài giờ khác như
văn nghệ, thể thao, dã ngoại, các hội thi phải tham gia…
Lập kế hoạch là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất để quản lý thời
gian hiệu quả. BĐTD về một kế hoạch cụ thể nếu được tổ chức, sắp xếp khoa
học thì không những sẽ giúp cho GV và HS có cái nhìn tổng quan về những
việc đã, đang và sẽ làm mà còn rất thuận tiện khi muốn bổ sung một công việc
mới mà không cần phải xóa bỏ cả bản đồ [3], [7].


8


Hình 1.2. BĐTD kế hoạch giảng dạy
- Thảo luận nhóm:
BĐTD chính là một bức tranh tổng thể về chủ đề đang hướng tới để mỗi
cá nhân có thể hiểu được bức tranh đó, nắm bắt được diễn biến của quá trình
tư duy theo nhóm đang diễn ra đến đâu, đang ở nhánh nào của BĐTD và
tổng quan toàn bộ kết quả của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết kiệm thời
gian làm việc trong nhóm do các thành viên không mất thời gian giải thích ý
tưởng của mình thuộc ý lớn nào. Trong quá trình thảo luận nhóm có rất
nhiều ý kiến trong khi đó mỗi người luôn giữ chính kiến của mình, không
hướng vào mục tiêu đã đề ra dẫn đến không rút ra được kết luận cuối cùng.
Sử dụng BĐTD sẽ khắc phục được những hạn chế đó bởi BĐTD tạo nên sự
đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào một vấn
đề chung cần giải quyết, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề.
BĐTD còn tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân và cân bằng trong tập thể.

9


Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng BĐTD của cả
nhóm. Các thành viên tôn trọng ý kiến của nhau và các ý kiến đều được thể
hiện trên BĐTD [11], [32].
Trong thảo luận nhóm, BĐTD là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả bởi
nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên đều rèn
luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học. Sử
dụng BĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ
ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần
nhìn vào BĐTD, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được

nội dung bài học [11], [35].
Các nhánh chính của BĐTD đưa ra cấu trúc tổng thể giúp các thành
viên định hướng tư duy một cách logic. Bên cạnh đó, các nhánh phụ kích
thích tính sáng tạo đồng thời hiểu được tư duy cũng như sự tích cực của mỗi
thành viên [11], [32], [35].

Hình 1.3. BĐTD điều khiển hoạt động nhóm

10


Như vậy sử dụng BĐTD trong thảo luận nhóm đã phát huy được tính
sáng tạo, tối đa hoá khả năng của mỗi cá nhân đồng thời kết hợp sức mạnh cá
nhân thành sức mạnh tập thể để có thể giải quyết được các vấn đề một cách
hiệu quả. BĐTD tạo cho mỗi thành viên cơ hội được giao lưu học hỏi và phát
triển chính mình một cách hoàn thiện hơn [11].
- Ghi chép, tóm tắt, hệ thống hóa nội dung bài học, đưa ra các ý tưởng:
Trong phạm vi cá nhân, HS có thể sử dụng BĐTD để học bài mới hay
ghi chép, tóm tắt, hệ thống hóa nội dung bài học.
Mục đích hàng đầu của ghi chép là ôn lại thông tin nhằm tăng cường khả
năng ghi nhớ. Những bài ghi chép chỉ là những từ và cụm từ không cần thiết
sẽ khiến cho quá trình ôn lại rất khó khăn, ngoài ra HS ít có cơ hội bổ sung
những liên tưởng và cách sắp xếp của chính mình. Những bài ghi chép này có
rất ít mối liên hệ với vốn kiến thức hiện có của HS và do đó, chúng dễ dàng
mất đi hoặc bị lãng quên.
Lập BĐTD là hình thức ghi chép hiệu quả hơn rất nhiều. Kỹ thuật ghi
chép này cho phép HS nhanh chóng ghi lại các ý tưởng bằng các từ khóa,
sắp xếp một cách cơ bản thông tin khi nó được truyền tải và cho HS cơ
hội để hình thành những mối liên hệ và liên tưởng. HS cũng có thể tham
gia vào bài học bằng cách bổ sung những suy nghĩ, quan điểm và cảm

nghĩ của chính mình.
Khi sử dụng BĐTD để học bài mới hay ghi chép, điều quan trọng là chỉ
nên dùng các từ khóa. BĐTD tự động loại bỏ những từ không quan trọng và
đưa ra sự sắp xếp sơ bộ thông tin được tiếp nhận. Để rút ra các từ then chốt,
HS cần phải chú ý và tham gia vào bài học, qua đó nắm được nội dung cơ bản
của bài học, tăng khả năng hiểu bài và ghi nhớ của HS.

