Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 196 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu là một trong
những hoạt động quan trọng được các ngân hàng trên thế giới quan tâm phát triển.
Bởi đây là hoạt động có vai trò quan trọng đối với NHTM với mục đích hỗ trợ đảm
bảo thanh khoản, là công cụ thực hiện chính sách quản lý tài sản Nợ - Có, đa dạng
hóa danh mục đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi
ngân hàng. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống
NHTM cũng đóng góp vào sự phát triển chung của thị trường trái phiếu, từ đó góp
phần quan trọng đến sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, giúp Chính phủ
thực hiện chính sách tiền tệ, tài chính công và quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội có
hiệu quả.
Tại Việt Nam, theo lộ trình cam kết quốc tế mở cửa thị trường tài chính, dịch
vụ ngân hàng từ năm 2006 đối với các nước trong khối ASEAN và từ năm 2008
theo hiệp định thương mại Việt-Mỹ, sự cạnh tranh trên thị trường tài chính trong
nước trở nên gay gắt hơn. Sự thâm nhập thị trường mạnh mẽ thông qua nhiều hình
thức (ngân hàng con, chi nhánh, góp vốn mua cổ phần và liên doanh) đi kèm với tác
phong hoạt động chuyên nghiệp, quy trình cung cấp sản phẩm dịch vụ nhanh chóng,
thuận tiện của nhiều NHTM trên thế giới sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát
triển của các NHTM Việt Nam. Bên cạnh đó, hiện nay các hoạt động ngân hàng
mang tính truyền thống như hoạt động tín dụng gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận ngân
hàng suy giảm, đồng thời nợ xấu tăng cao. Trong bối cảnh này, các NHTM thực
hiện việc lựa chọn kênh đầu tư kinh doanh trên thị trường Trái phiếu sẽ là sự lựa
chọn đúng đắn và hoạt động đầu tư kinh doanh Trái phiếu đang hứa hẹn nhiều cơ
hội tốt và là xu hướng tất yếu cho hệ thống NHTM Việt Nam.
Nhưng thực tế ở Việt Nam đang cho thấy vì nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan, hiện nay một số NHTM Việt Nam đã triển khai hoạt động này nhưng
vẫn tồn tại nhiều bất cập, hạn chế trong việc phát triển, tăng khả năng cạnh tranh,
quản lý vốn khả dụng và tạo ra thu nhập cho ngân hàng. Do đó, câu hỏi đặt ra là các


NHTM cần thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu như thế nào trên các


2

phương diện như mô hình tổ chức, quy trình thực hiện, các loại hình thực hiện và
chiến lược thực hiện tương ứng, phương thức quản trị rủi ro v.v. Bên cạnh đó, các
NHTM cũng cần nắm bắt các điều kiện cơ bản để thực hiện và điều chỉnh các nhân
tố ảnh hưởng đến hoạt động này theo hướng tích cực nhằm đảm bảo tính khả thi và
phát huy vai trò của hoạt động này trong chiến lược phát triển chung của ngân hàng.
Ngoài ra, hiện nay đối với các nghiệp vụ truyền thống khác như tín dụng, huy động
vốn v.v. thì các nhà quản lý có thể dễ dàng đánh giá thực trạng, chất lượng hoạt
động thông qua hệ thống các chỉ tiêu đo lường, đánh giá. Trên cơ sở đó, cần thiết
phải xây dựng và áp dụng bộ chỉ tiêu đánh giá phù hợp với hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu để giúp các nhà quản trị có chiến lược phát triển hợp lý.
Như vậy, việc xây dựng những cơ sở lý luận và tiền đề cho hoạt động đầu tư
kinh doanh trái phiếu được hình thành và áp dụng bài bản, đúng đắn, ngày càng
phát triển và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng thương mại Việt
Nam, đồng thời trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phát triển hoạt động này trong
giai đoạn hiện nay vừa là đòi hỏi bức thiết trong hoạt động của một ngân hàng
thương mại nói chung, vừa là yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của nền kinh
tế xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua tại Việt Nam cũng như trên thế giới hầu
như chưa có công trình nghiên cứu chính thức nào đề cập đến những vấn đề này. Do
đó trong phạm vi nghiên cứu của luận án tiến sỹ, với mong muốn và hy vọng được
góp phần giải quyết vấn đề đang tồn tại, tôi mạnh dạn nghiên cứu Luận án tiến sỹ
kinh tế với đề tài: “Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng
thương mại Việt Nam”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
• Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động đầu

tư kinh doanh trái phiếu là một trong những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng
thương mại, đồng thời cũng đã đề cập đến một số lý luận cơ bản về hoạt động đầu
tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại. Cụ thể:
- GS.TS Lê Văn Tư (2005) trong sách chuyên khảo “Nghiệp vụ Ngân Hàng
thương mại” - NXB Tài chính đã cung cấp một cái nhìn tổng thể và chung chung về


3

các nghiệp vụ cơ bản của NHTM. Mặc dù cuốn sách này không đề cập cụ thể và
phân tích chuyên sâu vào hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu, nhưng những nội
dung chính của cuốn sách đã thể hiện rằng hoạt động này là một trong những
nghiệp vụ của NHTM.
- Tương tự, TS Nguyễn Duệ cùng nhóm biên soạn (2001) tại trường Học
viện ngân hàng trong sách chuyên khảo “Quản trị Ngân hàng”- NXB Thống kê đã
trình bày khá chi tiết về các vấn đề liên quan đến hoạt động quản trị ngân hàng,
trong đó có một số nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu
của NHTM. Cụ thể, các tác giả đã đề cập đến nội dung cơ bản về Bảng tổng kết tài
sản và báo cáo thu nhập của một ngân hàng, trong đó đã chỉ ra rằng việc ngân hàng
đầu tư kinh doanh trái phiếu là một trong những khoản mục thuộc tài sản Có, đồng
thời hoạt động này có sự ảnh hưởng đến tổng thu nhập của ngân hàng trong từng
thời kỳ. Ngoài ra, cuốn sách cũng đã đề cập đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu, đặc biệt là các loại trái phiếu có tính thanh khoản cao, kỳ hạn ngắn được coi
là một trong những công cụ góp phần đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng
thương mại. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đã đề cập đến các nội dung cơ bản liên
quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu, trong đó có sự khẳng định cách
thức thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu rất khác nhau ở các ngân
hàng thương mại khác nhau do có sự khác nhau về kích thước, địa bàn kinh doanh,
điều kiện, nhu cầu vay và năng lực quản lý. Tuy nhiên vẫn có các bước cơ bản để
ngân hàng thực hiện đầu tư kinh doanh trái phiếu một cách lành mạnh và linh hoạt.

Cụ thể:

+ Quy trình được bắt đầu bằng việc thiết lập các mục tiêu và tiêu chuẩn
chung, sau đó thực hiện các dự báo khái quát về nền kinh tế và lãi suất.

