Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 9 bằng phương pháp sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.43 MB, 35 trang )

Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
THÔNG TIN VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: Nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 9 bằng phương pháp sử dụng bản
đồ tư duy trong dạy học.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn học Ngữ Văn 9 trong nhà trường.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 20 tháng 9 năm 2011 đến ngày 28 tháng 2 năm 2014.
4. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Hằng
Năm sinh: 1979
Nơi thường trú: Yên Phong – Ý Yên –Nam Định
Trình độ chuyên môn: Cử nhân cao đẳng.
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THCS Yên Phong – Ý Yên - Nam Định.
Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Yên Phong – Ý Yên - Nam Định.
Điện thoại: 01694669855
5. Đồng tác giả: Không
Họ và tên:
Năm sinh:
Nơi thường trú:
Trình độ chuyên môn:
Chức vụ công tác:
Nơi làm việc:
Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại:
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Yên Phong – Ý Yên - Nam Định.
Địa chỉ: Xã Yên Phong - Huyện Ý Yên - Tỉnh Nam Định
Điện thoại:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 1 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng


Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN NGỮ VĂN 9 BẰNG
PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN :
1. Cơ sở lí luận:
Hiện nay nước ta đang tiến hành đổi mới kinh tế theo xu hướng CNH – HĐH với mục
tiêu “ Dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh” Để làm tốt công tác đó tất
yếu phải có những con người thông minh sáng tạo. Ngành giáo dục là ngành có trách nhiệm
nặng nề về “ Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Trong những năm gần
đây ngành giáo dục đã tiên phong đề ra chủ trương động viên giáo viên đổi mới phương pháp
giảng dạy nhằm đào tạo những thế hệ trẻ những con người mới phục vụ cho công cuộc đổi
mới đất nước. Những nội dung đổi mới giáo dục đã thực sự đem lại hiệu quả cho học sinh.
Mỗi ngày ý thức của mọi con người càng được nâng cao hơn . Đúng như lời dạy năm nào của
Bác Hồ
“Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Để thực hiện tốt yêu cầu trên người giáo viên nói chung và giáo viên dạy Ngữ Văn nói
riêng thì mục tiêu cần đạt được trong quá trình dạy học là hình thành cho học sinh phương
pháp học tập để chiếm lĩnh tri thức và cái đích cần đạt của người học sinh là tạo cho bản thân
một phương pháp học tập phù hợp để nắm vững kiến thức, xử lý những thông tin thu thập
trong quá trình học tập. Muốn vậy mỗi học sinh cần tạo cho mình hứng thú học tập từ đó mới
tích cực chủ động trong việc chiếm lĩnh tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Do vậy vai trò của người giáo viên trong thời đại hiện nay là hết sức quan trọng, người
giáo viên không chỉ đơn thuần là hiểu biết chắc về chuyên môn mà cần phải hiểu biết tất cả
mọi mặt . Hơn thế nữa chúng ta vừa trải qua cuộc cách mạng đổi mới sách giáo khoa và
phương pháp dạy học nên vai trò của người giáo viên lại càng quan trọng hơn .
Đặc biệt đối với môn Ngữ văn là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội. Đây là môn
học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
Đồng thời môn học này có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm

cho học sinh. Mặt khác nó cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ Văn còn thể hiện
rõ mối quan hệ với rất nhiều các môn học khác trong các nhà trường phổ thông. Học tốt môn
văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 2 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
học tốt môn văn .Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học
với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống .
Vì vậy mà trong những năm qua, cùng với việc thực hiện một cách đồng bộ đổi mới nội
dung chương trình sách giao khoa, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung, trong đó
có đổi mới PPDH môn Ngữ Văn luôn được các nhà khoa học giáo dục đầu ngành của nước ta
quan tâm, nghiên cứu và tìm cách cải tiến. Có thể nói đây là một bước đột phá của ngành giáo
dục nước nhà.Do đó vấn đề này đã được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nên đã trú
trọng đến việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên từng bước nâng cao trình độ, đổi mơi PPDH,
trong đó có ứng dung bản đồ tư duy trong dạy học.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong quá trình dạy học, việc nâng cao chất lượng dạy và học là một vấn đề được quan
tâm và đòi hỏi phải có sự nổ lực về cả 2 phía.Trước hết để nâng cao chất lượng giảng dạy đòi
hỏi người giáo viên phải có năng lực sư phạm vững vàng, bởi vì dạy học vừa mang tính khoa
học vừa mang tính nghệ thuật phải có những phương pháp giảng dạy phù hợp, theo hướng
tích cực giúp học sinh chủ động trong việc tìm kiếm lĩnh hội kiến thức. Việc nâng cao chất
lượng giảng dạy nói chung và dạy học môn Ngữ Văn nói riêng cần có những phương pháp
đặc trưng riêng. Ngoài việc lên lớp nhiều giáo viên phải không ngừng học hỏi tìm kiếm tham
khảo những tài liệu có liên quan để làm sao có thể truyền đạt những kiến thức cho học sinh,
một cách nhẹ nhàng, dể hiểu. Và sự tiếp thu của học sinh nhiều hay ít , nhanh hay chậm sẽ
liên quan đến chất lượng của việc học. Khi mà học sinh lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ,
tự giác và tích cực thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng trong quá trình học tập của học sinh.
Vì vậy việc nâng cao chất lượng trong việc dạy và học nói chung và môn Ngữ Văn nói
riêng là một phần rất quan trọng đối với người giáo viên. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay
khi mà toàn ngành đang ra sức thực hiện cuộc vận động “Hai không trong giáo dục”, thì