11


Hình 1.4. BĐTD hệ thống hóa kiến thức bài học
Như vậy, ưu điểm của BĐTD là đem đến cho HS những lợi ích cụ thể
trong quá trình học tập: nắm được những nội dung cơ bản của bài học, hệ
thống nội dung kiến thức và biểu thị bằng bản đồ, ghi nhớ nội dung học tập
một cách sâu sắc, rèn luyện kỹ năng lập dàn bài khi đọc SGK. Có thể sẽ gặp
khó khăn lúc đầu khi tập cho HS xây dựng BĐTD, nhưng chỉ là lúc đầu. Khi
đã thành thói quen, HS sẽ rất thích thú sử dụng trong học tập và hình thành
thói quen làm việc sau này, từ việc nắm vững vấn đề, biểu thị bằng bản đồ
vận hành các biện pháp giải quyết. BĐTD càng có tác dụng nếu HS sử dụng
cho những bài ôn tập, tổng kết chương.
Tóm lại, việc sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học sẽ mang
lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của HS và
phương pháp giảng dạy của GV. HS sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính
chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. GV sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự
linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp HS nắm được kiến thức
thông qua một BĐTD thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức.
1.2. Khả năng hỗ trợ của Bản đồ tư duy đổi mới phương pháp dạy học
Vật lí
12



1.2.1. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học Vật lí
Bản chất của quá trình dạy học là quá trình tổ chức các hoạt động nhận
thức cho HS. Trong QTDH, có hai hoạt động, hoạt động dạy của thầy và hoạt
động học của trò. GV là chủ thể của hoạt động dạy, HS là chủ thể của hoạt
động học. Người thầy đóng vai trò là người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn HS tự
tìm kiếm tri thức, dạy HS phương pháp học; tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt
động học, thể chế hóa kiến thức còn HS luôn chủ động, tự giác, tích cực, sáng
tạo để chiếm lĩnh tri thức, ý thức được nhiệm vụ cần giải quyết, tự tìm tòi
nghiên cứu, trao đổi tranh luận trong quá trình giải quyết nhiệm vụ GV giao.
Trong từng đơn vị kiến thức, PPDH phải thể hiện rõ từng hoạt động cụ
thể của GV và HS.
Tư tưởng cơ bản của đổi mới PPDH nói chung cũng như đổi mới
PPDH vật lý nói riêng là phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của HS; bồi dưỡng PP tự học; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS; đưa
HS vào vị trí chủ thể của quá trình nhận thức.
Việc đổi mới PPDH đòi hỏi phải thực hiện chức năng mới của GV và
HS, khác với kiểu dạy học truyền thống. Điều này phải được thể hiện ở tất cả
các khâu: thiết kế bài học, tiến hành dạy bài học đã thiết kế và kiểm tra đánh
giá kết quả học tập của HS.
1.2.2. Bản đồ tư duy hỗ trợ học tập tích cực, hiệu quả
BĐTD biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết của một đối tượng bằng hình ảnh
hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan hệ tương hỗ giữa các
khái niệm có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau bên trong của một
vấn đề lớn. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng
BĐTD, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình vẽ, trong đó các

13



đối tượng liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách biểu diễn như vậy,
các dữ liệu được ghi nhớ và hấp thụ dễ dàng và nhanh chóng hơn.
- BĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương
pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học
mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ
nhưng vẫn học kém, nhất là môn Vật lý, các em này thường học bài nào biết
bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức
với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau.
Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự
ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử
dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng
tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
- BĐTD hỗ trợ HS lĩnh hội kiến thức tích cực và hiệu quả: Một số kết
quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm
cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy
việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm
năng của bộ não.
- BĐTD giúp HS ghi chép có hệ thống: Do đặc điểm của BĐTD nên
người thiết kế BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để
“ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic. Vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần
dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
- BĐTD giúp HS rèn luyện tư duy khái quát hóa, hệ thống hóa theo
thiên hướng cá nhân: BĐTD có ưu điểm là phát huy tối khả năng tư duy của
HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu
sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự
“sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức
của từng HS và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng
“tác phẩm” của mình.