+ Tiếp theo, ngân hàng cần xây dựng chính sách đầu tư và chiến lược quản lý
danh mục đầu tư trái phiếu phù hợp với đặc tính và điều kiện của ngân hàng. Ban
lãnh đạo ngân hàng phải nghiên cứu một vài lĩnh vực để có được một danh mục đầu
tư trái phiếu phù hợp. Các lĩnh vực cần được nghiên cứu bao gồm: xác định nhu cầu
kiểm soát độ nhạy cảm lãi suất; việc lập kế hoạch thanh khoản; đánh giá về các yếu
tố rủi ro, mức độ đa dạng hóa đầu tư; quy mô danh mục đầu tư; chính sách và chiến


4

lược thời gian đáo hạn v.v. Các chính sách và chiến lược đầu tư trái phiếu của
NHTM phải nhất quán với các mục tiêu về danh mục trái phiếu của ngân hàng, dự
báo kinh tế, và mọi nhu cầu của ngân hàng.
Tóm lại, cuốn sách đã trình bày về các nội dung cơ bản liên quan đến hoạt
động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM, đồng thời đối với việc quản lý danh
mục đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM. Đây cũng là tư liệu quý báu giúp cho
luận án được củng cố hơn về mặt lý luận. Tuy nhiên, do nội dung chính của cuốn
sách là đề cập đến quản trị NHTM nói chung nên chưa thực sự đề cập sau đến hoạt
động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM bao gồm các vấn đề quan trọng như
các nhân tố ảnh hưởng, hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của Ngân hàng thương mại v.v.
- Tác giả Mạc Quang Huy (2009) trong sách chuyên khảo “Cẩm nang Ngân
hàng đầu tư” – NXB Thống kê đã nghiên cứu sâu và khá công phu về mô hình và
các nghiệp vụ Ngân hàng đầu tư, trong đó có đề cập đến hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu. Tuy nhiên các công trình này chủ yếu là nêu khái quát chung về

các hoạt động của Ngân hàng thương mại và Ngân hàng Đầu tư trên cơ sở so sánh
sự khác và giống nhau giữa hai mô hình này, mà không đi sâu phân tích cụ thể về
hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại, cũng như chưa
đề cập đến những kiến thức liên quan đến việc phân tích và đánh giá hoạt động này
của NHTM.
- Tác giả Lê Thị Hương (2003) trong Luận án tiến sỹ kinh tế tại trường Đại
học kinh tế Quốc dân Hà nội cùng với đề tài “Nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
của các ngân hàng thương mại Việt Nam” đã đề cập đến các vấn đề liên quan đến
hoạt động đầu tư của các ngân hàng thương mại nói chung và đánh giá thực trạng
tình hình hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước Việt
Nam qua các thời kỳ. Cụ thể, luận án đã trình bày về một số nội dung như:

+ Hệ thống hóa, làm rõ thêm một số lý luận cơ bản về hoạt động đầu tư như
đầu tư tín dụng, đầu tư chứng khoán v.v. của ngân hàng; Xây dựng và hệ thống hóa
các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại trên giác
độ vĩ mô và vi mô.


5

+ Phân tích thực trạng tình hình hoạt động đầu tư của hệ thống ngân hàng
thương mại thuộc sở hữu Nhà nước Việt Nam. Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư
và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động đầu tư của hệ thống ngân hàng
thương mại thuộc sở hữu Nhà nước Việt Nam.

+ Kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới, tăng cường sức mạnh,
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước.
Tuy nhiên, các nội dung nêu trên của luận án được đề cập đến các hoạt động
đầu tư của NHTM nói chung, bao gồm hoạt động đầu tư tín dụng, chứ không đi sâu
phân tích cụ thể về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương

mại, cũng như chưa đề cập đến những kiến thức liên quan riêng đến việc phân tích
và đánh giá hoạt động này của NHTM.
- Tác giả Nguyễn Thị Anh Đào và nhóm nghiên cứu (Cơ quan chủ trì đề tài:
Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) cùng với công trình nghiên cứu đề tài “Tham
gia của hệ thống ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán Việt Nam”
cũng đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về sự tham gia của ngân hàng thương mại
vào thị trường chứng khoán, đồng thời tìm hiểu các quy luật tham gia TTCK của
các ngân hàng thương mại trên thế giới, và tìm hiểu thực trạng sự tham gia của các
ngân hàng thương mại vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Cụ thể:
+ Hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động của ngân hàng thương
mại trên thị trường chứng khoán, trong đó có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu.

+ Nghiên cứu mối quan hệ giữa NHTM và thị trường chứng khoán, vai trò
của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của thị trường chứng khoán, từ đó chỉ
ra lợi ích của ngân hàng thương mại cũng như của thị trường chứng khoán khi có sự
tham gia của NHTM trên thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài là khá rộng, do các hoạt động của
ngân hàng trên thị trường chứng khoán rất đa dạng bao gồm các hoạt động liên quan
đến cả cổ phiếu và trái phiếu như: phát hành chứng khoán; đầu tư kinh doanh chứng
khoán; bảo lãnh phát hành chứng khoán; môi giới và tư vấn đầu tư chứng khoán;
cho vay cầm cố chứng khoán; thực hiện ủy thác đầu tư cho khách hàng v.v. Như


6

vậy, đề tài này không tập trung phân tích hệ thống lý luận cơ bản đối với hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu. Bên cạnh đó, tác giả chưa đi sâu nghiên cứu cách nhận
biết, đo lường, xây dựng các chỉ tiêu đánh giá đối với các hoạt động đầu tư, trong
đó có hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM.

• Mặt khác, các vấn đề liên quan đến lĩnh vực trái phiếu và sự phát triển của
thị trường trái phiếu Việt Nam cũng là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học và các chuyên gia kinh tế. Hiện nay, qua nghiên cứu và đánh giá, đã
có nhiều tác giả thực hiện các công trình nghiên cứu về lĩnh vực trái phiếu theo
nhiều góc độ khác nhau với những đóng góp về lý luận và thực tiễn, đồng thời ít
nhiều có liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM – là
thành viên tham gia trên thị trường trái phiếu. Tuy nhiên do nội dung nghiên cứu
chính của các công trình này chủ yếu theo hướng phân tích về thực trạng của thị
trường trái phiếu hoặc các vấn đề nhằm phát triển thị trường trái phiếu nên việc đề
cập đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại còn sơ
sài, chưa khoa học, chưa thực sự đầy đủ và mang tính hệ thống, tồn tại nhiều hạn
chế. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu:
+ Tác giả Trịnh Mai Vân (2010) trong Luận án tiến sỹ tại trường Đại học
kinh tế Quốc dân Hà nội với đề tài “Phát triển thị trường trái phiếu ở Việt Nam” có
nội dung đề cập đến hệ thống kiến thức tổng quan về trái phiếu và thị trường trái
phiếu. Cụ thể, luận án đã hệ thống hóa các hoạt động cơ bản trên thị trường trái
phiếu, trong đó phần nào cũng đã khái quát đến việc các NHTM thực hiện hoạt
động đầu tư kinh doanh trái phiếu trên thị trường sơ cấp và thứ cấp với vai trò là các
nhà đầu tư lớn hoặc là các nhà tạo lập thị trường trái phiếu.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học do TS. Trần Đăng Khâm (2007) làm chủ nhiệm
về “Phát triển các nhà tạo lập thị trường trái phiếu ở Việt Nam” đã tập trung
nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động tạo lập thị trường ở Việt Nam, đồng thời
khẳng định nhà tạo lập thị trường (bao gồm cả các Ngân hàng thương mại) là một
trong những chủ thể quan trọng giúp cho thị trường trái phiếu phát triển. Trong đó,
tác giả cũng nhận định trong giai đoạn qua ở Việt Nam chưa thực sự có các nhà tạo
lập thị trường theo đúng nghĩa, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển


7


các nhà tạo lập thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn tới.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
• Ngoài hàng loạt những cuốn sách mang tính chất giáo khoa kinh điển như
“The Economics of Money, Banking and Financial Markets” của tác giả Frederic S.
Mishkin (10th Edition, 2013) - giáo sư trường Đại học tổng hợp Columbia, Mỹ hay
“Bank Management and Financial Services” của Peter Rose (9th Edition, 2013),
còn có rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: Tác giả Frank J.Fabozzi (giáo sư
tại trường EDHEC Business School) và tác giả Steven V.Mann (giáo sư tại trường
Darla Moore School of Business, University of South Carolina) trong sách chuyên
khảo “The Handbook of Fixed Income Securities” (8th Edition, 2012) đã đóng góp
một khối lượng kiến thức khá phong phú về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu
bao gồm các nội dung liên quan đến các sản phẩm, công cụ phân tích, phương thức
thực hiện và chiến lược đầu tư trên thị trường trái phiếu nhằm tối ưu hóa lợi nhuận
cho nhà đầu tư. Ngoài ra, tác phẩm này cũng cập nhật cho người đọc các thông tin
mới nhất về các lĩnh vực chuyên sâu mang tính kỹ thuật đối với hoạt động đầu tư
kinh doanh trái phiếu như hệ thống giao dịch điện tử, các sản phẩm trái phiếu phái
sinh, chiến lược quản trị rủi ro. Bên cạnh đó, các tác giả này trong sách chuyên khảo
“Introduction to Fixed Income Analytics: Relative Value Analysis, Risk Measures
and Valuation” (2nd Edition, 2010) cũng có đề cập đến trái phiếu hoặc hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu. Tuy nhiên các cuốn sách này chỉ dừng lại trong lý luận
cơ bản mà chưa nghiên cứu sâu sắc đến các yếu tố đánh giá thực trạng hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu của một ngân hàng thương mại, trên cơ sở có sự so
sánh với các ngân hàng khác hoặc so sánh với giá trị bình quân ngành. Nhưng các
cuốn sách này lại góp phần hoàn chỉnh hệ thống lý luận về hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại.
• Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác có nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến thị trường trái phiếu dưới nhiều góc độ khác nhau. Chẳng hạn:
- Goldstein, M and D Folkerts-Landau (1994): International Capital Markets:
Developments, Prospects, and Policy Issues, International Monetary Fund.



8

- Gray, S (1997): Government securities: primary issuance, Handbooks in
Central Banking, no 11, Centre for Central Banking Studies, Bank of England.
Các nghiên cứu này đã có sự phân tích sâu về bản chất, thực trạng, cách thức
hoạt động và khả năng phát triển của các thị trường trái phiếu quốc tế, trong đó có
đề cập đến sự tham gia và vai trò của các thành viên (trong đó có hệ thống NHTM)
trên thị trường trái phiếu.
Nhìn chung, các nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài có liên quan đến nội
dung hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại nói chung
và hệ thống NHTM Việt Nam nói riêng hiện vẫn còn nhiều khoảng trống tri thức
cần được tiếp tục nghiên cứu:
Một là, cần có nghiên cứu mang tính hệ thống, trong đó cần tập trung phân
tích làm rõ những cơ sở lý luận chung liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh
trái phiếu của Ngân hàng thương mại.
Hai là, cần có phân tích làm rõ việc NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu như thế nào trên các khía cạnh về khái niệm, điều kiện cơ bản thực
hiện và nhân tố ảnh hưởng, mô hình tổ chức, quy trình thực hiện, các loại hình và
chiến lược thực hiện, phương thức quản trị rủi ro và các vấn đề có liên quan theo
chuẩn quốc tế để hoạt động này phát huy hiệu quả đối với NHTM.
Ba là, cần xây dựng mô hình đánh giá sự tác động của một số nhân tố (bao
gồm nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan) đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của NHTM. Một số nhân tố chủ quan và khách quan mang tính chất cơ bản và
quan trọng bao gồm:
- Nhân tố chủ quan:
+ Cơ cấu sở hữu ngân hàng (thông qua các biến sô phản ánh cơ cấu sở hữu
nhà nước và cơ cấu sở hữu nước ngoài).
+ Năng lực hoạt động ngân hàng (thông qua các biến số phản ánh quy mô
tổng tài sản ngân hàng; tỷ lệ nợ xấu tín dụng).

- Nhân tố khách quan:
+ Thực trạng của thị trường trái phiếu (thông qua các biến số phản ánh quy
mô thị trường trái phiếu; quy mô thị trường trái phiếu chính phủ; quy mô thị trường


9

trái phiếu doanh nghiệp).
+ Thực trạng của nền kinh tế (thông qua biến số phản ánh tốc độ tăng trưởng
GDP của nền kinh tế).
Bốn là, cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động; cũng như việc
đánh giá đo lường thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM.
Năm là, cần có công trình thực hiện khảo sát phân tích có hệ thống hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM trên thế giới để rút ra những kinh
nghiệm cho các NHTM Việt Nam. Việc thực hiện khảo sát hoạt động này từ các
quốc gia khác phải đảm bảo một số điều kiện sau:
- Là những quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới, có thị trường tài chính
nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng phát triển và có tầm ảnh hưởng rất lớn
đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
- Hệ thống NHTM đã và đang đạt được nhiều thành công trong hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu.
- Có nhiều nét tương đồng với Việt Nam trong các lĩnh vực văn hóa - chính
trị - xã hội. Hay nói cách khác việc nghiên cứu kinh nghiệm từ hoạt động đầu tư
kinh doanh trái phiếu của hệ thống NHTM tại các quốc gia khác là phù hợp với điều
kiện Việt Nam.
Sáu là, cần có đánh giá xác đáng thực trạng hoạt động này đối với hệ thống
NHTM Việt Nam trong giai đoạn qua, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp phát
triển hoạt động này đối với các NHTM này ở giai đoạn hiện nay và trong thời gian
tới v.v. Hay nói cách khác, vì cho đến nay hầu như chưa có nhiều công trình nghiên
cứu về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM nói chung, và hoạt động

này ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề tương đối mới mẻ.
Trên cơ sở đó, đề tài luận án tiến sỹ của tác giả góp phần làm rõ những vấn
đề đang tồn tại kể trên mà các công trình khác chưa nghiên cứu về lĩnh vực đầu tư
kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam, vốn là hoạt động quan trọng cùng
những ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và tồn tại của NHTM trong xu thế hội
nhập quốc tế và cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường tài chính-ngân hàng.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu riêng biệt từ trước đến nay về vấn đề