chúng ta phải không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học , nhưng đó phải là một chất
lượng thực chất, đánh giá đúng năng lực, trình độ của giáo viên cũng như khả năng tiếp thu
của học sinh
Chính vì vậy mà trong những năm qua, hầu hết đội ngũ giáo viên THCS trong cả nước
nói chung, ở các trường , trong tỉnh trong huyện nói riêng đã được tham dự các lớp tập huấn,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về đổi mới về phương pháp dạy học (PPDH) do Sở, Phong
GD&ĐT tổ chức trong đó có việc sử dụng bản đồ tư duy (BĐTD) trong dạy học. Có thể nói
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 3 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
đây là một trong những PPDH rất khoa học, rất hiện đại đã và đang được nhiều nước trên thế
giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi
nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của
học sinh. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi gợi trong học sinh tình yêu
đối với môn học, đồng thời đem đến cho các em cái nhìn mới, tư duy mới về môn học Ngữ
văn. Vậy thế nào là phương pháp dạy học bằng BĐTD? Cần sử dụng BĐTD như thế nào để
nâng cao chất lượng trong các giờ học văn? Đó là những vấn đề tôi muốn cùng được chia sẻ
với các đồng nghiệp trong sáng kiến kinh nghiệm này .
II. THỰC TRẠNG:
1. Thực trạng của việc học văn hiện nay:
Nhà văn hoá lớn của nhân loại Lê-nin từng nói:"Văn học là nhân học" vậy mà một thực
trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ không còn thích học văn. Thực trạng này lâu nay đã
được báo động. Ban đầu chỉ đơn thuần là những lời than thở với nhau của những người trực
tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn và nay đã trở thành vấn đề của báo chí và dư luận. Ai đã trực
tiếp dạy và chấm bài làm văn của học sinh trong những năm gần đây mới thấy cần thiết phải
có những thay đổi về phương pháp dạy văn và học văn hiện nay. Qua công tác giảng dạy
cũng như chấm, trả các bài kiểm tra Ngữ Văn, tôi nhận thấy có rất nhiều những biểu hiện thể
hiện tâm lý chán học văn của học sinh , cụ thể là:
- Học sinh thờ ơ với môn Ngữ Văn: Những năm gần đây, nhiều người quan tâm đến
công tác giáo dục không khỏi lo ngại trước một thực trạng, đó là tâm lý thờ ơ với việc học

văn ở các trường phổ thông. Điều đáng buồn nhất cho các giáo viên dạy văn là nhiều học sinh
có năng khiếu văn cũng không muốn tham gia đội tuyển văn. Các em còn phải dành thời gian
học các môn khác. Phần lớn phụ huynh khi đã định hướng cho con mình sẽ thi khối A thì chỉ
chủ yếu chú trọng ba môn: Toán, Lý, Hóa. Điều đáng lo ngại hơn nữa, là có không ít phụ
huynh đã chọn hướng cho con thi khối A từ khi học tiểu học. Một bậc học mà học sinh còn
đang được rèn nói, viết, mới bắt đầu làm quen với những khái niệm về từ ngữ mà đã định
hướng khối A thì thật là nguy hại.
- Về khả năng trình bày: Khi học sinh tạo lập một văn bản giáo viên có thể dễ dàng
nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết chính tả sai, bố
cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic, lại có những bài văn diễn đạt ngô nghê, tối
nghĩa, lủng củng Đặc biệt là học sinh cuối cấp mà vẫn còn hiện tượng này thì thật đáng lo
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 4 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
ngại .Đây không chỉ là sự lo ngại, đáng buồn của những người trực tiếp giảng dạy mà thậm
chí còn là đáng báo động trong xã hội ta.
Mục tiêu của bậc học phổ thông là đào tạo con người toàn diện, nhưng thực tế hiện nay
cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc dù kiến thức của các
bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn khôi phục sự quan tâm của xã
hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta
phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh,
hình thành cho các em phương pháp học văn hiệu quả nhất.
2. Nguyên nhân:
a. Đối với người dạy: Đa số giáo viên đều có tình yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công tác
giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh. Tuy nhiên, vẫn còn những mặt hạn chế sau :
- Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu
kém dẫn đến chất lượng chưa cao .
- Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan
vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh .
- Một số giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, chưa khơi gợi được mạch nguồn