14


1.2.3. Các bước xây dựng một Bản đồ tư duy trong dạy và học
Trước hết, hãy tin rằng bất cứ ai cũng có thể tạo ra và sử dụng BĐTD.
Bạn chỉ cần cầm bút vẽ, viết vấn đề cần suy nghĩ ở giữa ở giấy (có thể thêm
hình ảnh nào đó mà bạn thấy phù hợp). Tiếp đến, bạn hãy suy nghĩ thật thoải
mái, cứ có một ý nghĩ nảy ra, bạn lại vẽ một nhánh đi từ trung tâm ra. Và cứ
như vậy, hãy viết, vẽ, tưởng tượng không hạn chế, không cần chú ý đến trình
tự, cũng không, cần quan tâm xem một ý nào đó đã đầy đủ chưa (vì bạn có thể
bổ sung bất cứ lúc nào mà chẳng sợ thiếu giấy). Để có một BĐTD hiệu quả,
bạn nên thực hiện các bước sau đây:
Xác định rõ mục tiêu và tập trung vào nội dung bài học cụ thể (các từ
khóa của bài học).
Bước 1: Vẽ chủ đề chính ở trung tâm
Để vẽ chủ đề chính ở trung tâm, trước hết HS phải xác định được nội
dung kiến thức trọng tâm của bài học hoặc một phần của bài học. Sau đó, HS
thể hiện nội dung chủ đề ở chính giữa tờ giấy đặt nằm ngang bằng hình ảnh
hoặc từ khóa. Sử dụng các yếu tố: kích thước, màu sắc…để làm nổi bật nội
dung của chủ đề chính.
Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ
Nội dung của các tiêu đề phụ là nội dung kiến thức cơ bản của một bài
học hoặc một đơn vị kiến thức nào đó của bài học. Những nội dung kiến thức
này sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung của chủ đề chính ở trung tâm. HS vẽ
thêm các tiêu đề phụ bằng hình ảnh hoặc chữ in hoa xung quanh hình ảnh
trung tâm, lưu ý cách bố trí và sử dụng màu sắc.

Bước 3: Trong từng tiêu đề phụ, vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ.

15



Sau khi vẽ các tiêu đề phụ, HS xác định những nội dung kiến thức hỗ
trợ cho nội dung của các tiêu đề phụ đó rồi tiến hành vẽ thêm các ý chính
và các chi tiết hỗ trợ. Trong khi vẽ, HS cũng chỉ nên tận dụng các từ khóa
và hình ảnh. Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc
riêng trên nhánh.
Bước 4: Hoàn thiện Bản đồ tư duy
HS có thể thêm nhiều hình ảnh và sử dụng màu sắc giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật, bổ sung các liên kết cần thiết để hoàn thiện BĐTD [8].
1.2.4. Chuẩn bị xây dựng Bản đồ tư duy tổ chức HĐNT cho HS
Ngoài các bước xây dựng một BĐTD vừa nêu ở phần trên, trong việc
tổ chức HĐNT cho HS cần chuẩn bị như sau:
- Đối với giáo viên:
Chuẩn bị các phiếu học tập có ghi các từ khóa

+

sao cho phù hợp nhất với từng nhóm bài.
Vẽ BĐTD hệ thống các nhóm bài trên máy

+

tính và trên giấy để tiện cho việc hướng dẫn, đối chiếu với BĐTD của các
nhóm HS.
+

Phân nhóm: 4 hoặc 8 học sinh/nhóm.

+


Phần hướng dẫn các bước tiến hành vẽ một
BĐTD.

- Đối với nhóm học sinh:
Chuẩn bị giấy A4, bút chì màu, các mẫu giấy

+
nhỏ, bút dạ quang.

Cần nắm vững nội dung kiến thức của nhóm

+
bài đã học.

1.3. Ứng dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Vật lý
Trong dạy học Vật lý, ngoài các ứng dụng nêu trên, BĐTD còn được ứng

16


dụng vào phân tích, giải quyết vấn đề trong dạy học những kiến thức Vật lý
cơ bản, bài tập Vật lý và thí nghiệm Vật lý, tóm tắt nội dung kiến thức theo đề
cương, theo chương, theo đoạn văn hoặc theo loại kiến thức Vật lý.
Trong quá trình chuyển hóa một nội dung Vật lý nào đó thành BĐTD
đòi hỏi HS phải đào sâu suy nghĩ, tìm tòi đồng thời phải sử dụng các thao
tác tư duy như phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng, khái quát hóa…
Chính vì vậy, việc sử dụng BĐTD trong dạy học là một trong những biện
pháp để rèn luyện cho HS kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các thao tác tư duy và
biện pháp logic.

