Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

CÁC MÁC, TRIẾT HỌC MÁC VÀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.62 KB, 116 trang )

TIỂU LUẬN:

CÁC MÁC, TRIẾT HỌC MÁC VÀ
THỜI ĐẠI NGÀY NAY


Trong bài viết này, sau khi trình bày một cách ngắn gọn về cuộc đời hoạt động cách
mạng và sự nghiệp sáng tạo lý luận của C.Mác, về học thuyết Mác và vận mệnh lịch
sử của nó, bản chất cách mạng và tính khoa học của chủ nghĩa Mác nói chung, triết
học Mác nói riêng, tác giả đã tập trung luận giải: 1. Phép biện chứng duy vật với tư
cách một khoa học, linh hồn sống của triết học Mác; 2. Quan niệm duy vật về lịch sử
với tư cách phát kiến vĩ đại của tư tưởng khoa học mà nội dung cốt lõi của nó là học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội; 3. Học thuyết Mác về con người và giải phóng
con người, giải phóng nhân loại với tư cách mục đích cuối cùng, tối cao của triết
học Mác. Phần cuối cùng của bài viết, tác giả nói về ý nghĩa thời đại, sức sống
trường tồn của triết học Mác và vai trò kim chỉ nam, giá trị định hướng của nó đối
với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Ngày 5 tháng 5 năm 1818 đã, đang và mãi đi vào lịch sử nhân loại với tư cách ngày
ra đời một vĩ nhân, nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại, người sáng lập học
thuyết khoa học và cách mạng nhất trong mọi thời đại - Các Henrích Mác.
Với những cống hiến lý luận mang ý nghĩa và giá trị vạch thời đại, với tư cách một
nhà cách mạng kiên định, một lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản - giai cấp công
nhân toàn thế giới, C.Mác đã đi vào lịch sử nhân loại như một trong những vĩ nhân
nổi trội nhất trong hàng ngũ những vĩ nhân ở mọi thời đại. Gắn liền với tên tuổi của
C.Mác và mang tên C.Mác là một thế giới quan tiên tiến nhất, thật sự cách mạng,
thật sự khoa học - thế giới quan duy vật biện chứng, thế giới quan có khả năng đem
lại cho nhân loại tiến bộ và giai cấp công nhân cách mạng toàn thế giới một “công cụ
nhận thức vĩ đại” để “cải tạo thế giới” trong thời đại ngày nay.
Gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của C.Mác là chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở
thành một khoa học, một học thuyết luận chứng một cách toàn diện và sâu sắc về


phương diện lý luận cho công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới mà sứ mệnh lịch sử của
nó thuộc về giai cấp công nhân cách mạng.
Không chỉ thế, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của C.Mác là sự ra đời của phong


trào cộng sản và công nhân quốc tế, là phong trào tự phát của giai cấp công nhân trở
thành một cuộc đấu tranh tự giác nhằm cải tạo xã hội bằng cách mạng, theo những
nguyên lý nền tảng của một học thuyết thật sự khoa học, dưới sự lãnh đạo của các
chính đảng cách mạng của nó.
Trong toàn bộ lịch sử tư tưởng cải biến xã hội suốt nhiều thế kỷ, không một tư tưởng
nào, học thuyết nào có thể sánh kịp tư tưởng, học thuyết của C.Mác về phương
diện khoa học và cách mạng. Bằng việc phát hiện ra những quy luật khách quan của
sự phát triển xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C.Mác đã chỉ ra
cho giai cấp vô sản và nhân loại tiến bộ toàn thế giới những con đường và biện pháp
hiện thực để tự giải phóng khỏi ách áp bức về mặt xã hội và tạo ra những điều kiện,
tiền đề cho một cuộc sống thật sự mang tính người – cuộc sống với chữ Người viết
hoa, cho hạnh phúc, cho sự phát triển tự do và toàn diện mọi năng khiếu thể chất và
tinh thần của mỗi người.
Học thuyết khoa học và cách mạng của C.Mác đã được hình thành vàphát triển trong
bối cảnh hiện thực của châu Âu giữa thế kỷ XIX. Song, sự hình thành và phát
triển của học thuyết đó không phải là tách rời những trào lưu trước đó của tư tưởng
xã hội, không phải ở bên ngoài con đường phát triển của nền văn minh nhân loại. Nó
là sự kế thừa hợp pháp của tất cả những gì ưu tú nhất mà nhân loại đã sáng tạo ra
trong lĩnh vực nhận thức tự nhiên và đời sống xã hội. Nó đã dựa trên tất cả những
thành tựu của tư tưởng xã hội, đặc biệt là trên những thành tựu của triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
Tất cả những gì hợp lý trong các trào lưu tiên tiến của tư tưởng xã hội đều
được C.Mác tiếp thu, kế thừa một cách có phê phán và kiểm nghiệm chúng qua
phong trào vô sản, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng của bản thân mình và xây dựng
lại một cách sáng tạo theo lập trường của giai cấp vô sản cách mạng. Đánh giá một

cách rõ ràng và sâu sắc ý nghĩa và giá trị trong những phát kiến khoa học
của C.Mácđối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và nhân loại
tiến bộ, V.I.Lênin đã quả quyết khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của
Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về
tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ
có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp vô sản


trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa”(1).
Việc vạch trần những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản đã đưaC.Mác đến kết
luận khoa học rằng, sự diệt vong của xã hội tư sản vàsự ra đời của chế độ xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa đều là tất yếu như nhau. Và, trên cơ sở phân tích một
cách sâu sắc quá trình phát triển của các quan hệ xã hội, C.Mác đã đi đến nhận thức
đúng đắn về vai trò lịch sử vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới với tư cách lực
lượng có khả năng cải tạo tận gốc các quan hệ xã hội, thủ tiêu tình trạng người bóc
lột người và xây dựng chế độ xã hội mới, tự giải phóng mình và qua đó, giải phóng
nhân loại.
Không chỉ khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, bằng sự phân tích khoa
học sâu sắc, C.Mác đã chứng minh rằng, chủ nghĩa cộng sản không phải là điều
mong ước của những người mơ mộng, mà là một sự vận động lịch sử hiện
thực nhằm xóa bỏ thể chế xã hội hiện tồn. “Đối với chúng ta, - C.Mác nhấn mạnh, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là
một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một
phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay”(2).
Không ai khác ngoài C.Mác đã phát hiện ra quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại
đương đại. Và, cũng chính C.Mác đã luận giải một cách sâu sắc và chứng minh một
cách có luận cứ cho khả năng trở thành hiện thực của quy luật tiến hóa đó trong một
học thuyết cách mạng triệt để và khoa học thật sự mang tên ông, trên cơ sở của thế
giới quan duy vật biện chứng. Đúng như Ph.Ăngghen, khi khẳng định phát kiến lớn
lao này của C.Mác, đã viết: “Trên hành tinh của chúng ta, Sáclơ Đácuyn đã tìm ra
quy luật phát triển của thế giới hữu cơ. Mác đã phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối

sự vận động và phát triển của lịch sử loài người”(3).
C.Mác, như Ph.Ăngghen đã khẳng định, “là một trong những người lỗi lạc hiếm có
trong suốt cả một thế kỷ”. Nhìn lại sự nghiệp sáng tạo lý luận và cuộc đời hoạt động
cách mạng của C.Mác, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng, ông không chỉ là
nhà bác học anh minh, nhà tư tưởng thiên tài, mà còn là một nhà cách mạng triệt để,
đầy nhiệt huyết. Những phẩm chất cao quý đó thống nhất làm một trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng và sáng tạo lý luận của C.Mác. Cống hiến lý luận và sức
sống tư tưởng của C.Mác cũng chính là cống hiến và sức sống của sự nghiệp cách