10

trái phiếu và hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM, luận án cũng có
một số nội dung mới so với các nghiên cứu trước đây, cụ thể như sau: Tác giả lựa
chọn cách tiếp cận việc xây dựng, quản lý, thực hiện hoạt động này theo tiêu chuẩn
quốc tế về các vấn đề như điều kiện cơ bản thực hiện, mô hình tổ chức, quy trình
thực hiện, chiến lược thực hiện, phương thức quản trị rủi ro; và xây dựng các chỉ
tiêu đánh giá được sử dụng như một chuẩn mực trong việc tiếp cận, so sánh và đánh
giá. Bên cạnh đó, tác giả lựa chọn mô hình đánh giá và rút ra những kết luận về sự
tác động của một số nhân tố đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM.
Ngoài ra, việc nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi hệ thống NHTM (trong đó
phạm vi nghiên cứu tập trung các NHTM đóng vai trò chủ đạo trên thị trường trái
phiếu Việt Nam trong giai đoạn 2009 – 2014), chứ không phải một ngân hàng cụ
thể, riêng biệt nào. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng tối đa các dữ liệu được tổ chức tài
chính nước ngoài công bố, từ đó có thước đo để so sánh với thực trạng và diễn biến
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu được đưa ra bởi các ngân hàng
trong nước.
3. Mục tiêu của nghiên cứu
Toàn bộ nội dung của luận án sẽ nghiên cứu từ các vấn đề mang tính lý
thuyết của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM; nghiên cứu kinh
nghiệm thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu tại một số quốc gia trên

thế giới đến thực trạng hoạt động này tại các NHTM Việt Nam và cuối cùng là
những giải pháp cũng như kiến nghị được đề xuất nhằm hoàn phát triển hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu tại các NHTM Việt Nam. Cụ thể như sau:
- Về mặt lý luận:

+ Thứ nhất, hệ thống hóa các lý luận cơ bản về hoạt động đầu tư kinh doanh
trái phiếu của NHTM bao gồm phân tích làm rõ hơn về khái niệm, điều kiện cơ bản
thực hiện và nhân tố ảnh hưởng, mô hình tổ chức, quy trình thực hiện, các loại hình
và chiến lược thực hiện, phương thức quản trị rủi ro và các vấn đề có liên quan đối
với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM.

+ Thứ hai, xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu của NHTM.


11

+ Thứ ba, xây dựng mô hình đánh giá và rút ra những kết luận về tác động
của một số nhân tố đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM.

+ Thứ tư, nghiên cứu mô hình hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của
NHTM trên thế giới, từ đó rút ra bài học và có giá trị thực tiễn cho hệ thống NHTM
Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của các NHTM Việt Nam chủ yếu giai đoạn 2009-2014, qua đó đánh giá kết
quả, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục hạn chế, nhằm
phát triển hoạt động này đối với các NHTM Việt Nam trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án không đi sâu vào khía cạnh phân tích kỹ
thuật về trái phiếu, quản trị danh mục trái phiếu hay thị trường trái phiếu, mà luận

án tập trung nghiên cứu vào các vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư
kinh doanh trái phiếu của NHTM.
- Phạm vi nguyên cứu: Luận án nghiên cứu hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu tại các NHTM nói chung và một số NHTM Việt Nam nói riêng. Phạm vi thực
hiện nghiên cứu là 04 NHTM chiếm thị phần lớn trong hệ thống NHTM Việt Nam
bao gồm: NHTM cổ phần Ngoại thương Việt Nam, NHTM cổ phần Công Thương
Việt Nam, NHTM cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn Việt Nam. Đây là các ngân hàng thương mại có tổng tài sản,
vốn điều lệ và quy mô hoạt động lớn nhất trong hệ thống NHTM Việt Nam. Đồng
thời, theo số liệu thống kê của Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà nội và tính toán
riêng của tác giả, các ngân hàng này đang nắm giữ danh mục trái phiếu khoảng gần
50% tổng giá trị trái phiếu đang niêm yết toàn thị trường và chiếm thị phần khoảng
60% hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống NHTM Việt Nam, do đó
cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thị trường trái phiếu Việt Nam nói riêng và nền kinh
tế - xã hội Việt Nam nói chung. Ngoài ra, kết hợp với việc nghiên cứu kinh nghiệm
hoạt động đầu tư kinh doanh của NHTM ở một số nước trên thế giới.
Thời gian thực hiện nghiên cứu là giai đoạn 2009 – 2014. Giai đoạn từ năm
2009 cũng được đánh giá là cột mốc quan trọng trong hoạt động đầu tư kinh doanh


12

trái phiếu của các NHTM Việt Nam bởi Hệ thống giao dịch Trái phiếu Chính phủ
chuyên biệt chính thức được Sở Giao Dịch Chứng Khoán Hà Nội vận hành và ra
mắt vào ngày 24/09/2009 với mục tiêu phát huy tối đa tầm quan trọng của kênh huy
động vốn này đối với nền kinh tế và thúc đẩy các hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của các thành viên tham gia thị trường, trong đó có hệ thống các NHTM.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng và lịch sử thường được áp dụng
trong các công trình nghiên cứu nói chung, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp

tổng hợp, phân tích, thống kê so sánh để xử lý số liệu, kết hợp với đồ thị, bảng, biểu
minh họa để làm tăng tính trực quan cho công trình.
Để làm tăng tính thuyết phục cho các nhận định, nghiên cứu sinh đã đưa vào
nghiên cứu của mình mô hình kinh tế lượng. Cụ thể, đề tài sử dụng mô hình kinh tế
lượng nghiên cứu về tác động của một số nhân tố đến hoạt động đầu tư kinh doanh
trái phiếu của NHTM.
Nguồn số liệu tác giả sử dụng trong luận án chủ yếu được lấy từ báo cáo tài
chính của các NHTM. Ngoài ra tác giả còn tiếp cận số liệu tại NHNN, Sở Giao
Dịch Chứng Khoán Hà nội, Bộ Tài Chính v.v. Còn lại tác giả sẽ sử dụng số liệu lấy
từ các website của các ngân hàng, các tạp chí kinh tế chuyên ngành có uy tín như
Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí tài chính, Tạp chí khoa học và đào tạo ngân hàng, các
tổ chức tài chính quốc tế như IMF, World Bank, ADB, FDIC, World Federation of
Exchanges v.v.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, bảng biểu, các hình vẽ minh họa và
danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của
Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân
hàng thương mại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu
của Ngân hàng thương mại Việt Nam.


13

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ KINH DOANH TRÁI PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ KINH DOANH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Trái phiếu
Hiện nay, trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng hay lĩnh vực thị trường chứng
khoán có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, các văn bản quy phạm
pháp luật đã đề cập đến một số khái niệm khác nhau có liên quan đến lĩnh vực trái
phiếu bao gồm: khái niệm “chứng khoán” (Securities), khái niệm “chứng khoán nợ”
(Debt securities), khái niệm “trái phiếu” (Bond). Nhìn chung các khái niệm này
thường được dùng không thống nhất, dễ gây hiểu lầm cho người đọc. Do đó, việc
phân tích nội dung các khái niệm trên là cần thiết, đồng thời sẽ góp phần làm rõ hơn
về khái niệm trái phiếu. Cụ thể:
- Về khái niệm “Chứng khoán” và “Chứng khoán Nợ”
Theo khoản 3, điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng
Khoán năm 2010 “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng
khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử,
bao gồm các loại sau đây: Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; Quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm
chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; Hợp đồng góp vốn đầu tư; Các loại chứng
khoán khác do Bộ Tài Chính quy định.” [24, tr2]
Mặt khác, theo Giáo trình thị trường chứng khoán (2002) của Trường đại học
Kinh tế Quốc dân đã đề cập đến các nội dung:
“Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác
định số vốn đầu tư (tư bản ban đầu); chứng khoán xác nhận quyền sở hữu hoặc
quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời
hạn nào đó. Theo tính chất của chứng khoán, chứng khoán được phân thành:


