Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động ở tỉnh Tuyên Quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.9 KB, 84 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

LỜI MỞ ĐẦU
1)Tính cấp thiết của đề tài:
Việt nam vốn là một nước sản xuất nông nghiệp, với 80 % dân số sống ở
nông thôn và trên 70% dân số sống bằng nghề nông. hiện nay trong cơ cấu kinh tế
của cả nước, nông nghiệp chiếm khoảng 25 % tổng sản phẩm của nền kinh tế quốc
dân. Từ đặc điểm đó đảng ta khẳng định vai trò, vị trí to lớn của nông nghiệp, lấy
nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu nhằm ổn định kinh tế xã hội, để đất nước vượt
qua khó khăn, thử thách tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Quá trình đổi mới nền kinh tế nông nghiệp bắt đầu từ chỉ thị 100 của ban bí
thư trung ương (1-1981) đến nghị quyết 10 của bộ chính trị tiếp theo là những chính
sách, giải pháp cụ thể của chính phủ đã tạo ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế
nước ta, nông nghiệp đã có bước phát triển vượt bậc nước ta từ một nước có nền
kinh tế lạc hâu, thiếu thốn thì hiện nay đã trở thành một nước có nền kinh tế đang
phát triển, vai trò và vị trí của nước ta trên thị trường thế giới, cũng như trong khu
vực. Về nông nghiệp việt nam đã là nước đứng thứ hai về suất khẩu gạo, đứng thứ
nhất trong sản xuất hạt tiêu, đứng thứ hai về suất khẩu café
Tuyên quang là một tỉnh có dân số năm 2010 là 761001 người trong đó có
378712 nam giới, 382289 nữ giới, dân số từ 15 tuổi trở lên là 550369 người( trong
đó có 271408 nam giới, 278961 nữ giới), lực lượng lao động có 453038
người( trong đó có 228665 người nữ và 224373 nam), lực lượng lao động làm việc
trong khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ cao ( nông thôn chiếm 86,2% còn thành thị
chiếm 13,8%) nhưng thu nhập bình quân trên đầu người của người dân ở nông thôn
là rất thấp so với người dân sống trong thành thị. Và tỷ lệ thất nghiệp trong khu vực
nông thôn chiếm tỷ trọng rất cao( thất nghiệp nông thôn 12549 người còn ở thành
thị la 2096 người ) thất nghiệp ở nông thôn chiếm 85,69 % còn thành thị là 14,31%
do đó em lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động
ở tỉnh Tuyên Quang “ làm chuyên đề tốt nghiệp Đại Học. Bởi đây là vấn đề có ý


nghĩa trong việc gắn liền nghiên cứu khoa học với giải quyết những vấn đề thực tiễn
cấp bách đang được đắt ra trong phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta nói chung
và ở tỉnh Tuyên Quang nói riêng
2) Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về mặt thời gian thì đề tài nghiên cứu trong khoảng thời gian là 5 năm từ
năm 2005 đến 2009, đề tài tập trung nghiên cứu điều tra trên phạm vi cả tỉnh Tuyên

Nguyễn Văn Phẩm

1

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

Quang cụ thể là bao gồm 5 huyện (Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, Sơn
Dương )
3)Mục đích nghiên cứu của đề tài :
Đánh giá về thực trạng lao động – việc làm, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu
lao động trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang , đặc biệt là tình hình cũng như chất lượng
lao động của những lao động ở nông thôn, lao động có thu nhập thấp, đồng bào dân
tộc thiểu số. Từ đó đề xuất các giải pháp, biện pháp và chính sách nhằm tạo việc
làm bền vững và tăng thu nhập cho người lao động. Dự báo lực lượng lao động và
lộ trình chuyển dịch cơ cấu lao động cho từng giai đoạn phù hợp với cơ cấu kinh tế
của tỉnh
4) Phương pháp nghiên cứu của đề tài :
để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên đề tài áp dụng các phương pháp

nghiên cứu sau :
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phương pháp điều tra thực tế
-Phương pháp so sánh đối chứng
- phương pháp lôgich
-Phương pháp thống kê toán
-Phương pháp tổng hợp
- Ngoài ra còn tham khảo các văn bản, tài liệu của trường, của Bộ Lao Động
Thương Binh &Xã Hôị
5) Kết cấu của đề tài :
Ngoài phần mở đầu và kết luận ra thì nội dung của đề tài gồm ba chương
chính sau đây
Chương 1 : Cơ sở lý luận về lao động việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động tỉnh Tuyên Quang
Chương 3: Định hướng và giải pháp nhằm giải quyết việc làm, chuyển dịch
cơ cấu lao động nông nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới

Nguyễn Văn Phẩm

2

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM,
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Những khái niệm cơ bản về lao động việc làm
1.1.1.1. Khái niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các vật chất
tự nhiên thành sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Lao động là một
hành động diễn ra giữa người với tự nhiên. trong khi lao động con người vận dụng
sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình sử dụng công cụ lao động để tác động vào
giới tự nhiên, chiếm lấy những vật chất trong tự nhiên, biến đổi vậy chất đó làm cho
chúng trở nên có ích cho đời sống của mình. Vì thế lao động là điều kiện không thể
thiếu của đời sống con người là một sự tất yếu vĩnh viễn, là kẻ môi giới trong sự
trao đổi vật chất tự nhiên và con người lao động chính là việc sử dụng sức lao động
1.1.1.2. Khái niệm về thị trường lao động
- Theo giáo trình giảng dạy của khoa kinh tế lao động trường đại học Kinh
Tế Quốc Dân thì cũng đưa ra một số khái niệm về thị trường lao động như sau
thứ nhất : Thị trường lao động là một không gian trao đổi tiến tới thoả thuận
giữa người sở hữư sức lao động và người cần có sức lao động để sử dụng
Thứ hai: Là mối quan hệ xã hội giữa người lao động có thể tìm được việc
làm để có thu nhập và người sử dụng lao động để có thể thuê được công nhân bằng
cách trả công để tiến hành sản xuất kinh doanh
Thứ ba : Là toàn bộ những quan hệ kinh tế hình thành trong lĩnh vực thuê
mướn lao động. Tuy có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng các nhà nghiên
cứu đều thống nhất với nhau về những nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường
lao động, đó là : không gian ; người cần bán sức lao động ;người cần mua sức lao
động ; giá cả sức lao động và những rằng buộc giữa các bên về những nội dung này
từ đó thị trường lao động được hiểu như sau :Thị trường lao động là một bộ phận
của hệ thống thị trường, trong đó diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người
lao động tự do và một bên là người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này
được thoả thuận trên cơ sở các mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều
kiện làm việc, bảo hiểm xã hội … thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản

hoạc bằng miệng . Như vậy thị trường lao động được cấu thành bởi ba yếu tố :
Nguyễn Văn Phẩm