cảm xúc ẩn sau mỗi trái tim người học.
b. Đối với học sinh:
- Một số học sinh vì lười học, chán học mải chơi, hổng kiến thức nên không chuẩn bị tốt
tâm thế cho giờ học Ngữ văn.
- Địa phương xã Yên Phong thuộc vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi
làm ăn xa, ít có thời gian quan tâm kèm cặp con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp
gia đình ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như xem ti vi,
chơi game . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học bị lôi cuốn, sao nhãng
việc học tập.
Trước thực trạng đó bản thân tôi thật sự tâm đắc với phương pháp sử dụng BĐTD trong
quá trình dạy học, đặc biệt là đối với học sinh lớp 9 bởi lượng kiến thức nhiều, bài học lại dài
học sinh không thể học thuộc được hết được,vì thế cần có cách học cho khoa học và có hiệu
quả.Chính vì vậy tôi đã đưa việc ứng dụng BĐTD vào trong việc dạy học môn Ngữ Văn 9.
Bởi nó không chỉ lôi cuốn, hấp dẫn với học sinh, mà nó còn là một phương pháp rất hiệu quả,
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 5 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
rất khoa học, rất dễ sử dụng và có thể sử dụng rộng rãi ở tất cả các khâu trong quá trình dạy
học mà nhất là rất cần thiết trong việc giảng dạy môn Ngữ Văn. Cho nên tôi viết đề tài sáng
kiến kinh nhiệm (SKKN) “ Sử dụng BĐTD trong dạy học Ngữ văn lớp 9” để cùng trao đổi
chia sẻ kinh nghiệm với các đồng nghiệp.
III. CÁC GIẢI PHÁP
A. Bản chất phương pháp dạy học bằng BĐTD:
- BĐTD là kĩ thuật dạy học tổ chức và phát triển tư duy giúp người học chuyển tải thông
tin vào bộ não rồi được thông tin ra ngoài bộ não một cách dễ dàng, đồng thời là phương tiện
ghi chép sáng tạo và hiệu quả, mở rộng, đào sâu và kết nối các ý tưởng, bao quát được các ý
tưởng trên phạm vi sâu rộng.
- Dạy học bằng Bản đồ tư duy - một giải pháp góp phần đổi mới cơ bản giáo dục.
1. BĐTD tận dụng được các nguyên tắc của trí nhớ siêu đẳng:

a. Sự hình dung: BĐTD có rất nhiều hình ảnh để bạn hình dung về kiến thức cần nhớ.
Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của trí nhớ siêu đẳng. Đối với não bộ,
BĐTD giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú hơn là một bài học khô
khan, nhàm chán.
b. Sự liên tưởng, tưởng tượng: BĐTD hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách rất
rõ ràng.
c. Làm nổi bật sự việc: Thay cho những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, Sử dụng BĐTD cho
phép giáo viên và học sinh làm nổi bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu
sắc, kích cỡ, hình ảnh đa dạng. Hơn nữa, việc BĐTD dùng rất nhiều màu sắc khiến giáo viên
và học sinh phải vận dụng trí tưởng tượng sáng tạo đầy phong phú của mình. Nhưng đây
không chỉ là một bức tranh đầy màu sắc sặc sỡ thông thường, BĐTD giúp tạo ra một bức
tranh mang tính lý luận, liên kết chặt chẽ về những gì được học.
2. BĐTD sử dụng cả hai bán cầu não cùng một lúc: BĐTD thật sự giúp bạn tận dụng
các chức năng của não trái lẫn não phải khi học. Đây chính là công cụ học tập vận dụng được
sức mạnh của cả bộ não. Nếu vận dụng đúng cách, nó sẽ hoàn toàn giải phóng những năng
lực tiềm ẩn trong bạn, đưa bạn lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay
thậm chí của một thiên tài.
3. Cấu tạo, các bước thiết kế, quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp và
những tiện ích:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 6 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Để sử dụng một cách có hiệu quả BĐTD trong quá trình dạy học, trước hết, ta cần nắm
vững những tri thức về nó:
a. Cấu tạo:
-Ở giữa sơ đồ là một hình ảnh trung tâm (hay một cụm từ) khái quát chủ đề.
-Gắn liền với hình ảnh trung tâm là các nhánh cấp 1 mang các ý chính làm rõ chủ đề.
-Phát triển các nhánh cấp 1 là các nhánh cấp 2 mang các ý phụ làm rõ mỗi ý chính.
-Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục để cụ thể hóa chủ đề, nhánh càng xa trung tâm thì ý càng
cụ thể, chi tiết. Có thể nói, BĐTD là một bức tranh tổng thể, một mạng lưới tổ chức, liên kết

khá chặt chẽ theo cấp độ để thể hiện một nội dung, một đơn vị kiến thức nào đó.
b. Các bước thiết kế một BĐTD:
Để thiết kế một BĐTD dù vẽ thủ công trên bảng, trên giấy , hay trên phần mềm Mind
Map, chúng ta đều thực hiện theo thứ tự các bước sau đây:
Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ hình ảnh minh
họa cho chủ đề - nếu hình dung được)
Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề) chúng ta cần xác định: để làm rõ chủ đề, thì ta
đưa ra những ý chính nào. Sau đó, ta phân chia ra những ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính,
nối chúng với trung tâm.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 7 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Ảnh minh họa cấu tạo Bản đồ tư duy
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Bước 3:Ở mỗi ý chính, ta lại xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính
ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế ta triển khai thành mạng lưới liên kết chặt
chẽ.
Bước 4: Cuối cùng, ta dùng hình ảnh (vẽ hoặc chèn) để minh họa cho các ý, tạo tác động
trực quan, dễ nhớ.
*Lưu ý:
-Nên chọn hướng giấy ngang để khổ giấy rộng, thuận lợi cho việc vẽ các nhánh con.
-Nên dùng các nét vẽ cong, mềm mại thay vì vẽ các đường thẳng để thu hút sự chú ý của
mắt, như vậy BĐTD sẽ lôi cuốn, hấp dẫn hơn.
-Các nhánh càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn, dày hơn.
-Chú ý dùng màu sắc, đường nét hợp lý để vừa làm rõ các ý trong sơ đồ đồng thời tạo sự
cân đối, hài hòa cho sơ đồ.
-Không ghi quá dài dòng, hoặc ghi những ý rời rạc, không cần thiết, nên dùng các từ,
cụm từ một cách ngắn gọn.
-Không dùng quá nhiều hình ảnh, nên chọn lọc những hình ảnh thật cần thiết góp phần
làm rõ các ý, chủ đề.
-Có thể đánh số thứ tự ở các ý chính cùng cấp.