mạng - “sự nghiệp chân chính” mà ông suốt đời theo đuổi.
C.Mác, như Ph.Ăngghen nhận xét, còn là “con người của khoa học”. Với C.Mác,
khoa học là “một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng” và do vậy, ông đã
ra sức vận dụng những kiến thức mà nhân loại tích lũy được vào tất cả các lĩnh
vực mà ông am hiểu, “đặc biệt là trong lịch sử”, với một khát vọng lớn lao là đem
khoa học phục vụ những người bị áp bức và biến khoa học đó thành một vũ khí
trong tay bản thân quần chúng nhân dân lao động.
Toàn bộ sự nghiệp sáng tạo lý luận và cuộc đời hoạt động cách mạng với tư cách
nhà bác học anh minh, nhà tư tưởng thiên tài, nhà cách mạng vĩ đại đã đem lại
cho C.Mác vinh quang tột đỉnh của một vĩ nhân nổi trội nhất trong mọi thời đại và
trở thành một mẫu mực về tính khoa học và tình cảm cách mạng hết sức cao đẹp
của một con người luôn lấy đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của nhân loại tiến
bộ làm lẽ sống, lý tưởng và sứ mệnh của cả cuộc đời.
Với tư cách nhà tư tưởng của giai cấp vô sản cách mạng toàn thế giới, trong suốt
cuộc đời tìm tòi và sáng tạo lý luận cho giai cấp mà chính C.Mác đã trở thành
lãnh tụ, C.Mác không chỉ kế thừa và tiếp thu, mà còn phát triển sáng tạo tất cả
những gì tiến bộ, hợp lý trong các trào lưu tư tưởng xã hội tiên tiến của nhân loại,
đồng thời luôn kiểm nghiệm chúng trong thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản thế giới và của chính bản thân mình. Và, chính việc luôn tuân thủ một
cách nghiêm ngặt sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn này đã đem

lại cho C.Mác vinh quang của một người sáng lập học thuyết vừa mang tính khoa
học, vừa mang bản chất cách mạng, có khả năng làm thay đổi đời sống hiện thực
của cả nhân loại trong thời đại ngày nay. Cũng chính vì vậy mà học thuyết Mác
không chỉ mang giá trị lịch sử, mà còn mang ý nghĩa vạch thời đại, trở thành kim
chỉ nam, thành vũ khí lý luận sắc bén trong cuộc đấu tranh tự giải phóng và giải
phóng nhân loại của giai cấp vô sản toàn thế giới, thành cương lĩnh, nguyên tắc
hành động của các Đảng Cộng sản và Công nhân trên toàn thế giới. Nói về cống
hiến vĩ đại này của C.Mác, V.I.Lênin đã khẳng định: “Toàn bộ thiên tài của Mác
chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân
loại nêu ra… Học thuyết C.Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết
chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta


một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một
thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”(4). Và, khi
nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I.Lênin
đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó “về
bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng”. Sự phê phán đó là
“sự phê phán duy vật chủ nghĩa”, sự phê phán duy nhất mà C.Mác coi là “có tính
chất khoa học” và do vậy, nó mang lại cho học thuyết Mác, về bản chất, là cách
mạng. Tính khoa học và tính cách mạng - đó là những cái “hoàn toàn và tuyệt đối
vốn có củachủ nghĩa Mác”. Rằng, “sức hấp dẫn không gì cưỡng nổi đã lôi cuốn
những người xã hội chủ nghĩa của tất cả các nước đi theo lý luận đó, chính là ở
chỗ nó kết hợp tính chất khoa học chặt chẽ và cao độ (đó là đỉnh cao nhất của
khoa học xã hội) với tinh thần cách mạng, và kết hợp không phải một cách ngẫu
nhiên, không phải chỉ vì người sáng lập ra học thuyết ấy đã kết hợp trong bản
thân mình những phẩm chất của nhà bác học và của nhà cách mạng, mà là kết hợp
trong chính bản thân lý luận ấy, một sự kết hợp nội tại và khăng khít"(5).
Như vậy, theo V.I.Lênin, cái hạt nhân làm nên tính khoa học và bản chất cách
mạng của học thuyết Mác, chủ nghĩa Mác chính là thế giới quan duy vật biện

chứng của C.Mác - cái thế giới quan mà với nó, ông đã cùng với Ph.Ăngghen xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng
thống nhất với nhau một cách hữu cơ thành một hệ thống chỉnh thể - chủ nghĩa
duy vật biện chứng, một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ
nghĩa duy vật triết học.
Khi xây dựng hệ thống triết học của mình với tư cách "linh hồn sống" của một
học thuyết cách mạng triệt để và khoa học thật sự, C.Mác không chỉ kế thừa một
cách có chọn lọc và phê phán những thành tựu của tư duy nhân loại, những thành
quả sáng tạo lý luận của các nhà triết học trong lịch sử triết học nhân loại, trực
tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, mà
còn khái quát hóa những thành tựu mới nhất của khoa học đương thời, cũng như
thực tiễn lịch sử nhân loại mà trước hết, là thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai
cấp vô sản toàn thế giới. Do vậy, có thể nói, sự ra đời của triết học Mác là một tất
yếu lịch sử không những vì nó là sự phản ánh khách quan thực tiễn xã hội, mà còn


là sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại, đúng như V.I.Lênin đã
khẳng định, "lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội" đã chứng tỏ một cách
hết sức rõ ràng rằng, chủ nghĩa Mác nói chung, triết học của ông nói riêng "không
có gì giống "chủ nghĩa bè phái" hiểu theo nghĩa một học thuyết đóng kín và cứng
nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới"(6).
Triết học Mác ra đời đã khắc phục được sự tách rời thế giới quan duy vật và phép
biện chứng. Song, nó không phải là sự "lắp ghép" đơn thuần phép biện chứng với
đỉnh cao là phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật với đỉnh cao là chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, C.Mác đã
phải tiến hành phê phán và cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm của Hêghen
và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc, tạo ra một phương pháp tư duy biện
chứng "không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập
hẳn với phương pháp ấy"(7) và giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu
hình vốn có, tính hạn chế "đặc thù" của nó, làm cho nó trở nên "hoàn bị" và được

mở rộng "từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người", sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách "thành tựu vĩ đại nhất
của tư tưởng khoa học"(8).
Trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn, thực sự khoa học "vấn đề cơ bản lớn
của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại" - vấn đềquan hệ giữa tư duy và
tồn tại, giữa vật chất và ý thức, C.Mác đã không chỉ xây dựng nên một hệ thống
triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật biện chứng thống nhất với phép biện
chứng duy vật thành một chỉnh thể, mà còn đưa ra tuyên ngôn của một nền triết
học hành động, triết học thực tiễn, khi khẳng định hoạt động của con người là
"hoạt động khách quan", hoạt động thực tiễn và "vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là
một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn" và "chính trong thực tiễn mà con
người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh,
tính trần tục của tư duy của mình"(9). Rằng, triết học phải lấy sinh khí của mình
và tự tạo ra sinh khí đó từ thực tiễn và do vậy vai trò xã hội của nó, vị trí không
thể thay thế của nó trong hệ thống tri thức khoa học, cũng như sứ mệnh lịch sử
lớn lao của nó trong đời sống nhân loại không phải là ở chỗ "giải thích thế giới


bằng nhiều cách khác nhau, mà là ở chỗ "cải tạo thế giới" bằng cách mạng"(10).
Ở Hêghen, “phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất", C.Mác đã "dựng nó
lại" và bằng cách này, ông đã "phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng
sau lớp vỏ thần bí". Và, "dưới dạng hợp lý của nó", phép biện chứng của C.Mác
đã "đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư sản và bọn tư tưởng gia giáo
điều của chúng", bởi "trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại", phép
biện chứng ấy cũng đồng thời "bao hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện
đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó"; bởi "mỗi hình thái đã hình thành"
đều được nó xem xét "trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái
đó"; và bởi, với phép biện chứng ấy, không một cái gì khiến nó phải "khuất phục"
và, "về thực chất", nó mang "tính chất phê phán và cách mạng"(11).