3

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

cung, cầu và giá cả sức lao động. Giữa ba yếu tố này có mối liên quan, ảnh hưởng
lẫn nhau. Sức lao động trao đổi trên thị trường được thể hiện thông qua số lượng
( quy mô ), chất lượng ( kỹ năng, trình độ ) và cơ cấu lao động. Nói tới sự vận động
của thị trường lao động cũng tức là nói đến sự vận động của các yếu tố cung, cầu và
giá cả sức lao động
+ cung về lao động :Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao đống sống
( số lượng, chất lượng và cơ cấu của lực lượng lao động ) tham gia vào thị trường
lao động trong một thời gian nhất định. Cung về lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng
nguồn lao động, sự biến động của cầu về lao động, trình độ đào tạo, hướng nghiệp
và dạy nghề còn theo sách kinh tế vĩ mô thì cung lao động chính là lực lượng lao
động xã hội. Còn theo một số chuyên gia khác cung về lao động toàn bộ những
người có nhu cầu về việc làm, bao gồm cả những người trong và ngoài độ tuổi lao
động. Đây là quan điểm đáng lưu ý vì nó có ý nghĩa thực tiễn, nhưng trên góc độ
quản lý và thống kê, cung về lao động chủ yếu đề cập lao động từ 15 tuổi trở lên. Vì
vậy khi nói đến cung trên thị trường lao động cần phải kể đến cung thực tế và cung
tiềm năng
Cung thực tế : bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc
và những người thất nghiệp

Cung tiềm năng : bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc và những người đang thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình mình, hoạc
không có nhu cầu làm việc và tình trạng khác
+ Cầu về lao động : theo nhiều nhà kinh tế học thì cầu lao động là khả năng
thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Cũng như cung, cầu về lao động cũng
phải được xem xét trên hai khía cạnh, cầu thực tế và cầu tiềm năng
Cầu thực tế : là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời điểm nhất
định ( bao gồm cả chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới )
Cầu tiềm năng :là số lao động tương ứng với tổng số chỗ làm việc có được,
sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến tạo việc làm trong tương lai như vốn,
đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, chính trị, xã hội...như vậy cầu tiềm năng =cầu
thực tế + số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai

Nguyễn Văn Phẩm

4

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

1.1.1.3. Khái niệm về việc làm
- Theo giáo trình kinh tế lao động của trường đại học Kinh Tế Quốc Dân
khái niệm việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất
nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người
-Theo bộ luật lao động khái niệm việc làm được xác định là :” Mọi hoạt động

lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm “
Phân tích từ các quan điểm trên ta thấy : Khái niệm việc làm bao hàm các nội
dung chủ yếu sau đây:
- Là hoạt động lao động của con người
- Là hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập
- Là hoạt động lao động không bị pháp luật ngăn cấm
+ Người có việc làm : Là ngưòi đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các
nghành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định
cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo. Trong điều kiện Việt Nam, số ngày
công làm việc trong một năm của người có việc làm bình thường là 288 ngày và
tiền lương tối thiểu là 144000 đồng một tháng, tức 1728000 một năm. Theo kết quả
điều tra lao động, việc làm trong mấy năm gần đây thu nhập bình quân của một
ngày công lao động khoảng 15000 đồng. Do đó muốn đảm bảo đủ sống tối thiểu
một lao động thành thị phải làm việc ít nhất 8 công trong 1 tháng hoạc 96 cong
trong 1 năm. Từ đó mức chuẩn về thời gian làm việc là 16 giờ trong 1 tuần
+ Người thiếu việc làm :Theo tổ chức lao động quốc tế thì người thiếu việc
làm là người có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm
và có nhu cầu làm thêm. Người thiếu việc làm có hai dạng : thiếu việc làm vô hình
và thiếu việc làm hữu hình -.Ngưòi thiếu việc làm vô hình ( dạng không nhìn thấy
được ) là người có thời gian làm việc tuy đủ hoạc vượt mức chuẩn quy định về đủ
số giờ làm việc trong một tuần nhưng làm việc có năng suất thấp, công việc không
phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ và họ có nhu cầu tìm kiếm việc làm thêm hoạc
việc làm khác - Người thiếu việc làm hữu hình ( dạng nhìn thấy được )là người có
việc làm nhưng số giờ làm việc trong tuần ít hơn mức quy định và họ có nhu cầu
việc làm thêm. Mặt khác để phục vụ cho công tác quản lý và hoạch định các chính
sách về lao động, việc làm ở Việt Nam trong những năm tới chỉ nên xem xét số
người thiếu việc làm còn trong độ tuổi lao động và không tính những người nghỉ
hưu trước tuổi theo quy định của bộ luật lao động từ đó khái niệm người thiếu việc
Nguyễn Văn Phẩm


5

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

làm được hiểu như sau : Ngưòi thiếu việc làm là người trong dộ tuổi lao động đang
có việc làm, nhưng thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn quy định cho ngưòi đủ việc
làm trong tuần lễ thamkhảo hoạc trong tuần lễ thamkhảo không làm việc vì lý do
bất khả kháng, nhưng trong 4 tuần trước đó có thời gian làm việc ít hơn mức chuẩn
quy định cho người đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm
+ Người đủ việc làm :Là những người có việc làm với thời gian làm việc
không ít hơn mức giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm trong tuần lễ tham
khảo hoạc là những người làm việc dưới giờ chuẩn quy định cho người đủ việc làm,
nhưng không có nhu cầu làm thêm theo mức chuẩn là làm việc 40 giờ ( 5 ngày ) trở
lên trong một tuần hoạc trong tuần lễ tham khảo không làm việc vì lý do bất khả
khangs, nhưng trong 4 tuần trước đó làm việc 160 giờ ( 20 ngày ) trở lên
1.1.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu
lao động
1.1.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô lao động
Quy mô lao động thường được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh số
lượng lao động. Số lượng lao động là một bộ phận của nguồn lao động đang làm
việc trong các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực cũng như toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
Số lượng lao động được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất trong phân tích cơ cấu
và chuyển dịch cơ cấu lao động. Bởi vì, muốn phản ánh cơ cấu lao động trước hết

phải xác định được số lượng lao động, nhưng muốn xác định được số lượng lao
động phải dựa vào phân loại lao động. Vì vậy, phân loại lao động được coi là cơ sở
quan trọng nhất trong nghiên cứu cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Có nhiều tiêu thức phân loại lao động khác nhau, tuỳ theo mục đích nghiên
cứu để lựa chọn tiêu thức phân loại cho phù hợp. Trong thực tế hiện nay, tổng số
lao động thường được phân loại theo các tiêu thức như: theo ngành (để xác định cơ
cấu lao động theo ngành), theo thành phần kinh tế (để xác định cơ cấu lao động theo
thành phần kinh tế), theo khu vực thành thị và nông thôn (để xác định cơ cấu lao
động theo khu vực), theo trình độ chuyên môn kỹ thuật,...
Để đảm bảo thống kê số lượng lao động được chính xác, khi phân loại lao
động theo ngành cần chú trọng đến căn cứ xếp loại lao động vào từng ngành, đặc
biệt là đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bởi vì, trong khu vực kinh tế ngoài
nhà nước, một lao động trong năm có thể làm việc ở nhiều ngành khác nhau. Hiện
nay để giải quyết vấn đề này, qua tìm hiểu tại Cục Thống kê tỉnh Hà Tây, người ta
Nguyễn Văn Phẩm