-Không đầu tư quá nhiều thời gian vào việc “làm đẹp” sơ đồ bằng vẽ, viết, tô màu
-Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
-Người lập sơ đồ được phép vẽ và trang trí theo cách riêng của mình.
c. Quy trình tổ chức hoạt động vẽ BĐTD trên lớp:
Hoạt động 1: Cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo
viên.
Hoạt động 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về
BĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
Hoạt động 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện BĐTD về kiến thức
của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh BĐTD, từ
đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một BĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một
SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh
về kiến thức đó.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 8 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
d. Những tiện ích của việc sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn:
Dạy học bằng BĐTD giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả. Chúng ta biết
rằng việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ đơn thuần là một biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh
học tập một cách thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc theo thói quen
học vẹt, các em chưa có ý thức hoặc chưa biết rèn luyện kỹ năng tư duy. Học sinh chỉ học bài
nào biết bài ấy, nắm kiến thức một cách đơn lẻ, rời rạc, chưa biết tích hợp, liên hệ kiến thức
với nhau giữa các bài học, giữa các phân môn, vì vậy mà chưa phát triển được tư duy lô-gic
và tư duy hệ thống. Do đó, dù các em học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém. Vì học phần sau
đã quên phần trước, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Lại
có nhiều học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu
thông tin, hay kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Bởi vậy, rèn kuyện cho các em có
thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo BĐTD trong quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có

được phương pháp học tốt, phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình
tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng BĐTD giúp học sinh học
tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực tiếp vẽ
BĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, bởi
đó là “sản phẩm kiến thức hội họa”do chính các em tự làm ra, lại vừa phát huy được tối đa
khả năng sáng tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập
các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của
mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học sinh trong học tập. Đây
cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Do đó,
chúng ta có thể vận dụng BĐTD vào tất cả các khâu trong quá trình dạy học. Từ khâu kiểm
tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi
ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm
tra 15 phút.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 9 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
BĐTD một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ
sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì ta có thể thiết kế BĐTD trên
giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng
có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở
vật chất như Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần
mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng CNTT.
Tóm lại, việc sử dụng BĐTD trong quá trình dạy học sẽ giúp HS:
- Tăng sự hứng thú trong học tập.
- Phát huy khả năng sáng tạo, năng lực tư duy của các em.
- Tiết kiệm thời gian rất nhiều.

- Nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
- Ghi nhớ tốt hơn.
- Thể hiện phong cách cá nhân, dấu ấn riêng của mỗi em.
4.Cách sử dụng BĐTD trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học:
a. Làm quen với BĐTD:
* Đối với giáo viên:
Ngoài việc tham dự các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có liên quan
đến việc đổi mới PPDH, giáo viên cần nghiên cứu kĩ những tài liệu liên quan đến việc hướng
dẫn sử dụng BĐTD và phần mềm vẽ BĐTD (Mind Map) để có những tri thức cơ bản về nó
(Hiểu biết về BĐTD, cấu tạo, vai trò, tiện ích, phương pháp tạo lập, thiết kế, việc sử dụng nó
trong quá trình dạy học ) đồng thời, giáo viên cần đầu tư thời gian vào việc tập vẽ, cả vẽ trên
giấy và trên phần mềm trong máy vi tính (Nhớ là phải nghiên cứu kĩ cách sử dụng phần mềm
để thực hiện thao tác cho nhanh nhẹn, thuần thục). Sau khi đã hiểu kĩ, nắm chắc về vai trò,
công dụng của BĐTD, sử dụng thành thạo phần mềm, nắm vững phương pháp vẽ một BĐTD,
thì việc ứng dụng nó vào quá trình dạy học là việc dễ dàng. (Dĩ nhiên chuyện BĐTD đẹp hay
xấu phụ thuộc vào sự tưởng tượng, liên tưởng, óc sáng tạo và năng khiếu mỗi người).
* Đối với học sinh:
Người xưa có câu “Chưa học bò, chớ lo học chạy” quả đúng như vây. Để có thể sử dụng
tốt và phát huy một cách có hiệu quả BĐTD trong quá trình dạy học, trước hết chúng ta cần
cho học sinh làm quen với một số BĐTD có sẵn, để chí ít các em có cái nhìn khái quát về nó
(tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi “bắt chước” vẽ nó) đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng. Tuy
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
nhiên, rất nhiều giáo viên bỏ qua bước này hoặc giới thiệu một cách rất sơ sài, qua loa. Vì
thế, học sinh chưa hiểu biết cặn kẽ, cụ thể về nó, chưa nắm vững phương pháp tạo lập, chưa
có kĩ năng vẽ BĐTD nên dẫn đến nhiều tiết dạy không thành công do các em mãi loay hoay
với giấy bút mà không biết vẽ cái gì, vẽ như thế nào, bắt đầu từ đâu vì các em chưa hình
dung được BĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa biết cách thức, phương pháp vẽ.
Vì vậy, theo tôi, chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em “làm quen” với BĐTD,