Trên cơ sở khái quát những thành quả mới nhất của khoa học đương thời và xác
định đúng đắn những quy luật vận động và phát triển chung nhất của thế giới,
đồng thời phân định rõ và tìm ra sự thống nhất về cơ bản giữa biện chứng khách
quan và biện chứng chủ quan, C.Mác không chỉ cải tạo triệt để phép biện chứng
duy tâm khách quan mà đỉnh cao là ở Hêghen, mà còn khắc phục được những hạn
chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại mà Hêraclít là người sáng lập,
làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học. Khoa học đó, như
Ph.Ăngghen đã khẳng định, là "khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận
động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy"(12).
Khoa học triết học này không chỉ là thế giới quan khoa học của giai cấp công
nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại ngày nay, mà còn trở thành một sự cần
thiết tuyệt đối, thành "hình thức tư duy quan trọng nhất", cao nhất, thích hợp nhất
đối với sự phát triển của khoa học hiện đại. Nó đem lại cho các khoa học hiện đại
những chức năng có ý nghĩaphương pháp luận trong việc xem xét, lý giải bản thân
sự phát triển của mình. Không chỉ thế, với bản chất cách mạng và khoa học, nó còn
đem lại một cơ sở đúng đắn cho việc luận chứng và giải thích những hiện tượng của
đời sống xã hội, nhất là cho việc "cải tạo thế giới" hiện thực. Nó cũng đem lại cho
chúng ta không chỉ quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển trong nhận thức, trong
hoạt động thực tiễn, mà cả quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, giải quyết mọi
vấn đề do thực tiễn đặt ra.


Vận dụng triết học duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc xem
xét xã hội, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người, C.Mác
không chỉ làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị, triệt để, mà còn hơn thế
nữa, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tư cách "một cuộc cách mạng trong
toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới". Khi khẳng định "chủ nghĩa duy vật lịch
sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học", V.I.Lênin đã coi đó là
"một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ". Lý luận này đã thay thế
cho "sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước tới nay trong các quan niệm về

lịch sử và chính trị", đồng thời chỉ cho chúng ta thấy rằng, "do chỗ lực lượng sản
xuất lớn lên, thì từ một hình thức tổ chức đời sống xã hội này, nảy ra và phát triển
lên như thế nào một hình thức tổ chức đời sống xã hội khác, cao hơn"(13).
Với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác không chỉ loại bỏ được
khiếm khuyết căn bản của những lý luận lịch sử trước đó và "lần đầu tiên” giúp
chúng ta “nghiên cứu một cách chính xác như khoa lịch sử tự nhiên, những điều
kiện xã hội của đời sống quần chúng và những biến đổi của những điều kiện ấy",
mà còn "mở đường cho việc nghiên cứu rộng rãi và toàn diện quá trình phát sinh,
phát triển và suy tàn của các hình thái kinh tế xã hội"(14). Và, khi nghiên cứu một
xã hội cụ thể - xã hội tư bản với quan niệm này, C.Mác đã khám phá ra các quy
luật của sự phát triển xã hội, xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội và quan niệm về sự phát triển xã hội với tư cách một quá trình lịch sử - tự
nhiên. Đúng như V.I.Lênin đã chỉ rõ, khi nghiên xã hội tư bản với tư cách một
chỉnh thể xã hội, C.Mác đã "làm nổi bật riêng lĩnh vực kinh tế" và trong tất cả
mọi quan hệ xã hội, "làm nổi bật riêng những quan hệ sản xuất, coi đó là những
quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mọi quan hệ khác"; đồng thời, "đem
quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan
hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất". Bằng cách đó, V.I.Lênin
khẳng định, C.Mác đã "có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"(15).
Trong toàn bộ lịch sử tư tưởng xã hội, V.I.Lênin nhấn mạnh, quan niệm duy vật
về lịch sử của C.Mác là một "quan niệm khoa học duy nhất về lịch sử", "một
nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học" và do vậy, tư tưởng coi sự


phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên của
ông, "tự bản thân nó, cũng đã là một tư tưởng thiên tài rồi"(16).
"Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật". Khi xây dựng hệ thống triết
học của mình, C.Mác không chỉ làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một
khoa học và sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà còn tạo ra bước ngoặt cách

mạng trong quan niệm về con người và giải phóng con người.
Coi tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người - đó là con người phải có
khả năng sống rồi mới có thể "làm ra lịch sử", C.Mác cho rằng, hành vi lịch sử
đầu tiên của con người là "sản xuất ra bản thân đời sống vật chất". Với quan niệm
này, khi phê phán quan điểm duy tâm tư biện của Hêghen về con người, C.Mác đã
đưa ra quan niệm coi con người là một thực thể sinh học - xã hội hiện thực và
khẳng định "con ngườikhông phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở
ngoài thế giới", mà "con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã
hội"(17).
Với việc đặt ra theo một cách mới nhiệm vụ nhận thức đời sống xã hội hiện thực
của con người, C.Mác đã triệt để phê phán quan điểm của Phoiơbắc về con người.
Và, khi phê phán Phoiơbắc đã "hòa tan thế giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của
nó", "hòa tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người", C.Mác đã khẳng định:
"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội"(18).
Với luận điểm coi "giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người", C.Mác đã
khẳng định rằng, "con người là một bộ phận của giới tự nhiên"(19). Song, hoạt
động sinh sống của con người, theo C.Mác, là "hoạt động sinh sống có ý thức" và
do vậy, bằng hoạt động lao động của mình, con người đã làm biến đổi bản chất tự
nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình. Rằng, con người không chỉ sống
trong môi trường tự nhiên, mà còn sống trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và
xã hội trong mỗi con người gắn bó khăng khít với nhau; yếu tố sinh học trong mỗi
con người không phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà chúng hòa quyện vào
nhau và tồn tại trong yếu tố xã hội; do vậy, bản tính tự nhiên được chuyển vào
bản tính xã hội và được cải biến ở trong đó. Và, chỉ có trong xã hội, con người


mới thể hiện bản chất tự nhiên và xã hội của mình; do vậy, tự nhiên và xã hội
thống nhất với nhau trong bản chất con người, làm cho con người trở thành một

chỉnh thể tồn tại với cả hai mặt tự nhiên và xã hội, hình thành nên mối quan hệ
khăng khít: Con người - tự nhiên - xã hội.
Khẳng định "bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội", C.Mác còn
tiến hành phân tích vị thế chủ thể, vai trò sáng tạo lịch sử của con người. Xem xét
vị thế của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác đã đi đến quan
niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định
bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất - "kết quả của nghị lực thực tiễn của con
người". Hoạt động thực tiễn này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi những điều kiện
sinh tồn của con người, bởi "một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có những
lực lượng sản xuất ấy". Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những lực
lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho hoạt
động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này mà con người đã
"hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài người".
Lực lượng sản xuất và do đó, cả quan hệ sản xuất - quan hệ xã hội của con người,
ngày càng phát triển thì "lịch sử đó càng trở thành lịch sử loài người". Với quan niệm
này, C.Mác kết luận: "Xã hội… là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người", "lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân
của những con người"(20); và con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến
trình phát triển lịch sử, con người làm nên lịch sử của chính mình và do vậy, lịch sử
là lịch sử của con người, do con người và vì con người.
Khẳng định bản chất xã hội của con người và vị thế chủ thể sáng tạo lịch sử của
con người, C.Mác còn đi đến quan niệm rằng, trình độ giải phóng xã hội luôn được
thể hiện ra ở sự tự do của xã hội; giải phóng cá nhân tạo ra động lực cho sự giải
phóng xã hội và đến lượt mình, giải phóng xã hội lại trở thành điều kiện thiết yếu
cho sự giải phóng cá nhân; con người tự giải phóng mình và qua đó, giải phóng xã
hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Rằng, con người được giải phóng và được tự do phát
triển toàn diện - đó là một trong những đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội mới,
chế độ xã hội mà giai cấp vô sản cách mạng và chính đảng của nó có sứ mệnh phải
xây dựng.