6

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

thường căn cứ vào thời gian mà người lao động đó làm việc trong năm để xếp. Nếu
trong năm, người lao động làm việc ở ngành nào với thời gian trên 6 tháng hoặc
trên 150 ngày công (6 tháng x 25 ngày công/tháng) thì xếp người lao động vào
ngành đó. Ngược lại, nếu trong năm người lao động cùng làm việc ở nhiều ngành
khác nhau với số lượng ngày công tương đương (chẳng hạn vừa làm nông nghiệp,

vừa làm thủ công nghiệp), thì khi đó sẽ xét đến tiêu thức phụ là thu nhập. Nếu thu
nhập ở ngành nào cao hơn người lao động được xếp vào ngành đó. Việc xếp loại lao
động vào từng ngành như trên hiện đang được thực hiện thông qua phỏng vấn trong
các cuộc điều tra lao động việc làm. Việc xếp loại lao động như trên còn mang tính
quy ước, độ chính xác của nó phụ thuộc vào đối tượng được phỏng vấn.
Thống kê số lượng lao động.
- Số lượng lao động hiện có là chỉ tiêu phản ánh quy mô lao động. Quy mô
lao động có thể là số lao động tại thời điểm nghiên cứu (lao động hiện có) hoặc số
lao động bình quân (phản ánh quy mô lao động của một thời kỳ). Dựa trên cơ sở
phân loại lao động ta tính được số lượng lao động theo công thức sau.
- Công thức tính:
T = ∑Ti
Trong đó:
T là tổng số lao động (của các bộ phận)
Ti là số lượng lao động của bộ phận thứ i (xét theo tiêu thức phân loại lao
động). Bộ phận có thể là ngành (nếu phân loại lao động theo ngành), là thành phần
kinh tế (nếu phân loại lao động theo thành phần kinh tế),...
- Chỉ tiêu phản ánh quy mô lao động.
Như vậy, tuỳ theo tiêu thức phân loại lao động sẽ hình thành nên những chỉ
tiêu phản ánh quy mô lao động khác nhau, nhưng thông thường gồm các chỉ tiêu
chủ yếu sau:
+ Chỉ tiêu số lượng lao động theo ngành (trong đó có thể tính theo nhóm
ngành, theo ngành cấp1, theo ngành cấp 2,...)
+ Chỉ tiêu số lượng lao động theo khu vực thành thị và nông thôn (trong khu
vực thành thị hoặc nông thôn lại có thể chia ra theo ngành, theo thành phần kinh
tế,...)
+ Chỉ tiêu số lượng lao động theo thành phần kinh tế
+ Chỉ tiêu số lượng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
- Nguồn số liệu thống kê:
Nguyễn Văn Phẩm


7

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

Để xác định số lượng lao động, hiện nay thường dựa vào các nguồn số liệu
sau:
+ Với các đơn vị thuộc khu vực kinh tế nhà nước như các doanh nghiệp, các
ngành dựa vào số liệu báo cáo thống kê định kỳ.
+ Với các đơn vị thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước dựa vào số liệu điều
tra lao động, thường là các cuộc điều tra ngày 1/7 hàng năm.
1.2.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động
- Cơ cấu lao động là một phạm trù phản ánh một tập hợp các bộ phận cấu
thành tổng thể lao động theo những tỷ trọng nhất định và mối quan hệ về lao động
giữa các bộ phận đó.
- Cơ cấu lao động được tính theo công thức sau:

Trong đó:
d: Tỷ trọng lao động của bộ phận so với tổng thể.
ybp: số lượng lao động của từng bộ phận cấu thành nên tổng thể.
ytt: số lượng lao động của tổng thể nghiên cứu.
- Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động
Có nhiều chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động khác nhau, tuỳ theo mục đích
nghiên cứu để lựa chọn cho thích hợp. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, cơ cấu lao
động thường được nghiên cứu theo ngành kinh tế, theo thành phần kinh tế, theo khu

vực thành thị và nông thôn, theo trình độ chuyên môn kỹ thuật,... Tương ứng với
nó, ta có các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động như sau:
+ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động theo ngành kinh tế (theo nhóm ngành,
theo ngành cấp 1, theo ngành cấp 2,...)
+ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế.
+ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động khu vực thành thị và nông thôn (trong
khu vực thành thị hoặc nông thôn lại có cơ cấu lao động theo ngành, cơ cấu lao
động theo thành phần kinh tế,...)
+ Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật,...

Nguyễn Văn Phẩm

8

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

1.2.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu lao động
- Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình làm thay đổi quan hệ tỷ lệ và mối
liên hệ về lao động của các bộ phận cấu thành tổng thể lao động theo những mục
tiêu và định hướng nhất định.
- Phương pháp tính.
Chuyển dịch cơ cấu lao động tính được bằng cách so sánh tỷ trọng lao động
của từng bộ phận trong tổng thể kỳ này với kỳ trước đó (chuyển dịch theo thời gian)
hoặc giữa các bộ phận trong tổng thể với nhau (chuyển dịch theo không gian) để
thấy được đã tăng lên (hay giảm đi) bao nhiêu phần trăm.