theo cách sau đây:
* Để tiết kiệm thời gian, lại khỏi phải làm cái công việc giới thiệu, hướng dẫn cách vẽ
BĐTD trở đi, trở lại hết lớp này đến lớp khác, giáo viên nên tham mưu cho Ban Giám hiệu
trường, hoặc tổ chuyên môn trường, chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu năm học tổ chức
một buổi ngoại khóa “Làm quen với bản đồ tư duy” (Tùy theo tình hình cụ thể của từng đơn
vị trường mà có thể tổ chức theo khối lớp giáo viên trực tiếp dạy, khối học sáng - chiều hoặc
toàn trường) để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ BĐTD (Lưu ý rằng
đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp cận với một phương pháp,
kĩ thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội
dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các dụng cụ: giấy
vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy….
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ, phấn màu
và một số BĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa lịch, trên bảng phụ Sau đó,
chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo các bước sau:
Bước 1: “Làm quen”
Giáo viên giới thiệu một số BĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm quen (nên chọn vẽ BĐTD ở
những bài đã học trong chương trình cho các em vừa tiện theo dõi, tiếp thu tri thức về BĐTD,
đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì
các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc BĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học
sinh nắm, rồi hướng dẫn cách vẽ một BĐTD (cung cấp cho các em phương pháp vẽ BĐTD).
Bước 2: “Đọc hiểu”
Giáo viên chọn những BĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát. Sau đó, cho các
em dựa vào BĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức) được vẽ trong sơ đồ. (luyện
cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và kĩ năng thuyết trình )
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 11 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Bước 3: “Tập vẽ”
Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn hình (hoặc trên

bảng đen). Ví dụ: Phương châm hội thoại, Chiến tranh hạt nhân, Từ (Xét về cấu tạo) Cho
học sinh thực hành vẽ BĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3
(luyện kĩ năng vẽ BĐTD)
* Lưu ý:
+ Giáo viên nên chọn những bài các em đã học, có kiến thức đơn giản, dễ nhớ, dễ vẽ.
+ Giáo viên có thể linh hoạt cho học sinh vẽ theo nhóm vào bìa lịch, vẽ cá nhân vào
giấy vở hoặc gọi 2-3 em lên bảng vẽ.
+ Lưu ý các em không dùng câu, đoạn quá dài, nên thể hiện các ý bằng những cụm từ
ngắn gọn.
Bước 4: “Trang trí”
Sau khi các em vẽ xong sườn của BĐTD, giáo viên gợi ý cho các em vẽ chèn thêm
những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ, gợi ý cho các em chỉnh sửa
đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(kĩ năng
hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng)
* Lưu ý:
+ Giáo viên lưu ý học sinh khi vẽ BĐTD, các em nên kết hợp dùng màu sắc, đường nét
ngay trong quá trình vẽ để tiết kiệm thời gian.
+ Không nên dùng quá nhiều màu, không dùng những màu sắc quá sặc sỡ, không quá
chú trọng vào đường nét, hình ảnh làm lãng phí thời gian.
Bước 5: “Chia sẻ kinh nghiệm”
Ở bước này, giáo viên thu một số BĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (bản đồ không
triển khai đủ các ý chính, bản đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, bản đồ vẽ không đúng trọng tâm
kiến thức, bản đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt, )
Cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung:
+ Như trên đã trình bày, BĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát
huy sự sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em. Giáo viên chỉ chỉnh sửa
cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần khuyến khích, biểu
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 12 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng

Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
dương những BĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm, đẹp, có cách trình bày khoa
học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có thể hướng
dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi trong đó. Đây là điều rất
mới mẻ, sáng tạo và tiết kiệm rất nhiều thời gian.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập BĐTD trong
quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài trên lớp để có điều kiện đối
chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa.
Nếu làm được như vậy, chẳng những giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho
các em phát triển năng lực tư duy (tư duy lô-gic, tư duy hệ thống ) rất tốt.
+ Nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các BĐTD lại để sau này tiện việc ôn tập, hệ
thống kiến thức.
Tóm lại, nếu giáo viên chuẩn bị thật kĩ các bước trên cho các em, tôi nghĩ rằng chắc chắn
các em sẽ học tốt, làm tốt những yêu cầu giáo viên đặt ra trong quá trình dạy học, kiểm tra,
đánh giá có ứng dụng BĐTD.
B. Các hình thức vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Ngữ văn:
1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học:
a. Sử dụng BĐTD trong các hình thức kiểm tra:
Có thể nói, đây là việc làm rất đơn giản nhưng lại còn rất xa lạ, mới mẻ đối với rất
nhiều giáo viên. Qua dự giờ, góp ý, trao đổi kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp trong tổ,
trong trường, tôi nhận thấy, hầu hết giáo viên rất băn khoăn khi nghe đề nghị dùng BĐTD để
kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút hay kiểm tra một tiết. Sau đây là một vài kinh nghiệm xin
chia sẻ cùng đồng nghiệp:
† Sử dụng BĐTD trong việc kiểm tra bài cũ:
Giáo viên đưa ra một từ khóa (hay một hình ảnh trung tâm) thể hiện chủ đề của kiến
thức cũ mà các em đã học, cần kiểm tra, yêu cầu các em vẽ BĐTD thông qua câu hỏi gợi ý.
Trên cơ sở từ khóa (hoặc hình ảnh trung tâm) ấy kết hợp với câu hỏi định hướng của giáo
viên, học sinh sẽ nhớ lại kiến thức và định hình được cách vẽ BĐTD theo yêu cầu.