Với cách đặt vấn đề như vậy, C.Mác đã coi giải phóng con người, phát triển con
người toàn diện, "phát triển sự phong phú của bản chất con người" là "mục đích tự
thân" của sự phát triển và tiến bộ xã hội(21). Giải phóng con người, phát triển con
người toàn diện cùng với phát triển lực lượng sản xuất là "phương hướng duy nhất"
để không chỉ "làm tăng thêm nền sản xuất xã hội", mà còn để "sản xuất ra những
con người phát triển toàn diện" và hơn nữa, còn là "một trong những biện pháp
mạnh nhất" để cải biến xã hội hiện tồn, đưa cả cộng đồng nhân loại đi vào quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội(22).
Như vậy, có thể khẳng định, học thuyết Mác về con người và giải phóng con người
chính là cái đã cùng với luận điểm của ông về sứ mệnh cao cả của triết học - không
chỉ "giải thích thế giới", mà còn phải "cải tạothế giới" bằng cách mạng và quan
niệm duy vật về lịch sử mà ông là người đầu tiên phát hiện ra đã làm nên một cuộc
cách mạng vĩ đạitrong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại và mang lại cho triết học
Mácvinh quang tột đỉnh của một học thuyết cách mạng triệt để và khoa học thật sự.
Chính vì lẽ đó mà V.I.Lênin khẳng định học thuyết của C.Mác là "học thuyết vạn
năng", "học thuyết chính xác", "học thuyết hoàn bị và chặt chẽ" đã cung cấp cho
chúng ta "một thế giới quan hoàn chỉnh" đểnhận thức và cải tạo thế giới; rằng "triết
học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật", "chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác
là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học" và trong thời đại ngày nay - thời
đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, triết học Mác là học thuyết cách mạng nhất, khoa
học nhất, “nó cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân những
công cụ nhận thức vĩ đại"(23) để cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới.
Với tư cách một học thuyết cách mạng về bản chất, khoa học về thực chất, triết học
Mác không chỉ có giá trị lịch sử, mà còn mang ý nghĩa thời đại, mang hơi thở và
sức sống của thời đại và do vậy, không chỉ trường tồn trong thế kỷ XXI này, mà
còn mãi trường tồn với lịch sử nhân loại.
Ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác là ở chỗ, các giá trị bền
vững trong hệ thống triết học này đã, đang và vẫn sẽ là cơ sở lý luận nền tảng, phương
pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới bằng cách mạng; còn những hạn

chế lịch sử trong một số luận điểm, quan điểm, tư tưởng cụ thể nào đó thì tự thân tính


khoa học và bản chất cách mạng của hệ thống triết học này cũng đặt ra yêu cầu phải
bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới.
Thật vậy, trong thời đại ngày nay, chỉ có triết học Mác mà hạt nhân của nó là phép
biện chứng duy vật mới có khả năng giải đáp một cách khoa học những vấn đề mà
tư tưởng tiến bộ của nhân loại đã đặt ra, soi sáng những nhiệm vụ lịch sử đã chín
muồi của xã hội loài người - giải phóng con người và nhân loại, cải biến và xây
dựng chế độ xã hội mới mà trong đó, tự do, công bằng, bình đẳng, dân chủ và văn
minh là những giá trị nền tảng.
Không chỉ thế, triết học Mác với phát kiến vĩ đại là quan niệm duy vật về lịch sử
mà nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã và vẫn đang cho thấy ý
nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của nó. Lý luận này của C.Mác, ngay từ khi
mới ra đời, đã phải hứng chịu sự phê phán của những người phản đối, bác bỏ nó.
Giờ đây, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, sự phê
phán đó lại càng trở nên quyết liệt hơn nữa với những lập luận về cái gọi là "quy
luật chung", "con đường phát triển chung" mà tất cả các dân tộc, dù ở trong điều
kiện lịch sử nào, cũng nhất thiết phải tuân theo. Thực tiễn lịch sử nhân loại cũng
cho thấy rằng, sự phát triển của xã hội loài người theo các hình thái kinh tế - xã hội
hay theo lịch sử thế giới đã không diễn ra một cách đơn tuyến hay theo một
phương thức đặc thù nào đó. Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, như
Ph.Ăngghen nhận xét, những cái gì diễn ra không đúng theo ý nghĩa hình thái kinh
tế - xã hội lại có thể đúng theo ý nghĩa lịch sử toàn thế giới. Con đường phát triển
của các dân tộc, các quốc gia khác nhau đã diễn ra một cách không giống nhau và
đó chính là biểu hiện của tính đa dạng, phong phú, phổ biến và tự biến đổi của lịch
sử nhân loại mà C.Mác đã nói đến khi cho rằng, "xã hội ngày nay hoàn toàn không
phải là một khối kết tinh vững chắc, mà một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn ở
trong quá trình biến đổi"(24). Tuy nhiên, trong sự phát triển khác nhau đó, vẫn
chứa đựng một số quy luật chung và chính các quy luật này đã buộc các dân tộc, các

quốc gia, trong khi phát triển một cách đa dạng, vẫn phải trải qua một số giai đoạn
tương đồng nhau, kể cả dưới hình thức phát triển "rút ngắn", để cùng tạo nên
những hình thái kinh tế - xã hội đan xen nhau, kế tiếp nhau của lịch sử thế giới.
Bởi lẽ, như C.Mác đã khẳng định, "sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã


hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên" và "một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện
được quy luật tự nhiên của sự vận động của nó,… cũng không thể nào nhảy qua các
giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó", mặc
dầu nó "có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ"(25).
Do vậy, có thể nói, trong thời đại ngày nay, trước sự phát triển hết sức đa dạng và
vô cùng phức tạp của các dân tộc, các quốc gia thì quan niệm duy vật về lịch sử mà
nội dung cốt lõi là lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác vẫn cứ là công cụ
sắc bén nhất giúp chúng ta nhận thứcvà tìm ra tiến trình vận động và phát triển của
xã hội loài người. Và, hơn nữa, với lý luận này của C.Mác, chúng ta vẫn hoàn toàn
có thể tin tưởng vững chắc rằng, dẫu lịch sử nhân loại ngày nay có phải trải qua sự
vận động và phát triển với những khúc quanh co, phức tạp, kể cả bước thụt lùi, thì
xu hướng chung của nó vẫn cứ diễn ra theo con đường lịch sử - tự nhiên là sự thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội và đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một
tất yếu khách quan, bởi đó là quy luậttiến hóa của lịch sử nhân loại.
Cùng với phép biện chứng duy vật và quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết
Mác về con người và giải phóng con người, giải phóng nhân loại cũng là cái làm
nên ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác. Bởi lẽ, như thực tiễn
lịch sử phát triển nhân loại đã chứng tỏ, mọi sự phát triển của xã hội sẽ chẳng có ý
nghĩa gì và cũng chẳng là gì cả, nếu ở đó con người không được giải phóng, con
người không được tự do phát triển những năng khiếu thể chất và trí lực của mình.
Thực tiễn lịch sử phát triển nhân loại cũng cho thấy học thuyết Mác về con người,
về giải phóng con người và nhân loại khỏi mọi sự tha hóa để con người được tự do
phát triển, được sống với bản chất người đích thực, với chữ Người viết hoa vẫn còn
nguyên giá trị trong đại ngày nay, vẫn là nguồn cổ vũ, khích lệ, thúc đẩy và là kim

chỉ nam dẫn đường cho chúng ta trong cuộc đấu tranh vì con người, cho con người
và giải phóng con người, giải phóng nhân loại, vẫn soi sáng con đường cách mạng
tự giải phóng của nhân loại tiến bộ trên thế giới. Rằng, học thuyết này, ý nghĩa nhân
đạo và giá trị nhân văn của nó, luận điểm nổi tiếng của C.Mác về "sự phát triển tự do
của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" và lý tưởng
cao cả, mục đích duy nhất mà ông hướng tới là đưa "con người từ vương quốc của tất
yếu sang vương quốc của tự do" càng chứng tỏ triết học Mác duy nhất làtriết học nhân