- Nhóm chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu lao động.
+ Chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu lao động theo thời gian, gồm các chỉ
tiêu chủ yếu như: chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, theo thành phần kinh tế,
theo khu vực thành thị và nông thôn, theo trình độ chuyên môn kỹ thuật.
+ Chỉ tiêu phản ánh chuyển dịch cơ cấu lao động theo không gian, gồm các
chỉ tiêu chủ yếu như: chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành, chuyển dịch cơ
cấu lao động giữa các vùng lãnh thổ.
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nội bộ ngành, vùng lãnh thổ hoặc thành
phần kinh tế. Ví dụ trong ngành nông nghiệp: bản thân ngành trồng trọt cũng cần có
sự thay đổi cơ cấu giữa trồng cây hàng năm với trồng cây lâu năm; trong cây hàng
năm cũng cần thay đổi theo hướng trồng cây có giá trị kinh tế cao, có thị trường
xuất khẩu.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CƠ CẤU
LAO ĐỘNG
1.2.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế :
Quan niệm chung nhất về cơ cấu được hiểu là tập hợp các cấu phần, theo
một tỷ lệ nhất định, trong mối quan hệ ràng buộc hữu cơ với nhau, tạo nên một
chỉnh thể thống nhất.
Từ đó, khái niệm “cơ cấu kinh tế” được dùng để chỉ các bộ phận cấu thành
(cấu phần) nền kinh tế của một quốc gia, địa phương, vùng lãnh thổ. Nền kinh tế đó
hình thành từ các bộ phận với một quan hệ tỷ lệ nhất định được phân loại theo các
chỉ tiêu (ngành, vùng, khu vực, các thành phần kinh tế…) và giữa chúng có mối
quan hệ với nhau không thể tách rời. Cơ cấu kinh tế phân chia theo tỷ lệ trên cơ sở
tính theo giá trị trong GDP được xác định bằng công thức tổng quát sau:

Nguyễn Văn Phẩm

9

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48



Chuyên đề tốt nghiệp

Tỷ lệ cấu phần

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

=

Giá trị trong GDP của cấu phần A (B,C)
Tổng giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế

Cơ cấu kinh tế phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ
nhất định. Đối với Việt nam, cơ cấu kinh tế bao gồm:
- Cơ cấu kinh tế ngành theo phân loại ngành của Tổng cục Thống kê( ngành
cấp 1, 2, 3...), chẳng hạn ngành cấp 1 có: nông nghiệp( nghĩa rộng), công nghiệp và
xây dựng, dịch vụ;
- Cơ cấu kinh tế theo vùng: nông thôn và thành thị, 8 vùng lãnh thổ, 63 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, 3 vùng kinh tế trong điểm...
- Cơ cấu theo thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế ngoài nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài...
- Cơ cấu kinh tế theo cấp quản lý: Trung ương và địa phương...
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình biến đổi, chuyển hoá khách quan từ
cơ cấu kinh tế cũ sang cơ cấu kinh tế mới tiến bộ hơn, phù hợp quá trình và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được xác lập trong một
giai đoạn (hay thời kỳ) nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trên cơ sở
tuân thủ các quy luật kinh tế khách quan (quy luật giá trị, quy luật cung- câu, quy
luật cạnh tranh...) và các quy luật phát triển biện chứng (quy luật mâu thuẫn và đấu
tranh của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định...) để không ngừng tiến

bộ, đảm bảo cơ cấu kinh tế sau tiến bộ hơn cơ cấu kinh tế cũ. Ngày nay, đối với
nước ta, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra theo hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại
hoá và Hội nhập nhằm mục tiêu tăng trưởng, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong
GDP, phát triển kinh tế-xã hội bền vững, nâng cao năng suất lao động xã hội và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế, sự thịnh vượng chung của xã hội và từng bước
nâng cao chất lượng cuộc sống người
1.2.2. Cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động
Cơ cấu lao động là một phạm trù kinh tế - xã hội phức tạp. Theo lý thuyết hệ
thống và lý thuyết thông tin có thể hiểu cơ cấu lao động là quan hệ về mặt lượng giữa
các phần tử hoặc các bộ phận cấu thành tổng thể thống nhất lao động xã hội đang làm
việc trong nên kinh tế quốc dân trong một không gian hoặc thời gian nhất định.
Cơ cấu lao động là quan hệ tỷ lệ lao động được phân chia theo một tiêu thức
kinh tế nào đó. Các tiêu thức thường được dùng làm cơ sở để phân loại, xác định về
mặt lượng của cơ cấu lao động có thể là các đặc trưng nhân khẩu học (đặc trưng về

Nguyễn Văn Phẩm

10

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

giới, về độ tuổi, về tình trạng hôn nhân...); các đặc trưng về trình độ hoặc vấn,
chuyên môn kỹ thuật, tay nghề...; các đặc trưng về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
kinh tế; hoặc nhiều đặc trưng kinh tế - xã hội khác như: quan hệ lao động; thành
phần kinh tế; thu nhập; khu vực thành thị, nông thôn; vùng lãnh thổ…

Tuy nhiên, ở đây cơ cấu lao động được xem xét dưới hai góc độ khác nhau
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là liên quan đến chuyển dịch cơ cấu
lao động:
Thứ nhất, cơ cấu lao động xét về mặt nguồn, tức là mặt “cung lao động”. Cơ
cấu cung lao động được xác định bằng chỉ tiêu phản ánh cơ cấu (tỷ lệ) số lượng và
chất lượng nguồn lao động:
- Cơ cấu số lượng:
+ Dân số trong độ tuổi lao động;
+ Dân số từ 15 tuổi trở lên không hoạt động kinh tế tích cực;
+ Dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế tích cực (lực lượng lao động);
- Cơ cấu chất lượng:
+ Trình độ học vấn ;
+ Trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kỹ năng, tay nghề;
+ Thể lực;
+ Ý thức, tác phong lao động, văn hóa nghề.…
Thứ hai, cơ cấu lao động xét về mặt phân công lao động xã hội, tức là mặt
cầu lao động. Ở đây, cơ cấu cầu lao động phản ánh tình trạng việc làm hay sử dụng
lao động. Cơ cấu này có quan hệ chặt chẽ với cơ cấu kinh tế được biểu thị bằng tỷ lệ
lao động phân chia theo ngành, vùng, khu vực, thành phần kinh tế, theo trạng thái
việc làm…
Cơ cấu lao động xét về mặt cầu sẽ gắn liền và phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế.
Tất nhiên, giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động không có cùng tỷ lệ và cũng
không chuyển dịch với một tốc độ như nhau, thông thường tốc độ chuyển dịch cơ
cấu cầu lao động chậm hơn tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều đó có nghĩa là,
tuỳ thuộc vào phạm vi và mục đích nghiên cứu, có thể phân tích cơ cấu cầu lao
động tương ứng với các tiêu thức phân chia cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu lao động chia ra:
- Theo ngành kinh tế:
+ Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp;
+ Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng;

Nguyễn Văn Phẩm

11

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

+ Dịch vụ.
- Theo vùng kinh tế: 8 vùng; theo địa phương (63 tỉnh); nông thôn và thành
thị, đồng bằng, trung du, miền núi; 3 vùng kinh tế trọng điểm...
- Theo thành phần kinh tế:
+ khu vực nhà nước;
+ khu vực ngoài nhà nược;
+ Khu vực đầu tư nước ngoài.
- Theo trang thái việc làm:
+ Có việc làm;
+ Thất nghiệp;
+ Thiếu việc làm.
- Theo dạng việc làm:
+ Tự làm hoặc làm kinh tế hộ gia đình;
+ Thành viên hợp tác xã;
+ Lao động được trả công, trả lương (cho khu vực Nhà nước, cho khu vực
ngoài Nhà nước).
Trong từng cơ cấu có thể còn được chia nhỏ ra tuỳ thuộc vào mục đích
nghiên cứu. Ví dụ, nông nghiệp chia ra trồng trọt, chăn nuôi…; trong trồng trọt chia
ra trồng lương thực, trồng cây công nghiệp…

Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình biến đổi, chuyển hoá khách
quan từ cơ cấu lao động cũ sang cơ cấu lao động mới tiến bộ hơn, phù hợp cơ
cấu kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Chuyển dịch cơ cấu lao động bao gồm:
- Chuyển dịch cơ cấu cung lao động theo hưởng thay đổi cơ cấu số lượng và
chất lượng lao động đáp ứng yêu cầu sản xuất và thị trường lao động (thể hiện ở
trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề; nhân cách trong lao động;
tính năng động xã hội của lao động như: khả năng sẵn sàng, sự linh hoạt, tính thích
ứng, tác phong và văn hoá trong lao động…).
- Chuyển dịch cơ cấu cầu lao động (sử dụng lao động) theo ngành, theo
vùng, theo thành phần kinh tế; theo tình trạng việc làm…
Giữa chuyển dịch cơ cấu cung và cơ cấu cầu lao động có mối quan hệ qua lại
tác động lẫn nhau. Về nguyên tắc, muốn chuyển dịch cơ cấu cầu (sử dụng) lao động
đòi hỏi cơ cấu số lượng và chất lượng lao động (cơ cấu cung lao động) phát triển
đạt đến một trình độ cần thiết phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế(cơ
Nguyễn Văn Phẩm

12

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

cấu kinh tế). Ngược lại, sự chuyển dịch khách quan có tính quy luật của cơ cấu cầu
(sử dụng) lao động, phản ánh quá trình xã hội hoá và sự phân công lao động ngày
càng hợp lý, tiến bộ, là một trong những yếu tố quyết định tăng trưởng và phát triển
kinh tế, đến lượt nó lại đặt ra những yêu cầu mới cao hơn về chuyển dịch cơ cấu

chất lượng lao động (cơ cấu cung lao động).
1.2.3. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế với cơ cấu lao động
và xu hướng tất yếu của chuyển dịch cơ cấu lao động
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế
a. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có mối quan hệ thống nhất trong hệ
thống phân công lao động xã hội: Lao động là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất của lực lượng sản xuất. Quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội bao giời cũng
tồn tại và đồng hành một cơ cấu kinh tế và một cơ cấu lao động tương ứng trong hệ
thống phân công lao đông xã hội nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi và
kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động, ngược lại chuyển dịch cơ cấu lao động sẽ
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình đó cũng chính là quá trình xã hội
hóa, phân công lại và chuyên môn hóa lao động ngày càng sâu. Bới vậy giữa cơ cấu
kinh tế và cơ cấu lao động có một mối quan hệ giàng buộc hữu cơ với nhau không
thể tách rời trong hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng tiến bộ.
b. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế quyết định chuyển dịch cơ cấu lao động: Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch nhanh hay chậm quyết định sự chuyển dịch cơ cấu lao động
với tốc độ nhất định. Tốc độ chuyển dịch của cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào hàng loạt
yếu tố như như vốn; trình độ phát triển nguồn nhân lực; tiến bộ khoa học kỹ thuật
được áp dụng; thể chế, nhất là cơ chế, chính sách có liên quan phục vụ cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. ..Chính các yếu tố này cũng quyết định sự phân công lại lao
động xã hội, đặc biệt là phân công lại lao động tròng nông nghiệp, nông thôn và
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động để dần phù hợp với cơ cấu kinh tế được xác
lập trong một thời gian nhất định. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra liên
tục keo theo quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động cũng liên tục cho đến khi xác
lập được một cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý. Tuy nhiên, trạng thái này
cũng chỉ được xác lập ổn định tương đối và tạm thời. Mỗi khi có những biến động
của nền kinh tế, nhất là khủng hoảng và suy thoái kinh tế, thì quan hệ này bị phá vỡ,
sau khủng hoảng và suy thoái kinh tế, thường phải cấu trúc lại nên kinh tế thì lại
phải phân công lại lao động và xác lập cơ cấu lao động tương ứng.

Nguyễn Văn Phẩm

13

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

c. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đều hướng vào mục tiêu
chung là tăng trưởng kinh tế cao và bền vững: Đối với các nước đang trong qua
trình CNH, nhiệm vụ có tính chiến lược và đột phá là phát huy lợi thế, tăng sức
cạnh tranh, tính hiệu quả của từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm và trong toàn
bộ nền kinh tế; khai thác tối đa các nguồn lực của đất nước để phát triển nhanh và
bền vững, tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống của các tầng
lớp dân cư, chủ động trong lộ trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Như vây,
mục tiêu chung là phải hướng vào tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mục tiêu
này cũng là mục tiêu của đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động,
nhất là trong nông nghiệp, nông thôn. Bởi vì, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động theo hướng CNH, HĐH và hội nhập cũng chính là sử dụng có hiệu quả các
yếu tổ của tăng trưởng như vốn, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, công nghệ...
d. Chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động hiên nay hướng vào thu hẹp
khoảng cách quá xa giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hiện nay nhằm tháo
gỡ nút thắt trong sử dụng lao động và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
thôn theo hướng phát triển nông nghiệp hiện đại và CNH kinh tế nông thôn:
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn không chỉ xuất phát từ sự đòi hỏi phát triển
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mà còn là sự đòi hỏi phát triển của nội tại khu vực
nông thôn. Đối với Việt Nam, nông thôn luôn luôn là địa bàn chiến lược của cả

nước. Kinh tế nông thôn tăng trưởng cao, chính trị nông thôn ổn định, xã hội nông
thôn phát triển theo hướng tiến bộ và công bằng là yếu tố quyết định sự phát triển
kinh tế, ổn định chính trị và phát triển xã hội của cả nước. Tuy nhiên, nông thôn
nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển, lợi thế và tiềm năng nông thôn, nhất là tiềm
năng lao động, đất đai, các sản phẩm nông nghiệp có ưu thế cạnh tranh… chưa
được phát huy; sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nông thôn và thành thị, về
thu nhập giữa lao động nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ ngày càng giãn cách.
CNH, HĐH nông thôn làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn thay đổi nhanh chóng, thể
hiện ở tỷ trọng giá trị nông nghiệp trong GDP giảm nhanh.
Tuy nhiên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động không hoàn
toàn như nhau, thường tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn cơ cấu lao
động, bởi tốc độ tăng của kinh tế thường nhanh hơn tốc độ tăng của năng suất lao
động, nhất là trong nông nghiệp, khiến số người giảm đi trong nông nghiệp không
tương đương với số người tăng lên trong công nghiệp. Đối với các nước đang phát
triển ở trình độ thấp như nước ta thì hiện tượng kinh tế này càn rõ; trong một thời
Nguyễn Văn Phẩm