* Ví dụ 1:
Sau khi các em học xong bài “Các phương châm hội thoại”(Tiết 1,2), trước khi tìm
hiểu các kiến thức mở rộng có liên quan đến phương châm hội thoại ở Tiết 3 (Tiết 13 trong
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 13 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
PPCT), giáo viên kiểm tra bài cũ bằng cách cho các em lập BĐTD để củng cố, hệ thống kiến
thức đã học ở hai tiết học trước thông qua câu hỏi sau: Ta đã học qua những phương châm
hội thoại nào? Em hãy lập BĐTD để hệ thống kiến thức về chúng? Sau đó, giáo viên ghi cụm
từ khóa lên giữa bảng phụ “Phương châm hội thoại”, rồi gọi một em xung phong lên bảng vẽ.
Học sinh sẽ dễ dàng vẽ được BĐTD theo nội dung yêu cầu.
Dưới đây là BĐTD về các phương châm hội thoại có tính chất minh họa, các em vẽ
BĐTD đảm bảo các nội dung tương tự như sau là tốt:
Khi học
sinh vẽ
xong,
giáo
viên
cho cả
lớp
quan
sát, gọi
một vài
em
nhận
xét, góp ý sơ đồ rồi giáo viên nhận xét và cho điểm.
* Ví dụ 2:
Trước khi cho các em tìm hiểu tiết “Luyện tập liên kết câu và liên kết đoạn văn”
(Tiết 110 trong PPCT), ở khâu Kiểm tra bài cũ, giáo viên cho học sinh lập BĐTD để ôn lại lý
thuyết trước rồi mới hướng dẫn cho các em bắt tay vào thực hành. Cách làm đơn giản như ở

ví dụ trên. Ta cũng có thể làm ngược lại quy trình trên nhưng cũng khá đơn giản như sau:
Trước tiên, giáo viên ghi cụm từ khóa “Liên kết văn bản” lên bảng phụ. Sau đó, giáo viên đưa
ra câu hỏi dẫn dắt cho các em: Các câu văn trong đoạn và các đoạn văn trong văn bản được
liên kết chặt chẽ với nhau qua những mặt liên kết nào? Có những phép liên kết phổ biến nào
được sử dụng để thực hiện việc liên kết trong văn bản? Em hãy dựa vào cụm từ khóa trên, lập
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 14 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
BĐTD biểu thị mối quan hệ các mặt liên kết trong văn bản rồi cho học sinh tiến hành lập
BĐTD. Sau đây là BĐTD minh họa:
Lưu ý:
Giáo viên có thể cho cả lớp cùng lập BĐTD trên giấy theo cách hoạt động cá nhân trong
một thời gian nhất định để lôi cuốn tất cả học sinh vào việc ôn kiến thức đồng thời rèn luyện
kĩ năng tạo lập BĐTD và thói quen tư duy cho các em. Hết thời gian quy định, giáo viên chọn
sơ đồ của một vài em (có thể vẽ xong trước, có thể cần lấy điểm, ), chấm, nhận xét và ghi
điểm cho các em; biểu dương, khen ngợi những em vẽ tốt để khích lệ các em nhằm tạo không
khí học tập sôi nổi. Đây là việc làm rất cần thiết của chúng ta.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 15 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Giáo viên chỉ cần dựa vào BĐTD chấm và ghi nhận điểm cho học sinh mà không cần
phải yêu cầu gì thêm ở các em, vì ta đã chọn dạng đề khá đơn giản, nên những gì cần trả lời,
các em đã thể hiện trong BĐTD, hơn nữa thời gian kiểm tra bài cũ có hạn.
† Sử dụng BĐTD trong kiểm tra 15 phút, 1 tiết:
Chúng ta cũng có thể dùng BĐTD trong các hình thức kiểm tra trên giấy (15 phút, 1 tiết)
một cách dễ dàng để tăng cường việc rèn luyện thói quen tư duy lô-gic, tư duy hệ thống cho
học sinh thông qua các bài kiểm tra viết, nhằm phát triển năng lực tư duy sáng tạo cho các
em. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lưu ý rằng kiểm tra kiến thức cũ bằng phương pháp vẽ
BĐTD chỉ là một hình thức kiểm tra nhằm việc giúp học sinh củng cố, hệ thống kiến thức có
tính chất lý thuyết. Do đó, giáo viên nên chọn kiểm tra những kiến thức có tính hệ thống, xâu