Khi tiến hành lập BĐTD từ một nội dung dạy học ở sách giáo khoa, HS
luôn tự đặt câu hỏi: Ở đây nói về vấn đề gì? Vấn đề đó đề cập đến những khía
cạnh nào? Trong những khía cạnh đó, khía cạnh nào là chủ yếu, bản chất? Vì
vậy, HS sẽ có được kỹ năng tách ra được nội dung bản chất từ tài liệu đọc
được, tìm được những nội dung kiến thức cơ bản, trọng tâm để lập BĐTD.
Ngoài ra, khi xây dựng BĐTD cho cả một bài học, HS cần tách ra các ý chính
sau đó thiết lập mối quan hệ giữa chúng và trên cơ sở chia nhỏ bài đọc, lựa
chọn đề mục cho từng phần nhỏ. Quan hệ giữa các phần nhỏ và phần lớn hơn
là quan hệ giữa toàn thể với bộ phận như là giống với loài, giữa cái chung với
cái riêng…Chính những việc làm này giúp HS có kỹ năng lập dàn bài khi đọc
SGK, kỹ năng tóm tắt tài liệu đọc được thành BĐTD [11].
Khi HS gia công trí tuệ chuyển hóa nội dung bài học thành BĐTD, HS
sẽ hiểu bài một cách sâu sắc, chắc chắn. Sử dụng BĐTD vừa giúp HS chiếm
lĩnh được tri thức, vừa có được phương pháp tái tạo kiến thức cho bản thân,
vừa phát huy được năng lực tự học và năng lực tư duy sáng tạo của HS trong
dạy học.

17


Quá trình hướng dẫn HS xây dựng BĐTD giúp GV thu được mối liên hệ
ngược, phát hiện kịp thời những sai sót của HS để điều chỉnh tối ưu quá trình
dạy học.

1.3.1. Bản đồ tư duy trong bài học xây dựng kiến thức mới
Sử dụng BĐTD phân tích, giải quyết vấn đề trong bài học xây dựng kiến
thức mới các khái niệm, định luật, thuyết Vật lý:
Trong dạy học kiến thức mới các khái niệm, định luật, thuyết vật lý, GV
có thể tổ chức cho HS lập BĐTD để phát hiện vấn đề nghiên cứu, phân tích,
đưa ra các ý tưởng và giải pháp để giải quyết vấn đề, từ đó hình thành và chiếm

lĩnh tri thức.
Ví dụ: Trong dạy học bài “Rơi tự do”, sau khi cho HS quan sát hoặc tiến
hành thí nghiệm về sự rơi của hai vật bất kỳ trong không khí, GV yêu cầu HS
đưa ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến chuyển động rơi của vật.
HS lập BĐTD và đưa ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến chuyển động rơi
của vật trong không khí (phát hiện vấn đề nghiên cứu)

Hình 1.5. BĐTD nguyên nhân ảnh hưởng đến chuyển động rơi của vật

18


Trên cơ sở các nguyên nhân đã nêu, HS phân tích, đưa ra các ý tưởng,
giải pháp để giải quyết vấn đề: lập BĐTD đề xuất phương án và tiến hành thí
nghiệm kiểm tra, từ đó hình thành và chiếm lĩnh tri thức.

Hình 1.6. BĐTD phương án thí nghiệm kiểm tra nguyên nhân ảnh hưởng đến
chuyển động rơi của vật
1.3.2. Bản đồ tư duy trong bài học giải bài tập Vật lí
Mục đích chính của việc dạy và học là làm cho HS hiểu sâu hơn những
kiến thức đã học, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức vào việc giải
bài tập cũng như vào thực tiễn đời sống, sản xuất.
Việc luyện giải bài tập Vật lý cũng có nhiều dạng và nhiều cấp độ khác
nhau. Trong mỗi dạng như vậy BĐTD cũng ít nhiều góp phần hoàn tất công
việc một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Dạng 1: học sinh nhớ lại những kiến thức cơ bản mới học cần luyện
tập, phát biểu chính xác những định nghĩa, định luật, viết các công thức, vẽ
đồ thị, chỉ rõ ý nghĩa của các thuật ngữ, các ký hiệu mới. Trong quá trình
này học sinh sử dụng BĐTD gợi nhớ lại kiến thức mới đã được xây dựng từ
bài học.