văn tích cực, triết học nhân văn hiện thực, có khả năng cải tạo thế giới và do vậy, triết
học đó luôn mang ý nghĩa thời đại và mãi trường tồn với lịch sử nhân loại.
"Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại mình"(26).
C.Mác đã khẳng định như vậy. Triết học Mác cũng thế, nó là"tinh hoa" của thời
đại chúng ta. Triết học Mác, với hạt nhân là phép biện chứng duy vật - khoa học về
những quy luật phổ biến nhất của tự nhiên, của xã hội và của tư duy con người, với
quan niệm duy vật về lịch sử - thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học, lấy con
người làm trung tâm, lấy giải phóng con người, giải phóng nhân loại và phát triển
con người toàn diện làm mục tiêu cuối cùng, không chỉ là "tinh hoa" của thời đại
chúng ta - thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, mà còn
là tinh hoa trí tuệ của toàn nhân loại, là sự kết tinh những tinh hoa tư tưởng triết học
của nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của nó. Với tư cách
đó, triết học Mác không chỉ mang ý nghĩa thời đại, mà còn mãi trường tồn với lịch sử
nhân loại.
Cái làm nên giá trị và sức sống trường tồn của triết học Mác không chỉ ở bản chất
cách mạng triệt để và tính khoa học thật sự sâu sắc của nó, ở vai trò thế giới quan
và phương pháp luận của nó - kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới của cả nhân loại tiến bộ, mà còn ở sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực
tiễn - cái mà C.Mác luôn coi là nguyên tắc nên tảng khi xây dựng học thuyết của
mình. Chính C.Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào triết học và coi đó là cơ sở, là
động lực, là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn khách quan, tối cao của chân

lý. Với phạm trù thực tiễn này và khi coi sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực
tiễn là nguyên tắc nền tảng trong hệ thống triết học của mình, C.Mác luôn nhấn
mạnh rằng, triết học của ông, học thuyết của ông không phải là giáo điều, mà là
kim chỉ nam cho hành động.
Không chỉ thế, cái làm nên giá trị và sức sống trường tồn của triết học Mác còn
ở sự thống nhất giữa tính mở, tính phát triển của hệ thống lý luận và tính ổn định
của lập trường duy vật biện chứng, ý nghĩa phương pháp luận của nó. Toàn bộ hệ
thống triết học của C.Mác là một hệ thống lý luận mở và phát triển, không khép
kín, không ngưng đọng và bất biến. Tính mở và phát triển của triết học Mác được
thể hiện ở chỗ, nó luôn hướng về thực tiễn - xã hội và lịch sử, hướng về thời đại,


về tương lai, chứ tuyệt nhiên không phải là thứ lý luận kinh viện. Chính C.Mác, khi
coi mọi triết học chân chính đều là "tinh hoa" của thời đại, đã khẳng định rằng, với
tư cách đó, "triết học, không chỉ về bên trong, theo nội dung của nó, mà cả về bên
ngoài, theo sự biểu hiện của nó”, luôn tiếp cận và tác động qua lại với thế giới hiện
thực ở thời đại mình; khi đó, “triết học sẽ không còn là một hệ thống nhất định đối
với các hệ thống nhất định khác, nó trở thành triết học nói chung đối với thế giới,
trở thành triết học của thế giới hiện đại…, trở thành linh hồn sống của văn hóa,…
thành triết học thế tục, còn thế giới thì trở thành thế giới triết học". Rằng, "triết học
không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý…, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết
luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi"(27). Triết học Mác là
một lý luận như thế. Nó không những không lảng tránh, mà còn luôn nhìn thẳng
vào sự thật, lấy cái bất biến là thế giới quan duy vật biện chứng và ý nghĩa phương
pháp luận để hướng dẫn, giải quyết những vấn đề cơ bản và bức thiết do thực tiễn,
do hiện thực cuộc sống đặt ra; đồng thời nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, khái quát
lý luận và dự báo tương lai. Triết học Mác đối xử với các hệ thống triết học khác
cũng theo cách đó, theo tinh thần đó để không bác bỏ chúng một cách sạch trơn,
mà kế thừa những hạt nhân hợp lý, những tinh hoa của chúng. Chính vì thế mà triết
học Mác có khả năng tự đổi mới và phát triển, trở thành kim chỉ nam cho hành

động, mở đường và hướng dẫn nhân loại tiến bộ tiếp tục tìm kiếm và nhận thức chân
lý, chứ không đi tới chân lý tuyệt đỉnh, cuối cùng.
Triết học Mác là một hệ thống mở và phát triển, chứ không phải là cái gì đó nhất
thành bất biến và do vậy, trong nó còn có những hạn chế nào đó cần phải khắc phục,
bổ sung, phát triển thêm thì đó cũng là lẽ tất yếu. C.Mác là một nhà bác học vĩ đại,
nhà tư tưởng thiên tài, nhưng ông cũng là “sản phẩm của thời đại của mình” và do
vậy, ông vẫn bị quy định bởi chính những điều kiện lịch sử của thời đại mình nên
không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Những hạn chế nào đó trong triết học
Mác là do lịch sử thời đại quy định, song chúng tuyệt nhiên không làm giảm giá trị thế
giới quan và phương pháp luận, giá trị gợi mở và định hướng cũng như bản chất cách
mạng và tính khoa học của nó.
Hiện nay, do bối cảnh lịch sử quy định và do những biến cố hiện thời của lịch sử nhân
loại, một số luận điểm, quan niệm nào đó của C.Mác đã trở nên không còn thích hợp


với điều kiện lịch sử mới, song không phải vì thế mà triết học Mác mất đi ý nghĩa thời
đại của nó. Bản chất cách mạng và tính khoa học của nó vẫn mãi trường tồn với lịch
sử nhân loại, vẫn là cơ sở nền tảng để có thể khẳng định “kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin là vấn đề có tính nguyên tắc số một” đối với chúng ta trong công cuộc đổi mới
đất nước.
Ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác chính là cơ sở để chúng ta
khẳng định xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã xác định khi lựa chọn con
đường đổi mới là hoàn toàn đúng đắn và có cơ sở khoa học. Sự đúng đắn và cơ sở
khoa học đó bắt nguồn từ bản chất cách mạng và tính khoa học của triết học Mác.
Chúng ta kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, triết học Mác - Lênin không có nghĩa là áp
dụng một cách nguyên xi, máy móc, mà là vận dụng một cách khoa học và sáng tạo
những tư tưởng, nguyên lý, quy luật nền tảng của nó trong những điều kiện lịch sử
mới và phù hợp với thực tiễn đất nước. Những thành công rất đáng tự hào của hơn 20
năm đổi mới đã chứng minh điều đó.
Do vậy, có thể nói, đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với việc kiên

trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở nhận thức lại, nhận thức
đúng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của triết học Mác nói riêng, chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung, thông qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn thời
đại, thực tiễn đổi mới ở Việt Nam không chỉ là quá trình thống nhất hữu cơ lý luận với
thực tiễn, là vấn đề hết sức cần thiết, mang cả ý nghĩa lý luận lẫn ý nghĩa thực tiễn cấp
bách, mà còn là phương thức đúng đắn để triết học Mác mãi mang ý nghĩa thời đại và
sức sống trường tồn của nó với thời đại chúng ta.

(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Phó tổng biên tập Tạp chí Triết học.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.23. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.57-58.
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.51.
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.19, tr.496.
(4) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.49-50.


(5) V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.421.
(6) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.49.
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.35.
(8) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.53.
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.9, 10.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.12.
(11) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.35-36.
(12) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.20, tr.201.
(13) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.53.
(14) V.I.Lênin. Sđd., t.26, tr.68.
(15) V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.159, 163.
(16) V.I.Lênin. Sđd., t.1, tr.166,161.
(17) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.569.
(18) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.3, tr.11.
(19) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.42, tr.135.