chuỗi, các em có thể dễ dàng hệ thống hóa bằng BĐTD. Ví dụ: lập BĐTD về Từ loại (xét về
cấu tạo, xét về ngữ pháp), về các Phương châm hội thoại, về Trau dồi vốn từ, về Nghĩa của
từ, Các cách phát triển từ vựng, trong phân môn Tiếng Việt; lập BĐTD về hệ thống luận
điểm, luận cứ trong một văn bản nghị luận, về dàn ý của một kiểu văn bản nào đó trong
phân môn Tập làm văn; hay lập BĐTD để khái quát, hệ thống hóa kiến thức về một tác giả,
tác phẩm nào đó, về quá trình phát triển tính cách, tâm trạng của một nhân vật trong tác
phẩm truyện hay mạch cảm xúc, trình tự kết cấu của một bài thơ đối với phân môn Văn học.
Mặt khác, về yêu cầu của đề kiểm tra, giáo viên cần đưa ra từ hay cụm từ khóa ngắn gọn, rõ
ràng, cụ thể, khái quát được chủ đề của phần kiến thức cần kiểm tra trong câu hỏi để định
hướng, giúp học sinh dễ dàng nắm bắt chính xác yêu cầu đề và có thể vẽ đúng BĐTD theo
yêu cầu. Sau đây là một số ví dụ minh họa các dạng đề kiểm tra viết yêu cầu học sinh lập
BĐTD:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 16 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Ví dụ 1: Từ tiếng Việt (xét về mặt cấu tạo) gồm có những loại nào? Em hãy vẽ BĐTD
giới thiệu chi tiết về chúng.
* Ví dụ 2:
Cho từ khóa Truyện Kiều. Em hãy vẽ BĐTD giới thiệu nguồn gốc, thể loại và giá trị
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
* Ví dụ 3:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 17 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc của nhà thơ Viễn Phương
theo trình tự không gian và thời gian của chuyến ra thăm lăng Bác Hồ. Với cụm từ khóa
“Viếng lăng Bác”, em hãy lập BĐTD ghi lại diễn biến tâm trạng cảm xúc ấy của tác giả qua
mỗi khổ thơ.
Ví dụ 4:
Có mấy cách phát triển của từ vựng? Em hãy lập BĐTD minh họa với cụm từ khóa sau:

“SỰ PHÁT TRIỂN TỪ VỰNG”.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 18 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014

Ví dụ 5:
Em hãy lập BĐTD trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Nguyễn Du ? (Tên
hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự nghiệp văn học )
* Lưu ý:
Giáo viên có thể linh hoạt sử dụng các câu hỏi yêu cầu học sinh lập BĐTD ở khâu kiểm
tra bài cũ và kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết) hoán đổi cho nhau đều được.
Đối với kiểm tra miệng, 15 phút ta lấy thang điểm 10; còn đối với kiểm tra 1 tiết thì tùy
theo mức độ của từng câu hỏi, ta có thể cho từ 2 – 3 điểm. (xem như câu hỏi yêu cầu lập
BĐTD là một phần trong đề kiểm tra)
b. Sử dụng BĐTD trong dạy học bài mới và ghi bảng:
Lâu nay, việc sử dụng BĐTD như một công cụ hỗ trợ đắc lực cho việc dạy học bài mới
thì ít nhiều giáo viên chúng ta đã và đang ứng dụng. Tuy nhiên, việc sử dụng BĐTD vừa để
tổ chức, dẫn dắt cho học sinh tự tìm hiểu, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức bài học lại vừa thay
thế cho việc ghi bảng cô đọng kiến thức tiết dạy, bài dạy của giáo viên thì quả là việc làm còn
hết sức mới mẻ. Qua trao đổi với anh chị em giáo viên trong tổ chuyên môn, trong trường ở
những buổi sinh hoạt chuyên môn, hầu hết anh chị em đều có chung quan niệm xem BĐTD là
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 19 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
công cụ, phương tiện, là một thứ “bảng phụ” hỗ trợ, minh họa cho tiết dạy mà thôi. Ai cũng
cho rằng không thể dùng BĐTD thay cho phần ghi bảng của giáo viên được. Thực ra thì ta
vẫn có thể thực hiện kết hợp chúng trong quá trình dạy học bài mới. Qua một quá trình thử
nghiệm chúng trong một số tiết dạy, tôi nhận thấy rõ ràng cách làm này ta hoàn toàn có thể
làm được. Không những thế, việc kết hợp sử dụng BĐTD trong việc tổ chức dạy học bài mới
với việc sử dụng nó để cô đọng kiến thức thay cho việc ghi bảng lại tiết kiệm được rất nhiều

thời gian trên lớp, lại vừa có tác dụng hình thành cho học sinh có thói quen ghi chép bằng
BĐTD. Đây cũng là việc làm rất cần thiết góp phần rèn luyện kĩ năng vẽ BĐTD cho các em,
nhất là những bài học nhằm giới thiệu, cung cấp kiến thức. Sau đây là một số ví dụ minh họa:
Ví dụ 1:
Khi dạy bài giới thiệu về “Truyện Kiều cuả Nguyễn Du”(Tiết 26,27), sau khi giới thiệu
bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “TRUYỆN KIỀU (Nguyễn Du)” lên trung tâm bảng đen.
Sau đó, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài học. Đầu tiên, ta cho
các em tìm hiểu về tác giả bằng cách vẽ nhánh chính thứ nhất đặt tiêu đề nhánh “I. TÁC
GIẢ”. Rồi đưa ra các câu hỏi gợi ý tìm hiểu về tên hiệu, xuất thân, thời đại, cuộc đời, sự
nghiệp văn học của nhà thơ. Tìm hiểu đến đâu, giáo viên phát triển nhánh, cô đọng kiến thức
đến đó. Sau khi dẫn dắt các em tìm hiểu xong phần tác giả, giáo viên tiếp tục vẽ nhánh thứ
hai, đặt tiêu đề “II. TÁC PHẨM” đưa ra các câu hỏi gợi ý các em tìm hiểu tác phẩm: nguồn
gốc, thể loại, kết cấu, giá trị (nội dung, nghệ thuật) của tác phẩm (cách làm tương tự như
trên). Kết thúc 2 tiết học, ta có BĐTD giới thiệu một cách cô đọng, khái quát, lô-gic những
tri thức cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm “Truyện Kiều” trên bảng đen như sau:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 20 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 21 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Bản đồ tư duy bài “Truyện Kiều”- Ngữ văn 9
Ví dụ 2: Khi học bài bài thơ “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy, cuối giờ GV cho từ khoá “
Ánh trăng” rồi yêu cầu học sinh vẽ BĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em, sau khi
các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý.
Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên
nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 22 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014