14

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

gian dài khoảng cách giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động còn rất lớn (năm 2008
cơ cấu giá trị nông nghiệp trong GDP giảm còn 21,99%, trong khi cơ cấu lao động
trong nông nghiệp vẫn chiếm trên 52%). Điều đó chứng tỏ lao động bị dồn ép trong
nông nghiệp với việc làm có năng xuất và thu nhập thấp do năng suất lao động

trong nông nghiệp quá thấp và do đó dẫn đến dư thừa rất lớn lao động trong nông
nghiệp, tạo ra những nút thắt về kinh tế–xã hội. Để tháo gỡ nút thắt này thường bắt
đầu từ khâu đột phá là phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp, nhất là đào tạo nghề, để sử dụng hiệu quả, giữ lại ngày một ít hơn lao trong
nông nghiệp và chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông nghiệp sang ngành nghề
phi nông nghiệp để rút nhanh lao động ra khỏi nông nghiệp. Quá trình đó sẽ thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
1.2.3.2. Xu hướng tất yếu chuyển dịch cơ cấu lao động
Lịch sử phát triển của các nước phát triển cũng như đang phát triển cho thấy
quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra gắn liền với các cuộc cách mạng
trong công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Xu
hướng tất yếu có tính quy luật của chuyển dịch cơ cấu lao động là giảm cả tương
đối và tuyệt đối lao động nông nghiệp, nông thôn, xoá dần đi đến xoá bỏ ranh giới
cách biệt về trình độ phát triển giữa nông thôn và thành thị. Đó cũng là quá trình
chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. Kinh nghiệm của các nước Châu á như Trung Quốc, Thái Lan,
Đài Loan, Malaixia… cho thấy, xu hướng có tính quy luật là phải chuyển dịch cơ
cấu lao động theo hướng tiến bộ với mục tiêu chiến lược là chuyển từ lao động
nông nghiệp sang phi nông nghiệp (công nghiệp và xây dựng, dịch vụ) để nâng cao
năng suất lao động xã hội, tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người dân, nhất
là khu vực nông thôn, giảm dần khoảng cách chênh lệch về sự phát triển và mức
sống giữa nông thôn và thành thị. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động là
thước đo kết quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đối với nước ta, từ nền sản xuất nông nghiệp, tự cung tự cấp và nhiều năm
vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, xu hướng tất yếu khách quan của chuyển dịch cơ cấu
lao động khi chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển dịch cơ cấu lao động phù
hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao
cấp trước đây quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra xuất phát từ ý chí chủ
quan của người quản lý, lãnh đạo. Song trong nền kinh tế thị trường quá trình

Nguyễn Văn Phẩm

15

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

chuyển dịch đó xuất phát từ nhu cầu thực tiễn khách quan trong quá trình phát triển
của nền kinh tế với cơ cấu kinh tế không ngừng đổi mới theo hướng CNH, HĐH và
hội nhập. Từ đó, xét về mặt lao động, thì chuyển dịch cơ cấu lao động là một cuộc
cách mạng trong phân công lại lao động trên phạm vi cả nước nói chung và trong
nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Quá trình đó vừa phải tuân thủ những quy luật
chung của nền kinh tế thị trường, vừa phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam; đặc biệt là phải gắn rất chặt với xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cụ thể là:
- Duy trì sản xuất nông nghiệp ở mức hợp lý nhằm đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia trong ngăn hạn và dài hạn, cả ở cấp hộ gia đình và công
đồng;
- Chuyển mạnh cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp nhằm
tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm các ngành phi nông nghiệp (công nghiệp và
xây dựng, dịch vụ) trong GDP; giảm dần tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp
trong GDP;
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá lớn,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm, của nền
kinh tế trên thị trường trong nước, khu vực và quốc tế; tham gia mạnh vào mạng sản
xuất và chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu;

- Khai thác tiềm năng và phát huy lợi thế của từng vùng sinh thái (đất, tài
nguyên rừng, biển, lao động, vị trí địa lý…), bảo vệ môi trường nhằm tăng trưởng
và phát triển bền vững;
- Phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế
tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hoá,
kinh tế trang trại, các loại hình sản xuất kinh doanh, nhất là doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Từ các định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên đây, xu hướng có tính
chất quy luật của chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế thị trường ở nước
ta là:
- Duy trì một lực lượng lao động hợp lý cho mục tiêu đảm bảo vững chắc an
ninh lương thực quốc gia trong ngăn hạn và dài hạn, cả ở cấp hộ gia đình và công
đồng;

Nguyễn Văn Phẩm

16

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

- Giảm số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng
tuyệt đối và tỷ trọng lao động phi nông nghiệp (công nghiệp và xây dựng, dịch vụ)
trên phạm vi cả nược;
- Giải phóng lao động ở ngành có năng suất và giá trị gia tăng thấp sang
ngành có năng suất và giá trị gia tăng cao hơn. Đặc biệt, chuyển dịch từ lao động

thủ công, công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm kém, khả năng cạnh tranh thấp sang lao động có hàm lượng chất xám cao với
công nghệ, kỹ thuật hiện đại, tổ chức lao động khoa học
- Giảm số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động sản xuất sản phẩm cho tiêu
dùng trong gia đình (lao động tất yếu), tăng số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động
sản xuất sản phẩm hàng hoá cho trao đổi trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
- Trong nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, tăng số lượng tuyệt đối và tỷ
trọng lao động lâm nghiệp, thuỷ sản; giảm số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động
nông nghiệp, tạo cơ cấu lao động nông, lâm, ngư nghiệp đa ngành, xoá bỏ tính
thuần nông của lao động trong nông nghiệp.
- Trong nội bộ nông nghiệp thuần, trên cơ sở đảm bảo vững chắc an ninh
lương thực quốc gia, sẽ tăng tỷ trọng lao động chăn nuôi và giảm tỷ trọng lao động
trồng trọt; trong trồng trọt giảm tỷ trọng lao động độc canh cây lương thực, tăng tỷ
trọng lao động phát triển cây trồng có giá trị làm nguyên liệu cho việc chế biến và
xuất khẩu.
- Có sự biến động và chuyển dịch ngày càng tăng dòng lao động từ nông
thôn ra đô thị, khu công nghiệp tập trung tìm việc làm, nhất là thời kỳ nông nhàn và
lao động di chuyển đến các vùng còn tiềm năng về đất, rừng, biển, hải đảo…
- Lao động trong kinh tế hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn, song có xu
hướng giảm dần; tỷ trọng lao động làm kinh tế trang trại, kinh tế tập thể có xu
hướng tăng và tỷ trọng lao động làm thuê (làm công) ngày càng tăng theo nhịp độ
phát triển thị trường lao động.
Xu hướng chuyển dịch lao động trên đây là xu hướng mang tính tiến bộ, dựa
trên cơ sở giải phóng sức sản xuất, giải phóng sức lao động, phù hợp với quy luật
khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy
nhiên, quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan, nhất là chính sách, thể chế vĩ mô của nhà nước; cơ cấu đầu
tư của toàn xã hội; sự lựa chọn và áp dụng công nghệ mới, chuyển giao công nghệ,
nhất là công nghệ sinh học vào nông thôn; sự năng động, sáng tạo của các chủ thể
Nguyễn Văn Phẩm