14


Chứng khoán Vốn; Chứng khoán Nợ; Các chứng khoán phái sinh” [27, tr42-43].
“Chứng khoán Nợ, điển hình là trái phiếu, tín phiếu là một loại chứng khoán
quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên
sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và
lãi trong những khoảng thời gian cụ thể” [27, tr44].
Xét trong phạm vi lĩnh vực hạch toán kế toán ngân hàng, chẳng hạn văn bản
số 7459/NHNN-KTTC ngày 30/08/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban
hành đã quy định tại Khoản 1 Mục B (Giải thích từ ngữ) như sau “Chứng khoán Nợ
là loại chứng khoán mà bên phát hành phải thực hiện những cam kết mang tính
ràng buộc đối với người nắm giữ chứng khoán theo những điều kiện cụ thể về thời
hạn thanh toán, số tiền gốc, lãi suất (trái phiếu, kỳ phiếu...)”.
Như vậy, qua các định nghĩa trên có thể hiểu “Chứng khoán là bằng chứng
xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn
của tổ chức phát hành”. Thuật ngữ “Chứng khoán Nợ” có ý nghĩa hẹp hơn thuật
ngữ “Chứng khoán” do chỉ đề cập đến nội dung xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Đồng thời trái
phiếu là một loại chứng khoán Nợ.
- Về khái niệm “Trái phiếu”
Theo Khoản 3, Điều 6 Luật Chứng Khoán ban hành năm 2006 “Trái phiếu là
loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một
phần vốn nợ của tổ chức phát hành” [23, tr2].
Theo giáo trình Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng
khoán (2013) của Uỷ ban chứng khoán nhà nước: “Trái phiếu là một loại chứng
khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người
nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong
những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản vay ban đầu khi nó đáo
hạn” [25, tr 67].
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về trái phiếu. Tuy nhiên, nhìn chung
nó thường được đề cập đến như là sự thể hiện cam kết của người phát hành sẽ thanh
toán một số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với một mức lãi



15

suất xác định cho người chủ sở hữu trái phiếu.
1.1.1.2. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là thị trường phát hành và giao dịch các loại trái phiếu
của Chính phủ, doanh nghiệp và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Trái
phiếu sẽ được phát hành lần đầu trên thị trường sơ cấp qua nhiều phương thức khác
nhau như bảo lãnh phát hành, đấu thầu v.v. Sau đó, các trái phiếu này sẽ tiến hành
giao dịch trên thị trường thứ cấp. Thành viên tham gia trên thị trường trái phiếu bao
gồm chủ thể phát hành, chủ thể đầu tư, các tổ chức trung gian tài chính [25].
Trong các chủ thể tham gia trên thị trường Trái phiếu, Ngân hàng thương mại
vừa đóng vai trò là người phát hành trái phiếu nhằm huy động vốn phục vụ cho hoạt
động của mình, và đặc biệt vừa là tổ chức đầu tư kinh doanh trái phiếu hoặc trung
gian tài chính nhằm tìm kiếm lợi nhuận, đảm bảo thanh khoản và nâng cao thương
hiệu của mình trên thị trường.
1.1.1.3. Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “Đầu tư” (Investing) và “Kinh doanh” (Trading) xuất hiện khá
nhiều trong các tài liệu trong nước và nước ngoài. Trong lĩnh vực tài chính, hai
thuật ngữ này đều nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường tài chính,
nhưng theo các cách thức khác nhau. Cụ thể, hoạt động đầu tư (investing) thường
chủ yếu gắn liền với việc mua và nắm giữ các công cụ đầu tư như cổ phiếu, trái
phiếu, chứng chỉ quỹ hoặc các công cụ đầu tư khác trong khoảng thời gian dài (có
thể vài năm hoặc dài hơn) nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở hưởng lãi (trái tức,
cổ tức v.v). Còn hoạt động kinh doanh (trading) thì liên quan đến việc thường
xuyên mua và bán cổ phiếu, hàng hóa, ngoại tệ hoặc các công cụ tài chính khác
trong khoảng thời gian ngắn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở chênh
lệch giá.
Đối với khái niệm “hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM” cho

đến nay mặc dù đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến nhưng nhìn chung khái niệm
này vẫn còn chưa có sự thống nhất và thể hiện rõ ràng. Ở các lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau, một số khái niệm liên quan được sử dụng như khái niệm “hoạt động đầu
tư chứng khoán”, hoặc khái niệm “đầu tư vào chứng khoán”, hoặc khái niệm “kinh


16

doanh chứng khoán của NHTM” v.v. Cụ thể:
- Trong sách chuyên khảo “Bank Management and Financial Services” của
Peter Rose (9h Edition, 2013) đã đề cập đến “hoạt động đầu tư chứng khoán” trong
ngân hàng chủ yếu đầu tư vào các loại chứng khoán sau: Tín phiếu và trái phiếu
Chính phủ, Tín phiếu và trái phiếu công ty, các loại chứng khoán nợ khác và một số
cổ phiếu được pháp luật cho phép. Việc nắm giữ các loại chứng khoán này có vai
trò quan trọng đối với danh mục tài sản của ngân hàng như đem lại thu nhập, nâng
cao tính thanh khoản, tăng cường mức độ đa dạng hóa, hạn chế rủi ro và ít nhất một
phần thu nhập của ngân hàng sẽ không phải chịu thuế [58, tr368].
- Trong sách chuyên khảo “Quản trị ngân hàng thương mại” của GS.TS Lê
Văn Tư (2005) cũng đề cập đến nội dung “ Đầu tư vào chứng khoán” là loại hình
phổ biến nhất trong tài sản có của các NHTM tại các nước đã phát triển [35, tr106].
Ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích
tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh khoản, đa dạng hóa các dịch vụ kinh
doanh nhằm phân tán rủi ro [35, tr113].
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến khái niệm “kinh doanh chứng khoán của
NHTM” là việc mua đi bán lại các loại chứng khoán bằng vốn của mình bỏ ra. Đặc
điểm của hình thức kinh doanh này là ngân hàng luôn luôn mua chứng khoán của
khách hàng bằng tiền của mình và bán cho khách hàng từ dự trữ của mình. Đồng
thời, việc thực hiện các nghiệp vụ này đối với khách hàng không vì mục đích ăn hoa
hồng, mà là lợi nhuận chênh lệch giữa thị giá mua và thị giá bán. Nghĩa là ngân
hàng sẽ tìm cách mua các chứng khoán với giá thấp nhất, bán chúng với giá cao

nhất [35, tr368].
- Trong lĩnh vực hạch toán kế toán ngân hàng, ví dụ như trong sách chuyên
khảo “Kế toán ngân hàng” (2007) của đồng chủ biên TS Nguyễn Thị Thanh Hương
và NGƯT. Vũ Thiện Thập, đã đề cập đến các nội dung liên quan đến “nghiệp vụ
đầu tư chứng khoán của TCTD” và “nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của
TCTD”. Cụ thể, “TCTD mua, bán chứng khoán nhằm mục đích sinh lời thông qua 2
kênh: qua chênh lệch giá và qua lãi nắm giữ giấy tờ có giá. Hai mục tiêu trên của
TCTD có ảnh hưởng tới công tác kế toán các hoạt động này” [18, tr166]. Ngoài ra,


17

các tác giả cũng đã đề cập đến sự phân biệt giữa 02 nghiệp vụ này thông qua hệ
thống các tài khoản kế toán khác nhau. Cụ thể:

+ Để phản ánh nghiệp vụ đầu tư chứng khoán của TCTD, trong hệ thống tài
khoản kế toán của các TCTD bố trí các tài khoản sau: 151 – Chứng khoán đầu tư
sẵn sàng để bán: 152 – Chứng khoán đầu tư giữ đến ngày đáo hạn [18, tr167].