Ví dụ 3:
Khi dạy bài “Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”(Tiết 99), sau khi giới
thiệu bài mới, giáo viên ghi cụm từ khóa “NGHỊ LUẬN SỰ VIỆC, HIỆN TƯỢNG ĐỜI
SỐNG” lên bảng, rồi bắt đầu tiết học với mục Tìm hiểu bài. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ
nhất, ghi tiêu đề “I. TÌM HIỂU BÀI”. Sau đó, cho học sinh đọc văn bản “Bệnh lề mề” –
SGK, giáo viên đưa ra các câu hỏi dẫn dắt các em lần lượt tìm hiểu: vấn đề nghị luận của bài
viết, biểu hiện, nguyên nhân, tác hại, hướng khắc phục. Sau khi tìm hiểu xong văn bản, giáo
viên chuyển sang bước hai: hình thành kiến thức. Giáo viên vẽ nhánh chính thứ hai, ghi tiêu
đề “II. BÀI HỌC”. Rồi dùng hệ thống câu hỏi dẫn dắt, phát triển các nhánh con: khái niệm,
yêu cầu về nội dung, yêu cầu về hình thức tương tự như ở bước trên. Cuối cùng là bước thứ
ba “Luyện tập”, cách làm như trên. Kết thúc tiết dạy, ta có BĐTD trên bảng đen như sau:
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 23 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –
2014
Ví dụ 4:
Đối với phân môn Tiếng Việt thì sử dụng BĐTD kết hợp việc dạy học bài mới với việc
ghi bảng càng dễ dàng hơn. Ví dụ khi dạy bài “Ôn tập Tiếng Việt” học kỳ I (Tiết 73). Sau
khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum từ trung tâm “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa
bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi vào tìm hiểu các nội dung ôn tập theo trình tự
SGK. Bắt đầu với việc hệ thống, củng cố kiến thức lý thuyết thông qua các câu hỏi:
Chúng ta đã học qua những phương châm hội thoại nào? Em hãy nhắc lại nội dung
mỗi phương châm? (vẽ nhánh, ghi chú)
Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường dùng để xưng hô? Cho ví dụ mỗi loại? (vẽ
nhánh, ghi chú)
Em có nhận xét gì về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt? Khi sử dụng từ ngữ xưng hô
em cần lưu ý điều gì? (vẽ nhánh, ghi chú)
Có mấy cách dẫn lại lời nói, ý nghĩ của một người hay một nhân vật?
Mỗi cách dẫn ấy khác nhau như thế nào? (vẽ nhánh, ghi chú)
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 24 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng
Trường THCS Yên Phong Năm học: 2013 –

2014
Ta kết hợp cho học sinh làm các bài tập trong mỗi nội dung ôn tập sau khi lập BĐTD cho
mỗi nhánh (nội dung). Cuối tiết Ôn tập, ta có BĐTD trên bảng như sau:
Như vậy, chúng ta có thể dễ dàng sử dụng BĐTD kết hợp trong việc dạy học bài mới với
dùng chính nó để cô đọng kiến thức của bài học cho học sinh ghi. Việc sử dụng BĐTD trong
quá trình dạy học bài mới sẽ giúp học sinh từng bước phát hiện, tiếp cận và chiếm lĩnh toàn
bộ kiến thức bài học một cách khoa học, có hệ thống, lô-gic. Bắt đầu bài học bằng từ, cụm từ
trung tâm thể hiện trọng tâm kiến thức, thông qua sự định hướng dẫn dắt của giáo viên, các
em tự khám phá, tìm hiểu các đơn vị kiến thức của bài học (các ý lớn, nhỏ) một cách liền
mạch, có hệ thống, đến khi tiết học kết thúc cũng là lúc toàn bộ kiến thức của bài học được cô
đọng và trình bày một cách sinh động, khoa học và sáng tạo trên bảng đen (hoặc trên màn
hình). BĐTD ấy không chỉ cung cấp cho các em “bức tranh tổng thể” về kiến thức của bài
học mà nó còn giúp cho các em dễ dàng nhận ra mạch lô-gic kiến thức của bài học. Do đó,
chúng ta có thể dùng nó như phần nội dung ghi bảng của giáo viên để học sinh ghi chép.
Tuy nhiên, chúng ta cần linh hoạt sử dụng ở những tiết dạy, bài dạy cho phép chứ không
nên lạm dụng BĐTD để khỏi phải ghi bảng ở tất cả các tiết dạy. Mặt khác, việc sử dụng kết
hợp này càng thuận lợi hơn khi chúng ta sử dụng phần mềm Mind Map và soạn giảng bằng
bài giảng điện tử. Chúng ta cũng nên đánh số thứ tự vào các khâu lên lớp (tìm hiểu bài, bài
Sáng kiến kinh nghiệm môn Ngữ văn 25 Giáo viên: Nguyễn Thị Hằng

×