17

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

kinh tế (hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ
và vừa…). Vấn đề đặt ra cho chúng ta là phải tạo ra các điều kiện cần và đủ tác
động vào các yếu tố khách quan và chủ quan đó để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động. Đó cũng chính là cụ thể hoá con đường, bước đi và giải pháp thực
hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Đảng ta.
1.2.4. Những yếu tố và xu hướng tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao
động nông nghiệp, nông thôn
1.2.4.1. Nhóm nhân tố tự nhiên, môi trường, địa lý:
Đây là loại nhân tố khách quan liên quan đến điều kiện tự nhiên, tài nguyên
như đất đai, rừng, biển; môi trường sinh thái, thời tiết, khí hậu…, tác động đến
chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn như là một điều kiện cơ bản
thuận lợi hay không thuân lợi trong việc đầu tư phát triển các ngành, nghề phi nông
nghiệp ở nông thôn, nhất là phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông, bến cảng...), xây
dựng các khu công nghiệp, các trung tâm thương mại, dịch vụ, du lịch, phát triển
các làng nghề và xây dựng các khu đô thị mới, mở rộng không gian kinh tế và tạo
nhiều việc làm, thu hút lao động nông nghiệp, nông thôn vào làm việc. Nhân tố này
còn tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn thông qua
việc khai thác và phát triển lợi thế so sách về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh
thái, địa lý của các vùng trong kinh tế thị trường. Đây là một trong những hướng tác
động quan trọng có tính chất đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

Bởi vì, mỗi vùng đều có những tiềm năng thế mạnh riêng (lợi thế so sánh), nếu biết
khai thác và phát huy sẽ tạo ra một cơ cấu kinh tế mới phù hợp và thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu lao động tại chỗ trong nông nghiệp, nông thôn, hạn chế được dòng di
chuyển lao động, dân cư nông thôn – thàng thị.
1.2.4.2.. Nhóm nhân tố kinh tế, thể chế, hành chính, thị trường: Đây là
nhóm nhân tố quan trọng nhất tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp, nông thôn.
Yếu tố kinh tế liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn chủ yếu là tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vấn đề năng suất
lao động, đầu tư và hiệu quả đầu tư, độ mở của nền kinh tế trong hội nhập... Các
yếu tố này nếu được phát huy trên cơ sở CNH, HĐH, nhất là trong nông nghiệp,
nông thôn và hội nhập sâu rộng và nền kinh tế thế giới, thu hút được nhiều vốn FDI,
ODA, tăng xuất khẩu... sẽ mở ra không gian kinh tế rộng lớn và tiền đề cho phát

Nguyễn Văn Phẩm

18

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

triển các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế..., phân công lại lao động xã hội,
nhất là rút được lao động từ nông nghiệp, nông thôn chuyển sang phi nông nghiệp.
Yếu tố thể chế là yếu tố rất quan trọng, thậm chí trong điều kiện nhất định,
có vai trò quyết định đến chuyển dịch hoặc hạn chế việc chuyển dịch cơ cấu lao
động nông nghiệp, nông thôn. Đây là sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế,

vào thị trường, nhất là thị trường lao động (cả phía cung và phía cầu lao đông, kết
nối cung – cầu lao động...) thông qua cơ chế, chính sách, pháp luật theo xu hướng
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở hướng vào
giải phóng sức sản xuất, phát triển các ngành, các vùng (luật doanh nghiệp, luật đầu
tư, luật cạnh tranh, luật thương mại...) và giải phóng sức lao động (Bộ luật lao động,
luật day nghề, luật lao động Việt nam làm việc ở nước ngoài theo hợp động...); xây
dựng và thực hiện các chuơng trình mục tiêu (về việc làm, giáo dục và đào tạo, dạy
nghề, giảm nghèo, 135...) sẽ tạo ra động lực mới và tháo gỡ những khó khăn, những
nút thắt, những rào cản đối với chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông
thôn. Đặc biệt, các chính sách kinh tế vĩ mô tác động mạnh nhất và trực tiếp đến
chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn là chính sách đất đai, chính
sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách khuyến khích đầu tư trong nước đến các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng khó khăn, chính sách khuyến khích và hỗ trợ phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề
nông thôn, chính sách dạy nghề cho lao động nông thôn, chính sách khuyến khích
chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào nông thôn; chính sách tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp… Đó là các chính sách vĩ mô tác động vào nâng cao
năng suất lao động nông nghiệp, phát triển ngành nghề và tăng trưởng việc làm phi
nông nghiệp, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động tại chỗ ở nông thôn.
Yếu tố hành chính tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn chủ yếu là theo hướng xóa bỏ các rào cản về thủ tục hành chính,
gây phiền hà, tiêu cực trong cấp phép thành lập doanh nghiệp, đăng ký sản xuất
kinh doanh ngành nghề phi nông nghiệp, cản trở người lao động ở nông thôn di
chuyển tìm việc làm ở khu vực thành thị (hộ khẩu, hộ tịch, thủ tục tiếp cận các dịch
vụ giáo dục, y tế...).
1.2.4.3. Nhóm yếu tố con người, nguồn nhân lực.
Quá trình CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động nông
nghiệp, nông thôn phụ thuộc rất lớn vào yếu tố con người, nguồn nhân lực. Do đó,
phát triển con người, nhất là nguồn nhân lực chất lượng và trình độ cao tác động
Nguyễn Văn Phẩm