(20) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.27, tr.657, 658.
(21) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.26, ph.II, tr.168.
(22) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.688.
(23) V.I.Lênin. Sđd., t.23, tr.54.
(24) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.22.
(25) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.21.
(26) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.157.
(27) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.1, tr.157, 159

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG DÂN SINH CỦA TÔN


TRUNG SƠN

NGUYỄN TÀI THƯ(*)
Dân sinh là một trong những tư tưởng nổi bật trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn
Trung Sơn. Để làm rõ những giá trị trong tư tưởng dân sinh, tác giả bài viết đã tập
trung phân tích một số nội dung cơ bản nhất - đó là: 1/ Mưu cầu dân sinh là nguồn
gốc của tiến hoá lịch sử; 2/ Các nhu cầu sống của con người (ăn, mặc, ở và đi lại) là
vấn đề cơ bản của dân sinh; 3/ Giảm bớt sự bất công và tiến tới xoá bỏ hoàn toàn sự
bất công là hai cấp độ trong việc giải quyết vấn đề dân sinh; 4/ Thế giới đại đồng lý tưởng của chủ nghĩa dân sinh. Theo tác giả, tuy còn có những hạn chế nhất định,
song chủ nghĩa dân sinh của Tôn Trung Sơn chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị cần
được trân trọng, khai thác và phát huy.
“Tư tưởng dân sinh” hay “chủ nghĩa dân sinh” là một trong ba bộ phận cấu thành
“chủ nghĩa tam dân” của Tôn Trung Sơn. Mỗi bộ phận đó đều có vai trò riêng của
nó, đồng thời lại là điều kiện tồn tại và phát triển của nhau. Có giải quyết được vấn
đề dân tộc (chủ nghĩa dân tộc) thì mới có điều kiện thiết lập chế độ dân chủ (chủ
nghĩa dân quyền) và cải thiện đời sống của người dân (chủ nghĩa dân sinh); đồng
thời, có thiết lập được chế độ dân chủ thì mới đẩy mạnh được việc giải quyết vấn đề
dân tộc và vấn đề dân sinh; ngược lại, có giải quyết được vấn đề dân sinh thì mới có

điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề dân tộc, dân quyền. Nhưng, xét về
phương diện phải thực hiện lâu dài thì dân sinh là vấn đề cơ bản hơn cả.
Trong truyền thống tư tưởng Trung Quốc đã từng xuất hiện một số khái niệm gắn với
chữ “dân”, như “dân bản” (dân là gốc nước), “dân tín” (lòng tin của dân), “dân
nguyện” (nguyện vọng của dân), “quốc kế dân sinh” (kinh tế quốc gia và cuộc sống
nhân dân). Đến Tôn Trung Sơn, căn cứ vào nhiệm vụ cách mạng đương thời, ông
nêu lên các khái niệm “dân sinh” và “chủ nghĩa dân sinh”. Các khái niệm này có nội
dung và tính chất khác so với trước đây. Ông nói: “Dân sinh là đời sống của nhân
dân, sinh tồn của xã hội, sinh kế của quốc dân, sinh mệnh của quần chúng”(1). Theo
nội dung trình bày của ông, chủ nghĩa dân sinh là một hệ thống các quan điểm về đời
sống của dân và các biện pháp nâng cao đời sống đó để thúc đẩy sự tiến hoá của lịch
sử. Tôn Trung Sơn còn gọi “chủ nghĩa dân sinh là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng


sản, tức là chủ nghĩa đại đồng”(2). Quan điểm trên được ông quán triệt trong lý luận
về “chủ nghĩa tam dân” cũng như trong chuyên luận về “chủ nghĩa dân sinh”.
Cũng nói tới dân, nhưng bình diện để xem xét vấn đề dân ở Tôn Trung Sơn có khác
so với tiền nhân trong lịch sử Trung Quốc. Nếu tư tưởng “dân bản” của sách
“Thượng thư”, tư tưởng “dân tín” của Khổng Tử, tư tưởng “dân vi quý” của Mạnh
Tử, tư tưởng “dân là nước, vua là thuyền” của Tuân Tử xuất phát từ lập trường chính
trị, thì tư tưởng “dân sinh” của Tôn Trung Sơn lại xuất phát từ lập trường kinh tế.
Nếu sự coi trọng dân của các tiền nhân nhằm củng cố địa vị của giai cấp thống trị, thì
sự quan tâm đến dân của Tôn Trung Sơn là để ổn định đời sống xã hội và tạo động
lực cho sự phát triển lịch sử. Quan điểm của ông được nâng lên một trình độ cao hơn.
Theo một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, tư tưởng “Tam dân”, trong đó có tư tưởng
“dân sinh” đã được Tôn Trung Sơn suy nghĩ tới từ những năm cuối thế kỷ XIX, song
cho đến năm 1903 mới được công bố công khai trên số đầu của tờ Dân báo. Năm
1924, ông có bổ sung và phát triển. Từ đó đến nay, tư tưởng về “dân sinh” cũng như
“chủ nghĩa tam dân” của ông luôn được giới học giả quan tâm nghiên cứu.
1. Mưu cầu dân sinh là nguồn gốc của tiến hoá lịch sử

Trước và sau Cách mạng Tân Hợi (1911), vấn đề nguồn gốc của an sinh xã hội và
tiến hoá lịch sử trở nên bức bách đối với người Trung Quốc. Giới hoạt động xã hội
và nghiên cứu lý luận đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này; bởi vì, so với thời gian trước,
họ có điều kiện xã hội thuận lợi để tìm hiểu thế giới, so sánh Trung Quốc với các
nước khác, nhất là với phương Tây và Nhật Bản. Cảnh Trung Quốc nghèo nàn, lạc hậu
khiến nhiều người phải đau lòng. Nhiều câu hỏi được đặt ra: hiện tượng đó là do Nho
giáo kìm hãm Trung Quốc, do khoa học kỹ thuật không phát triển, do bị chế độ quân
chủ chuyên chế kìm kẹp hoặc do truyền thống chỉ chú trọng văn minh tĩnh? Tóm lại,
sự lạc hậu và trì trệ của Trung Quốc là do đâu? Và cái gì là động lực của sự phát triển
lịch sử Trung Quốc? Đó là những vấn đề thời sự cấp bách. Để giải thích các câu hỏi
đó, người ta đã xoay quanh các vấn đề “biến” và “tiến hoá”. Ở đây, đã xuất hiện một
số quan điểm tiêu biểu.
Khang Hữu Vi (1814 - 1864), nhà cải lương tư sản, chủ trương phải phát huy chữ
“biến” của Kinh Dịch. Ông đã trình bày nhiều, nhưng khái quát lại có ba điểm: một
là, có tương phản thì mới có tương thành, có đối lập thì mới có tiến hoá (Luận ngữ


chú); hai là, tiến hoá là có thời “cái lý của tiến hoá, có con đường nhất định, không
thể vượt qua, khi thời đến tự nó biến thông” (Trung dung chú); ba là, tiến hoá diễn ra
một cách tuần tự từ thời “cứ loạn” đến thời “thăng bình” rồi thời “thái bình” (Tam
thế thuyết). Nhưng lý thuyết “biến” và “tiến hóa” đó không đủ để giải thích con
đường phát triển sắp tới của Trung Quốc, không thể trở thành cơ sở của hành động.
Nghiêm Phục (1853 – 1921) là một nhà tư tưởng khai sáng thời cận đại của Trung
Quốc. Ông dịch lý thuyết tiến hoá luận của các nhà tiến hoá luận phương Tây ra
tiếng Trung Quốc, đồng thời phát huy tư tưởng đó. Việc làm của Nghiêm Phục được
sự hưởng ứng rộng rãi của giới học thuật Trung Quốc đương thời. Tuy nhiên, ông
cũng nhận thấy rằng, nếu chấp nhận lý thuyết tiến hoá luận: “vật cạnh thiên trạch,
thích giả sinh tồn” (các vật cạnh tranh với nhau và trời lựa chọn, cái gì thích hợp thì
sinh tồn); mạnh được yếu thua là quy luật của tiến hoá, thì vô hình trung đã thừa
nhận sự lạc hậu của Trung Quốc là do số phận định sẵn. Do đó, ông phải giải thích