Dạng 2: GV đưa ra một số bài tập tương tự như bài tập đã giải mẫu khi
nghiên cứu kiến thức mới. Trong những bài tập này, chỉ vận dụng trực tiếp
một, hoặc hai kiến thức mới học. Tuy yêu cầu đơn giản nhưng khi HS sử

19


dụng BĐTD vẫn giúp học sinh định hướng tốt hơn nên thực hiện trình tự công
việc như thế nào là hợp lý nhất, đầy đủ nhất.
Dạng 3: GV đưa ra bài tập phức tạp hơn trong đó hiện tượng xảy ra
nhiều giai đoạn liên tiếp, mỗi giai đoạn tuân theo một định luật, một quy tắc
đã biết. Trong dạng bài tập này sử dụng BĐTD giúp HS nhận biết được các
dấu hiệu đặc trưng cho mỗi giai đoạn là có thể tìm được lời giải.
Dạng 4: GV đưa ra bài tập khó hơn, đòi hỏi sự sáng tạo của HS. Đó là
những bài tập đề cập đến những hiện tượng bị chi phối bởi nhiều nguyên
nhân, chịu tác động đồng thời của nhiều định luật, quy tắc. Trong dạng bài tập
này, HS cần thiết phải sử dụng BĐTD, thiết lập mạng lưới, liên kết dữ kiện
của đề bài nhằm có được cái nhìn tổng quan và các suy nghĩ được tổ chức sẽ
lần lượt đi theo các hướng xác định, các ý tưởng sẽ gợi mở xem xét và đi đến
lời giải chính xác, tối ưu nhất.
Cấu trúc bài học luyện tập giải bài tập Vật Lí theo định hướng sử dụng BĐTD:
- Củng cố kiến thức, công thức quan trọng (đơn vị, ý nghĩa của các đại
lượng) công thức suy ra, các công thức có liên quan.
- Các dạng bài tập thường gặp và cách giải.
- Dạng bài tập nâng cao, cách giải.
- Chú ý quan trọng.
Trong dạy học giải bài tập Vật lý, GV tổ chức cho HS lập BĐTD để đưa
ra các phương án giải một dạng bài tập hoặc một bài tập cụ thể nào đó.
Ví dụ: HS lập BĐTD xác định phương pháp giải bài toán xác định lực
bằng các đại lượng động học và ngược lại:


20


Hình 1.7. BĐTD phương pháp giải bài toán xác định lực bằng các đại lượng
động học và ngược lại
1.3.3. Bản đồ tư duy trong bài học ôn tập tổng kết và hệ thống hóa
kiến thức
- Sử dụng BĐTD tóm tắt kiến thức theo đề cương
HS có thể sử dụng BĐTD để tóm tắt kiến thức dựa trên bảng mục lục
trong sách giáo khoa. Điều này giúp HS có cái nhìn tổng quan về toàn bộ nội
dung của môn học và có khái niệm về số lượng kiến thức HS phải chuẩn bị
cho kỳ thi. Trong quá trình học tập ở trường DBĐH Dân tộc, HS nên lập
BĐTD theo đề cương cho mỗi môn học.
- Sử dụng BĐTD tóm tắt kiến thức của chương
Sau khi lập BĐTD theo đề cương, HS nên lập BĐTD cho từng chương
sách riêng biệt. Đối với các chương ngắn khoảng từ 10-12 trang, có thể tập
trung tất cả các thông tin trên một trang BĐTD. Đối với những chương dài
khoảng 20 trang trở lên, có thể cần đến 2-3 trang BĐTD. Giả sử HS đang vẽ
BĐTD về chương “Động học chất điểm” có thể đánh dấu các trang BĐTD là
“Động học chất điểm 1”, “Động học chất điểm 2”…

21


Hình 1.8. BĐTD theo đề cương dành cho môn Vật lý lớp 10 nâng cao

22



Hình 1.9. BĐTD chương “Tĩnh học vật rắn”
- Sử dụng BĐTD tóm tắt nội dung kiến thức của một đoạn văn
Một cách khác là vẽ BĐTD theo từng đoạn nhỏ trong sách. Mỗi BĐTD
dùng để tóm tắt một đoạn văn hoặc một trích đoạn trong sách. BĐTD theo
đoạn văn giúp tiết kiệm thời gian ôn lại những thông tin cần thiết mà không
cần đọc lại đoạn văn đó.

Hình 1.10. BĐTD theo đoạn văn

23


×