+ Để phản ánh nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của TCTD, kế toán sử
dụng các tài khoản sau: Tài khoản cấp I số hiệu 14 – Chứng khoán kinh doanh [18,
tr168].
- Tuy nhiên, tại khoản 19, điều 6 Luật Chứng Khoán ban hành năm 2006 giải
thích về khái niệm “kinh doanh chứng khoán” là: “Kinh doanh chứng khoán là việc
thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát
hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ
đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán” [23, tr4]. Như vậy,
theo quy định này khái niệm “kinh doanh chứng khoán” là tương đối rộng, không
chỉ bao gồm việc mua, bán chứng khoán mà còn thực hiện các nghiệp vụ khác về
dịch vụ như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, lưu ký v.v. nhằm thu lợi nhuận.

Nhìn chung, còn nhiều các công trình nghiên cứu hay các quan điểm khác đã
phản ánh các nội dung liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu, tuy
nhiên chưa có nội dung nào đã đề cập cụ thể phản ánh về khái niệm “hoạt động đầu
tư kinh doanh trái phiếu của NHTM” là gì? Ngoài ra, các khái niệm trên đề cập đến
phạm vi tương đối rộng bao gồm cả các hoạt động mang tính chất phục vụ khách
hàng nhằm thu phí dịch vụ; đồng thời bao gồm cả trái phiếu, cổ phiếu và các chứng
khoán khác.
Trên cơ sở đó, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái niệm hoạt động
đầu tư kinh doanh trái phiếu của Ngân hàng thương mại được hiểu là việc Ngân
hàng thương mại bỏ vốn mua các trái phiếu khác nhau để giữ đến ngày đáo hạn
hoặc bán ra trên thị trường thứ cấp, hoặc thực hiện các hoạt động liên quan đến
trái phiếu nhằm mục đích là tăng cường khả năng thanh khoản, đồng thời đem lại
thu nhập cho ngân hàng và đa dạng hóa hoạt động đầu tư kinh doanh để phân tán
rủi ro. Các hoạt động liên quan đến trái phiếu chủ yếu bao gồm các hoạt động cơ


18

bản sau: cầm cố, chiết khấu, repo, reverse repo v.v. (không bao gồm các hoạt động
mang tính chất phục vụ khách hàng nhằm thu phí dịch vụ như tư vấn phát hành,
bảo lãnh phát hành, lưu ký trái phiếu v.v.)
1.1.2. Mục đích và đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của ngân hàng thương mại
Như vậy, qua khái niệm trên luận án có thể rút ra mục đích và một số đặc
điểm cơ bản của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM như sau: [6],
[10], [35], [47].
1.1.2.1. Mục đích
- Hỗ trợ nguồn thanh khoản và đảm bảo thanh toán: Trong quá trình hoạt
động, có những thời điểm khó khăn trong thanh khoản ngắn hạn, việc huy động vốn
từ cá nhân, tổ chức và các ngân hàng khác không dễ dàng, thì kênh huy động vốn từ

việc tham gia nghiệp vụ OMO, cầm cố thế chấp trái phiếu vay vốn với NHNN, hoặc
thực hiện vay vốn các tổ chức khác có đảm bảo bằng trái phiếu, hoặc bán hẳn trái
phiếu trên thị trường thứ cấp được các NHTM áp dụng phổ biến. Bên cạnh đó,
NHTM cũng có thể cầm cố trái phiếu tại NHNN để thiết lập hạn mức thấu chi tài
khoản hoặc đảm bảo cho việc thanh toán tập trung một tài khoản tại NHNN trong
thời gian ngắn nhất.
- Tìm kiếm lợi nhuận: So với hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư kinh
doanh trái phiếu có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn song cũng có ý nghĩa rất quan trọng
về mặt thu nhập và tạo điều kiện cho các ngân hàng thâm nhập sâu rộng vào nền
kinh tế. Bên cạnh đó, hoạt động này nhằm tạo cân bằng về thu nhập cho ngân hàng
trong chu kỳ kinh doanh. Khi thu nhập từ các khoản tín dụng giảm xuống thì thu
nhập trái phiếu có thể bù đắp lại.
Việc đầu tư kinh doanh trái phiếu sẽ đem lại cho ngân hàng thu nhập từ việc
hưởng lãi Coupon, chênh lệch giá mua và giá bán trái phiếu v.v. Bên cạnh đó,
NHTM có thể sử dụng nguồn vốn vay từ NHNN thông qua nghiệp vụ thị trường
mở, cầm cố chiết khấu trái phiếu với lãi suất thấp để cho vay lại các tổ chức khác
với lãi suất cao hơn. Hơn nữa, hoạt động này cũng giúp giảm nhẹ mức độ tác động
của thuế tới hoạt động ngân hàng, đặc biệt là bù đắp cho các khoản thu nhập từ cho


19

vay bị đánh thuế.
- Đa dạng hóa danh mục đầu tư: hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu cũng
góp phần đa dạng hóa danh mục đầu tư, bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống và cổ
điển như tín dụng, góp vốn liên doanh liên kết v.v. Việc đa dạng hóa danh mục đầu
tư giúp NHTM phân chia rủi ro trong hoạt động cho vay, đầu tư, đa dạng hóa lợi
nhuận từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng giúp tạo nên sự
mềm dẻo trong việc quản lý danh mục tài sản của ngân hàng bởi vì không giống
như phần lớn danh mục cho vay, rất nhiều loại trái phiếu đầu tư có thể được mua

hoặc bán nhanh chóng để cấu trúc lại danh mục tài sản.
- Tạo sự đa dạng về mặt địa lý: Trái phiếu thường xuất phát từ nhiều khu vực
khác nhau hơn so với các khoản tín dụng của ngân hàng, điều này cho phép NHTM
đa dạng hóa đầu tư và lợi nhuận của nó trên phương diện địa lý một cách có hiệu
quả hơn.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh và thương hiệu ngân hàng: Hiện nay một
trong những chỉ số đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM là hệ số CAR. Đây là
tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi. Theo chuẩn quốc tế
thì CAR tối thiểu phải đạt 9%. Trên cơ sở đó, hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu, đặc biệt là trái phiếu có mức độ rủi ro thấp như Trái phiếu Chính phủ, Tín
phiếu NHNN cũng góp phần làm tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của NHTM (hệ số
CAR) trên cơ sở giảm tổng tài sản có rủi ro chuyển đổi, từ đó nâng cao năng lực
cạnh tranh và thương hiệu của ngân hàng.
- Là công cụ thực hiện chính sách quản lý tài sản của NHTM: Trái phiếu
được đầu tư kinh doanh sẽ nằm trong danh mục tài sản sinh lời của NHTM. Khi
hoạt động mua – bán trái phiếu diễn ra nó sẽ tác động lên bảng cân đối kế toán của
ngân hàng, nó làm thay đổi cấu trúc của danh mục tài sản. Do đó, hoạt động này
cũng được coi là một trong những công cụ hữu hiệu để thực hiện chính sách quản lý
tài sản của NHTM.
1.1.2.2. Đặc điểm
Một là, nguồn vốn được NHTM sử dụng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh


20

doanh trái phiếu của mình chủ yếu là nguồn vốn huy động từ tổ chức, dân cư và nền
kinh tế. Mặt khác, xét về mặt thứ tự ưu tiên, ngân hàng thường sử dụng nguồn vốn
huy động vào các mục đích như đảm bảo dự trữ theo quy định; đảm bảo dự phòng
cho các nhu cầu thanh khoản (trong đó có việc nắm giữ các trái phiếu ngắn hạn có
tính thanh khoản cao); đáp ứng nhu cầu cho vay nền kinh tế và cuối cùng là thực

hiện đầu tư kinh doanh trái phiếu và các loại hình đầu tư khác để tìm kiếm lợi nhuận
và đa dạng hóa danh mục đầu tư của ngân hàng. Vì vậy, quy mô, chiến lược thực
hiện, phương thức thực hiện đầu tư kinh doanh trái phiếu phải nằm trong kế hoạch
cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn của ngân hàng tại từng thời điểm hoặc trong
một khoảng thời gian dài. Chẳng hạn như trong các đợt suy thoái hoặc các giai đoạn
nền kinh tế chậm phát triển khi mà hoạt động tín dụng không tăng trưởng, hầu hết
các ngân hàng sẽ tăng cường hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. Ngược lại,
trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế, khi nhu cầu vay vốn của nền kinh tế tăng,
các NHTM thường có xu hướng tập trung tăng trưởng tín dụng và giảm các hoạt
động đầu tư kinh doanh khác, trong đó bao gồm cả trái phiếu.
Hai là, tính linh hoạt và chủ động trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu: So với danh mục tín dụng, khả năng linh hoạt trong điều chỉnh danh mục đầu
tư kinh doanh trái phiếu là tốt hơn, bởi trái phiếu có khả năng mua bán một cách
nhanh chóng nên có thể dễ dàng hơn trước yêu cầu cấu trúc lại danh mục tài sản của
ngân hàng.
Ba là, tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao: được thể hiện ở đội ngũ
cán bộ thực hiện, cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ phục vụ, quy trình nghiệp vụ,
cách phân định chức năng nhiệm vụ cho phòng ban liên quan đến hoạt động đầu tư
kinh doanh trái phiếu.
1.1.3. Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM
Xét về tổng thể, mô hình tổ chức đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của NHTM được chia ra thành 03 bộ phận bao gồm: bộ phận kinh doanh
(Front Offices), bộ phận nghiên cứu & kiểm soát rủi ro (Middle offices) và bộ phận
xử lý giao dịch (Back office). Sự phân tách trách nhiệm độc lập giữa ba bộ phận này
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng.


21

- Đối với bộ phận kinh doanh (Front Offices), ngân hàng thường chia ra làm

2 bộ phận chính chuyên biệt:

+ Bộ phận hoạt động phục vụ cho thanh khoản toàn hệ thống: Bộ phận này
chịu trách nhiệm thực hiện các giao dịch nhằm hỗ trợ việc quản lý thanh khoản
hàng ngày hoặc phục vụ thanh khoản trung-dài hạn của hệ thống nhằm đảm bảo khả
năng chi trả và giảm thiểu rủi ro thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động này không
mang tính chất tự doanh, đầu cơ hay môi giới.

+ Bộ phận kinh doanh (Trading): Bộ phận hoạt động kinh doanh dùng vốn
của ngân hàng để kinh doanh bằng cách áp dụng các chiến thuật đầu tư khác nhau
để nắm giữ các trạng thái đầu tư căn cứ vào các phán đoán về thị trường. Hoạt động
kinh doanh áp dụng cho tất cả các loại sản phẩm tài chính bao gồm cả trái phiếu
niêm yết, trái phiếu không niêm yết.
Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu
của Ngân hàng thương mại

- Đối với bộ phận nghiên cứu & kiểm soát rủi ro (Middle offices), ngân hàng
thường chia ra làm 2 bộ phận chuyên biệt:

+ Bộ phận kiểm soát rủi ro là bộ phận có trách nhiệm kiểm soát giám sát hoạt
động của các giao dịch viên tại front offices. Các NHTM thường quy định rất khắt
khe về quy trình thực hiện giao dịch, về những hạn mức mà giao dịch viên được
phép đầu tư kinh doanh. Bộ phận kiểm soát rủi ro hình thành với mục tiêu đảm bảo
tất cả những quy định đó được tuân thủ một cách nghiêm túc. Bộ phận này thường
xuyên cập nhật trạng thái đầu tư kinh doanh cho từng trái phiếu, từng loại rủi ro cho


22

từng cán bộ thuộc bộ phận kinh doanh. Trường hợp có bất cứ một sự vi phạm nào,

bộ phận kiểm soát rủi ro phải phát hiện ra và đưa ra những hình thức ngăn chặn
hoặc xử lý thích hợp. Về cơ cấu tổ chức, bộ phận kiểm soát rủi ro cũng có thể chia
thành các nhóm quản trị rủi ro khác nhau như: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và
rủi ro hoạt động.

+ Bộ phận nghiên cứu là bộ phận nghiên cứu và phân tích về những yếu tố
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự biến động của các loại trái phiếu trên thị
trường, nhằm giúp bộ phận kinh doanh có thể ra được quyết định mua bán của mình
một cách linh hoạt kịp thời. Các sản phẩm nghiên cứu của bộ phận này rất đa dạng,
bao gồm các báo cáo nghiên cứu chung như kinh tế vĩ mô, nghiên cứu ngành,
nghiên cứu chiến thuật đầu tư và nghiên cứu sản phẩm v.v.
- Đối với bộ phận xử lý giao dịch (Back office): là bộ phận xử lý giao dịch có
nhiệm vụ xử lý các giao dịch trái phiếu. Về cơ bản, các cán bộ xử lý giao dịch đòi
hỏi các hiểu biết về sản phẩm, nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu cũng như chi
tiết các thủ tục hoạt động như quy trình luân chuyển chứng từ, hạch toán sản phẩm,
xác nhận, thanh toán và lưu ký trái phiếu. Bộ phận này có nhiệm vụ ghi chép, phản
ánh và lưu trữ toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh từ khi phát sinh, quá trình phát triển,
kết thúc và tồn tại. Đồng thời bộ phận này cũng phục vụ cho các nhân viên ở bộ
phận kinh doanh về số liệu, chứng từ, hồ sơ của những nghiệp vụ có liên quan. Số
liệu này còn giúp cho cán bộ kế hoạch kiểm tra và giám đốc ngân hàng theo dõi kết
quả kinh doanh, nhận định tình hình và đề ra những chủ trương thích hợp về
phương hướng hoạt động của ngân hàng, phát triển sản phẩm này, thu hẹp sản phẩm
khác, quan hệ với các ngân hàng bạn, quan hệ với ngân hàng trung ương.
Sự phối hợp giữa các bộ phận này phải nhịp nhàng và thống nhất. Sự nhịp
nhàng và thống nhất thể hiện ở chỗ khi những giao dịch phát sinh tại bộ phận front
office thì ngay lập tức bộ phận kiểm soát phải được cập nhật và nắm bắt để có thể
kiểm định những hạn mức và đánh giá các mức độ rủi ro phát sinh. Bộ phận back
office cũng cần phải làm hợp đồng và nhận hợp đồng giao dịch kịp thời, đảm bảo
việc hạch toán chuyển tiền theo đúng quy định. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả
hoạt động và hạn chế rủi ro, các bộ phận này sẽ do các lãnh đạo khác nhau (mang