khác đi; cho rằng, “Nguồn gốc tiến hoá là ở chỗ cạnh tranh trong việc bồi dưỡng dân
lực, dân trí, dân đức” (Nguyên Cường). Nhưng, bồi dưỡng như thế nào thì ông lại
không lý giải rõ được, vì vậy khó trở thành cơ sở tư tưởng để hành động.
Loại quan điểm khác tuy thừa nhận giá trị của thuyết tiến hoá, nhưng cho rằng nó chỉ
thích hợp với lĩnh vực tinh thần. Đó là quan điểm của Lương Khải Siêu (1873 1929). Ông viết: “Cái văn minh vật chất có gốc rễ giòn và mỏng hết sức, chỉ như là
ánh chớp, lửa đá lướt qua. Sự phát đạt nói chung, trên lịch sử vốn không đáng giá
mấy đồng tiền. Cho nên lấy những cái đó làm căn cứ của tiến hoá, tôi dùng một câu
trong Phật điển để nhận định: “Thật là kẻ đáng thương hại!” (Mấy vấn đề quan trọng
của nghiên cứu lịch sử văn hoá). Khi loại văn minh vật chất ra khỏi nội dung của tiến
hoá, về thực chất, Lương Khải Siêu đã phủ nhận vai trò của tiến hoá trong lịch sử.
Khác với các nhà tư tưởng trên, Tôn Trung Sơn quan niệm rằng, sự tiến hoá diễn ra
cả trong lịch sử lẫn trong lĩnh vực vật chất và tinh thần; rằng, động lực của tiến hoá
không phải là cạnh tranh sinh tồn, không phải chỉ là bồi dưỡng khả năng của con
người, mà còn là sự mưu cầu sinh sống của toàn thể xã hội. Ông nói: “Định luật của
tiến hoá xã hội là nhân loại mưu cầu sinh tồn, nhân loại mưu cầu sinh tồn mới là
nguyên nhân của tiến hoá xã hội”(3); “Nhân loại mưu cầu sinh tồn mới là định luật
của tiến hoá xã hội, mới là trọng tâm của lịch sử”(4) và “Dân sinh là nguyên động


lực của mọi hoạt động trong xã hội”(5). Tiếp thu tiến hoá luận của phương Tây,
nhưng Tôn Trung Sơn đã sửa chữa nó bằng nhận thức riêng của mình.
Quan điểm xem dân sinh là “nguyên động lực” của tiến hoá lịch sử có mặt tích cực
đối với xã hội Trung Quốc đương thời. Nó coi trách nhiệm của nhà cầm quyền là
phải quan tâm và tìm cách nâng cao đời sống vật chất của nhân dân. Đồng thời, do
quan niệm này, chính quyền của Tôn Trung Sơn cũng đã sử dụng các biện pháp của
chủ nghĩa tư bản để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo dân sinh, như ban hành các chính
sách giúp đỡ nông dân và công nhân, lập các xí nghiệp sản xuất, xây dựng đường
giao thông, tổ chức các hợp tác xã mua bán, điều hoà một số lợi ích giữa thành thị và
nông thôn, v.v.; nhờ vậy, đã cải thiện được phần nào đời sống của quần chúng lao
khổ đương thời. Điều này, so với xã hội phong kiến, là một bước tiến lớn; so với xã

hội tư bản chủ nghĩa, cũng có tính chất nhân bản của nó.
Mặc dù vậy, lý thuyết về dân sinh của Tôn Trung Sơn cũng còn nhiều hạn chế. Ông
muốn cải thiện đời sống dân sinh, nhưng lại không thấy được cơ sở để nâng cao đời
sống đó là sản xuất và tái sản xuất, không thấy sự cần thiết phải cải tạo quan hệ sản
xuất đương thời, những trở lực đối với phát triển sản xuất và làm giàu của cải vật
chất cho xã hội; ông muốn thay đổi sự phân phối không công bằng giữa địa chủ và
nông dân, giữa tư sản và vô sản nhưng lại không thấy sự tồn tại của đối lập giai cấp,
đấu tranh giai cấp và kiềm chế quyền lợi của các giai cấp bóc lột. Về thái độ đối với
nông dân và công nhân, những thành phần cơ bản của xã hội, Tôn Trung Sơn chỉ biết
thông cảm với đời sống đau khổ của họ mà không thấy được sức mạnh cách mạng và
sáng tạo của họ, thậm chí còn cho họ là những người hèn yếu, thụ động.
Do những hạn chế trên mà chủ nghĩa dân sinh của Tôn Trung Sơn chỉ có ý nghĩa
hiện thực tạm thời và có tác dụng trong thời gian ông còn sống. Sau khi Tôn Trung
Sơn mất, các học trò đã thay đổi quan điểm của ông mà không gặp phải bất cứ một
trở lực nào.
2. Nhu cầu sống của nhân dân (ăn, mặc, ở, đi lại) là vấn đề cơ bản của dân sinh
Để xác định phương hướng và nhiệm vụ thực hiện dân sinh, Tôn Trung Sơn phải giải
quyết nội dung cơ bản của dân sinh. Với ông, nội dung đó chính là các nhu cầu ăn,
mặc, ở, đi lại. Ông viết: “Trước đây, các nhà kinh tế học đều nói nhu cầu sống của
con người gồm ba loại: mặc, ăn, ở. Theo chỗ tôi nghiên cứu, phải gồm bốn loại:


ngoài ăn, mặc, ở, còn có một loại nữa là đi lại”(6); trong đó, “ăn là nhu cầu thứ nhất
của con người để sống”(7). “Vấn đề ăn chưa được giải quyết, chủ nghĩa dân sinh
chưa được thực hiện”(8). Sau đó là vấn đề mặc: “Mặc là vấn đề quan trọng thứ hai
trong đời sống con người”(9). Ăn, mặc, ở và đi lại là những điều tối cần thiết cho
cuộc sống con người. Nội dung trên dường như là những lẽ bình thường, ai cũng
biết. Nhưng thực ra có người không biết, hoặc không nghĩ tới, hoặc có cách nghĩ
khác.
Các cuộc chiến tranh loạn lạc diễn ra trong xã hội phần nào có nguồn gốc từ cảnh

khốn cùng, đói cơm rách áo của nhân dân, khiến một số nhà tư tưởng thức thời trong
lịch sử Trung Quốc thấy phải coi trọng vấn đề đời sống của dân. Khổng Tử và Mạnh
Tử là tiêu biểu. Khi học trò của Khổng Tử là Tử Cống hỏi về những điều cấp bách
của công việc chính trị, Khổng Tử trả lời ngay: có ba điều, trong đó điều “túc thực”
(lương thực đầy đủ) được đặt lên đầu tiên (Luận ngữ - Nhan Uyên). Khi Tề Tuyên
Vương hỏi Mạnh Tử về đạo trị nước, Mạnh Tử trình bày ngay đường lối nhân chính
của mình, trong đó nổi lên vấn đề tạo cho người dân một sản nghiệp nhất định để
người dân được no cơm ấm áo, để người già có lụa mặc, trẻ con có thịt ăn. Tuy
nhiên, những quan điểm trên của Khổng, Mạnh đã bị chìm vào vô số những lời lẽ về
lễ, nghĩa, liêm, sỉ của họ, nên không thể trở thành một tư tưởng nổi bật.
Là học trò của Khổng Tử hoặc Mạnh Tử, nhưng các nhà nho về sau đã suy nghĩ trái
với những bậc thầy của mình. Họ cho đạo đức phong kiến là điều cơ bản của cuộc
sống con người. Có người nói: “Lễ là cương kỷ của trên dưới, là chuẩn tắc của trời
đất, là cơ sở giúp cho trăm họ dựa vào để sống, cho nên vua đời trước xem là công
việc quan trọng số một” (Tả truyện. Chiêu Công năm 25). Có người coi đức là gốc,
của cải là ngọn: “Có đức mới có con người, có con người mới có đất đai, có đất đai
mới có của cải, có của cải mới có việc sử dụng. Đức là gốc, của cải là ngọn” (Đại
học). Người khác lại cho rằng, đức là cơ sở cho sự vững bền của quốc gia: “Đức là
nền tảng của quốc gia, có nền tảng thì không bị sụp đổ, lẽ nào lại không xem đây là
nhiệm vụ của mình!” (Lễ ký. Tương Công, 24). Do sự sắp xếp của lịch sử, lễ (bao
gồm đức) trở thành khuynh hướng chủ yếu để giải quyết vấn đề dân sinh. Đến thời
Tống, Trình Di còn đẩy nó tới chỗ cực đoan: “Tồn thiên lý, diệt nhân dục” (giữ lấy
thiên lý và tiêu diệt lòng ham muốn). Hậu quả của các quan niệm trên đối với lịch sử


thì đã rõ ràng. Để tiến lên, các thế hệ sau không thể không phê phán. Lỗ Tấn, Ngô
Ngu, những nhà tư tưởng cách mạng thời cận đại Trung Quốc, tuy đã phê phán hết
sức gay gắt các quan điểm phản dân sinh trên, nhưng bản thân họ cũng không nêu ra
được một dự án nào mới để cải tạo tình hình. Vì vậy, quan điểm coi nhu cầu ăn, mặc,
ở, đi lại của nhân dân là vấn đề cơ bản của dân sinh của Tôn Trung Sơn phải được

xem là tư tưởng tích cực, có ý nghĩa bước ngoặt trong thời cận, hiện đại Trung Quốc.
Tư tưởng trên của Tôn Trung Sơn được hình thành, bắt nguồn từ truyền thống Trung
Quốc. Ông thường dẫn câu nói của người xưa: “Nước lấy dân làm gốc, dân coi ăn là
trời”(10). Chính tư tưởng sâu sắc này của lịch sử đã giúp ông hình thành nên quan
điểm của mình. Nhưng quan điểm đó còn là sản phẩm của thời đại. Khi đó, chủ nghĩa
Mác đã được truyền bá và có ảnh hưởng sâu rộng ở Trung Quốc. C.Mác đã từng nói:
“Tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch
sử”, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng
muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một
vài thứ khác nữa”(11). Tôn Trung Sơn có chỗ không tán thành với quan điểm của
C.Mác, như quan điểm về đấu tranh giai cấp, về giá trị thặng dư… Tuy nhiên, ông
cũng khâm phục C.Mác và đã phát triển sáng tạo nhiều quan điểm của C.Mác thành
lý thuyết của mình. Căn cứ vào sự giống nhau trong nội dung đề xuất của hai ông, ta
có lý do để cho rằng, quan điểm của Tôn Trung Sơn coi nhu cầu sống của nhân dân
(ăn, mặc, ở, đi lại) là vấn đề cơ bản của dân sinh có sự kế thừa từ quan điểm của
C.Mác. Tư tưởng của C.Mác đã làm cho yếu tố truyền thống trong tư tưởng dân sinh
của Tôn Trung Sơn được vững vàng hơn, có lý luận hơn và mới mẻ hơn.
Để tư tưởng của mình có thêm điều kiện đi vào cuộc sống, Tôn Trung Sơn còn nêu ra
những vấn đề rất cụ thể, như ăn những gì, làm thế nào có nhiều thực phẩm hoặc
mặc những thứ gì, làm thế nào để có nhiều tơ lụa, vải vóc,... Từ lĩnh vực tư tưởng, ông
bước sang lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Thoạt nhìn dường như hai lĩnh vực
đó không liên quan với nhau, nhưng thực ra chúng là hai mặt thống nhất trong Tôn
Trung Sơn với tư cách nhà hoạt động chính trị.
3. Hai mức độ của việc giải quyết vấn đề dân sinh
Hơn nhiều nhà tư tưởng cách mạng Trung Quốc đương thời, Tôn Trung Sơn có thời
gian học tập và sống ở châu Âu, châu Mỹ nhiều năm. Ông hiểu biết các xã hội đó


hơn những người trong nước chỉ đọc qua sách báo. Âu, Mỹ lúc bấy giờ đã là các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển, đã bỏ khá xa chủ nghĩa phong kiến. Từ xã hội tư

bản chủ nghĩa phương Tây nhìn về xã hội vừa thoát khỏi chế độ chính trị quân chủ
chuyên chế nhưng vẫn phải lệ thuộc vào đế quốc bên ngoài của mình, Tôn Trung
Sơn biết rõ Trung Quốc hiện kém Âu, Mỹ những gì và phải khác với các xã hội đó ở
những điểm gì.
Quá độ lên chủ nghĩa tư bản là xu thế tất yếu của Trung Quốc lúc bấy giờ. Vì, với
nền sản xuất phong kiến, một người làm ruộng chỉ nuôi được 2, 3 người; một người
phu gánh vác chỉ gánh được vài chục kg. Ngược lại, với xã hội tư bản, một người
làm ruộng có thể nuôi được mấy chục người, một đoàn tàu hỏa chuyên chở tương
đương với hàng nghìn người gánh bộ. Hơn nữa, tâm lý người Trung Quốc đang thiết
tha được sống cuộc sống giàu có như ở các nước Âu, Mỹ. Nhưng, hơn ai hết, Tôn
Trung Sơn cũng thấy chủ nghĩa tư bản Âu, Mỹ vẫn tồn tại một số vấn đề mà Trung
Quốc phải tránh. Bởi xã hội theo chủ nghĩa dân sinh của ông lấy việc nuôi dân làm
mục đích thay vì lấy lợi nhuận. Ông nói: “Chỗ khác nhau cơ bản giữa chủ nghĩa dân
sinh và chủ nghĩa tư bản là ở chỗ chủ nghĩa tư bản lấy việc kiếm tiền làm mục đích,
còn chủ nghĩa dân sinh lấy việc nuôi dân làm mục đích. Có thứ chủ nghĩa lấy việc
nuôi dân làm mục đích đó, chúng ta có thể đập tan chế độ tư bản cũ kỹ, xấu xa”(12).
Theo ông, vấn đề là ở chỗ, phải khắc phục sự “cũ kỹ, xấu xa” ấy.
Sự cũ kỹ, xấu xa của xã hội Âu, Mỹ hiện tại mà Tôn Trung Sơn nói là sự không công
bằng trong phân phối hoa lợi ruộng đất, trong việc sử dụng sản phẩm nông, công
nghiệp. Nếu như ở xã hội Trung Quốc lúc đó, sự bất công thể hiện qua sự thu nhập
chênh lệch giữa nông dân và địa chủ: “Lương thực mà người nông dân làm ruộng thu
được, theo điều tra gần đây nhất của chúng ta tại nông thôn, 6/10 là thuộc về địa chủ,
nông dân chỉ được 4/10. Như vậy là rất không công bằng”(13), thì trong xã hội “tư
bản chủ nghĩa Mỹ hiện tại, sự bất công đó được biểu hiện ở một dạng khác, đó là nhà
tư bản đem bán lương thực ra nước ngoài để kiếm lời, mặc kệ dân trong nước bị
đói”; trong nước giá lương thực không cao thì người ta vận chuyển lương thực ra
nước ngoài bán để kiếm nhiều tiền lời. Vì tư nhân muốn kiếm nhiều lời, do đó dù
nước mình xảy ra nạn đói, nhân dân không có lương thực, rất nhiều người chết đói,
các nhà tư bản đó vẫn làm ngơ”(14). Nếu như ở xã hội Trung Quốc lúc đó, các nhà



×