23

tính độc lập, riêng biệt) kiểm soát và phê duyệt các giao dịch hay các vấn đề phát
sinh liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận.
Hơn nữa, hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các ngân hàng này
không những chỉ thực hiện trong phạm vi các sản phẩm và đối tác trong nước mà
còn phát triển ra phạm vi ngoài lãnh thổ. Để thực hiện điều này, các ngân hàng xây
dựng các chi nhánh của mình hoạt động trên các quốc gia khác, và chịu trách nhiệm
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại mỗi quốc gia đó trong các hạn mức cho
phép. Các chi nhánh của ngân hàng luôn có mối quan hệ và phối hợp chặt chẽ trong
hoạt động dựa trên lợi thế riêng của từng chi nhánh. Chẳng hạn đối tác của chi
nhánh A muốn mua trái phiếu được phát hành tại quốc gia B, thì chi nhánh A sẽ
phối hợp với chi nhánh tại quốc gia B (chi nhánh B) để tìm kiếm trái phiếu và giao
dịch với đối tác này.
1.1.4. Phân loại và chiến lược thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trái
phiếu của ngân hàng thương mại
Nhìn chung nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM bao gồm
nhiều hoạt động cụ thể, có thể phân loại theo các tiêu chí cơ bản khác nhau, tương
ứng với các chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau. Mặt khác, tùy thuộc vào từng
chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau thì sẽ có phương thức, điều kiện, loại hình
và thị trường đầu tư kinh doanh tương ứng. Cụ thể:
1.1.4.1. Phân loại theo chủ thể phát hành trái phiếu
a. Các loại hình đầu tư kinh doanh
- Đầu tư kinh doanh Trái phiếu chính phủ: Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Ngân sách nhà nước hoặc làm công cụ điều tiết thị trường tiền tệ, Chính phủ các
nước thường phát hành trái phiếu để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân
cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Trái phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ,
có thời hạn, mệnh giá, lãi suất, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ đối với

người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu Chính phủ bao gồm các loại hàng hóa cơ bản
bao gồm:
+ Tín phiếu Kho Bạc (T-bill): là một loại trái phiếu do Kho bạc Nhà nước
phát hành có thời hạn dưới 1 năm phát hành dưới dạng chiết khấu (Trả lãi trước).


24

Trái chủ sẽ được nhận toàn bộ giá trị danh nghĩa của mệnh giá khi đáo hạn.
+ Trái phiếu Kho bạc (T-bond): là loại trái phiếu do Kho Bạc Nhà nước phát
hành có thời hạn trên 1 năm, thường được trả lãi định kỳ.
Đây là loại trái phiếu hầu như ít có rủi ro thanh toán và có tính thanh khoản
cao. Do đặc điểm này, lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn
để làm căn cứ ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh: NHTM thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh đối với các loại chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát
hành nhằm huy động vốn cho các công trình theo chỉ định của Chính phủ, được
Chính phủ cam kết trước các nhà đầu tư về việc thanh toán đúng hạn của tổ chức
phát hành. Trường hợp tổ chức phát hành không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán
(gốc, lãi) khi đến hạn thì Chính phủ sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay tổ chức phát
hành. Do vậy, hoạt động đầu tư kinh doanh loại trái phiếu này của NHTM cũng sẽ
có tính an toàn cao, tính rủi ro thấp.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu chính quyền địa phương (Trái phiếu đô thị):
NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu do chính quyền địa
phương phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương đối với
người sở hữu trái phiếu. Trái phiếu chính quyền địa phương phát hành nhằm mục
đích để huy động vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của từng
địa phương.
- Đầu tư kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp (trái phiếu công ty): Trái phiếu
doanh nghiệp là loại trái phiếu được phát hành bởi các doanh nghiệp, xác nhận

nghĩa vụ thanh toán cả gốc và lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu
trái phiếu. Mặt khác, các doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo nguyên tắc tự vay,
tự trả và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn vay, và không có sự bảo lãnh
nào của Chính phủ trong việc phát hành. Trái phiếu doanh nghiệp cũng bao gồm
nhiều loại:
+ Trái phiếu có đảm bảo: Đây là những trái phiếu được bảo đảm bằng những
tài sản đảm bảo (là bất động sản, bảo lãnh của bên thứ 3 v.v.). Ngân hàng thương
mại khi nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở mức độ an toàn hơn trong trường hợp


25

doanh nghiệp phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. Tại một số
quốc gia, một tài sản có thể được sử dụng làm tài sản đảm bảo cho nhiều hơn một
loại nghĩa vụ nợ khác nhau, do đó phải xác định rõ thứ tự ưu tiên thanh toán của tài
sản đảm bảo đối với các trái chủ.
+ Trái phiếu không đảm bảo: Đây là loại trái phiếu không được bảo đảm
bằng tài sản, mà chỉ được bảo đảm bằng uy tín của doanh nghiệp, có mức độ rủi ro
lớn hơn đối với trái phiếu có đảm bảo nên lãi suất cao hơn trái phiếu có đảm bảo.
Như vậy, hoạt động đầu tư kinh doanh của NHTM vào các loại trái phiếu
doanh nghiệp sẽ chứa đựng rủi ro cao hơn so với đầu tư kinh doanh trái phiếu Chính
phủ hoặc được Chính phủ bảo lãnh. NHTM nắm giữ Trái phiếu doanh nghiệp cần
xem xét rủi ro tín dụng của chủ thể phát hành và các biện pháp tăng cường khả năng
tín dụng.
b. Chiến lược thực hiện
Việc phân loại theo chủ thể phát hành như trên có vai trò rất quan trọng trong
việc cân đối giữa tính thanh khoản và sinh lời của ngân hàng. Đối với các NHTM
với chính sách hoạt động thận trọng ngại rủi ro, hoặc các NHTM quy mô nhỏ; hoặc
các NHTM có tỷ lệ nợ xấu từ tín dụng cao v.v. thường có xu hướng tập trung đầu tư
kinh doanh đối với các loại trái phiếu ít rủi ro, thanh khoản cao như trái phiếu chính

phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, đồng thời hạn chế việc nắm giữ các loại
trái phiếu có rủi ro như trái phiếu doanh nghiệp.
Mặt khác, nhằm mục đích đảm bảo nguồn dự trữ thanh khoản thứ cấp, các
NHTM còn thực hiện chính sách nắm giữ tỷ lệ nhất định các loại trái phiếu chính
phủ có tính thanh khoản cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của ngân hàng
trong trường hợp cần thiết. Ngoài ra, việc tăng tỷ lệ nắm giữ các loại trái phiếu
Chính phủ ít rủi ro còn giúp cho các NHTM giảm bớt danh mục tài sản Có rủi ro, từ
đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM thông qua việc tăng tỷ lệ an toàn
tối thiểu (CAR).
Đối với các NHTM có tiềm lực tài chính mạnh, tỷ lệ nợ xấu thấp thì chiến
lược tăng tỷ lệ nắm giữ các loại trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá là phù hợp
nếu muốn thực hiện đa dạng hóa hoạt động đầu tư và tăng lợi nhuận cho ngân hàng.


×