19

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

mạnh, thâm chí là khâu đốt phá chiến lược đối với tăng trưởng và trong phát triển
bền vững, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động theo hướng tiến
bộ. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và
cơ cấu của nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế- xã
hội nói chung, của cơ cấu lao động nói riêng. Xét về mặt nguồn nhân lực, sư thay
đổi cơ cấu số lượng và chất lượng cung nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn (về
thể lực, trí tuệ, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, kỹ năng, tay nghề; tính
năng động và sức sáng tạo của nguồn nhân lực gắn với truyền thống, văn hoá của
mỗi dân tộc, nhất là năng lực di chuyển của lao động) cũng chính là một mặt quan
trọng của chuyển dịch cơ cấu lao động, còn chuyển dịch cơ cấu cầu nguồn nhân lực
theo ngành, vùng và theo thành phần kinh tế chính là nói lên bản chất kinh tế của
chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Đối với nước ta phát triển
nguồn nhân lực, nhất là đột phá vào dạy nghề cho nông thôn, nông dân chính là
tháo gỡ nút thắt then chốt nhất để nâng cao năng suât lao động nông nghiệp tạo điều
kiện rút bớt lao động nông nghiệp sang ngành nghề phi nông nghiệp.
1.2.4.4. Nhóm yếu tố xã hội, văn hóa, lịch sử.
Nhóm yếu tố này tác động đến chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp,
nông thôn chủ yếu liên quan đến phong tục tập quán, nhất là tập quán canh tác trong
nông nghiệp, tâm lý xã hội, các giá trị văn hóa, lịch sử (lễ hội, di tích,…)...phù hợp
hay không phù hợp với nền kinh tế thị trường và một cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao

động mới. Vấn đề quan trong nhất ở đây để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động
tư nền kinh tế phi thị trường (kế hoạch hóa tập trung, sản xuất tự cung, tự cấp trong
nông nghiệp, không có quan hệ lao động làm công ăn lương...) sang nền kinh tế thị
trường là làm thay đổi thang giá trị xã hội và các chuẩn mực xã hội (lối sống, phong
tục, tập quán canh tác, các giá trị văn hóa...) phù hợp với kinh tế thị trường (sản
xuất lớn hàng hóa và dịch vụ, năng suất và hiệu quả, theo đuổi mục tiêu lợi nhuận,
hoài hòa lợi ích trong quan hệ lao động...). Giải quyết tốt vấn đề này sẽ khắc phục
được sức ỳ, bảo thủ của xã hội cũ, yếu tố lạc hậu của văn hóa cũ, tâm lý xã hội của
kinh tế nông nghiệp, tiểu nông... và tiếp cận dễ dàng, thuận lợi những giá trị mới
của kinh tế thị trường.
1.2.4.5. Yêu tố cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị:
Đây là nhóm yếu tố cơ sở vật chất nền tảng để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động nông nghiệp, nông thôn như giao thông (thủy, hàng không, bộ),
điện, thủy lợi, các trung tâm thương mại/chợ, các thành phố, thị trấn, thị tứ...Tốc độ
Nguyễn Văn Phẩm

20

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

phát triển cơ sở hạ tầng, đô thị hóa nói chung, khu vực nông thôn càng nhanh thì
các ngành phi nông nghiệp càng phát triển và theo quy luật của di dân lao động
nông nghiệp, nông thôn di chuyển sang ngành nghề phi nông nghiệp càng nhanh
1.2.4.6. Quy mô và chất lượng nguồn nhân lực
Không thể có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành khi mà quy mô

nguồn nhân lực không đáp ứng được những đòi hỏi của cơ cấu ngành kinh tế, nhân
tố gần như là dễ đáp ứng nhất của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Mặc dù có
những tác động tiêu cực nhưng sự dồi dào về lao động cũng là yếu tố rất quan trọng
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. Quy mô của lực lượng
lao động lớn sẽ đáp ứng được yêu cầu về số lượng lao động để mở rộng quy mô các
ngành kinh tế. Có hai vấn đề đặt ra: nếu việc chuyển dịch chỉ đơn thuần là việc di
chuyển lao động giữa các ngành, tác dụng quy mô nguồn nhân lực chỉ dừng lại ở
mức độ bổ sung lao động cho các ngành; nếu việc chuyển dịch không đơn thuần là
sự di chuyển lao động giữa các ngành mà còn là sự tăng lên về quy mô lao động của
nền kinh tế thì quy mô lao động có ý nghĩa rất lớn, vì nếu quy mô lao động không
đáp ứng được dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn lực từ đó sẽ làm giảm tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Như vậy, trong những điều kiện khác nhau, vai trò của quy
mô nguồn nhân lực là khác nhau, chúng ta không thể phủ nhận tác động của nó đến
quá trình phát triển nói chung và đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành nói
riêng.
Sẽ thiển cận nếu chỉ phân tích tác dụng của quy mô nguồn nhân lực, chất
lượng nguồn nhân lực cũng là yếu tố có ý nghĩa quan trọng với quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động. Chất lượng nguồn nhân lực tác động đến quá trình chuyển
dịch cơ cấu lao động được xét trên hai phương diện.
Thứ nhất, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động không chỉ đơn thuần là sự
thay đổi về số lượng lao động, gắn liền với nó là sự thay đổi về chất lượng lao động.
Xu hướng của quá trình chuyển dịch là giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông
nghiệp và tăng tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Không giống
với ngành nông nghiệp, ngành công nghiệp và dịch vụ là những ngành đòi hỏi cao
về chất lượng lao động việc tăng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và
dịch vụ đồng nghĩa với việc tăng tỷ trọng lao động có chất lượng. Hơn nữa, sự tác
động của khoa học công nghệ dẫn đến quá trình hiện đại hoá nông nghiệp, kéo theo
đó là yêu cầu nâng cao chất lượng lao động trong nông nghiệp. Như một xu thế tất
yếu, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đặt ra một vấn đề là không ngừng nâng
Nguyễn Văn Phẩm


21

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

cao chất lượng lao động trong cả ba ngành kinh tế với mức độ khác nhau. Nguồn
nhân lực chất lượng cao chính là nhân tố quan trọng nhất để giải quyết vấn đề này.
Hơn nữa, nó còn là một trong những nhân tố quan trọng quyết định tốc độ quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực cũng là nhân tố quyết định đến phát triển
khoa học công nghệ. Chúng ta đã biết vai trò của khoa học công nghệ với quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành cho nên xét trên phương diện này nguồn
nhân lực đã tác động gián tiếp đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua
việc thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ.
- Chênh lệch thu nhập
Thu nhập là có vai trò sống còn đối với người lao động. Nó là mục tiêu là động
lực thúc đẩy người lao động trong quá trình sản xuất. Xu hướng chung của người lao
động là tìm những công việc phù hợp và có thu nhập cao, do đó việc chênh lệch thu
nhập giữa ngành này và ngành khác là một trong những căn cứ quan trọng nhất để
người lao động quyết định chọn một ngành để làm việc.
Sự chênh lệch thu nhập giữa các ngành nông nghiệp và công nghiệp, dịch vụ
là yếu tố thúc đẩy di chuyển một bộ phận lao động từ ngành nông nghiệp sang hoạt
động trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Hệ số co giãn của cung lao động theo thu
nhập thường được dùng để đo lường biến động trên.
EL


= %∆L
%∆I

Trong đó:
- EL : Hệ số co giãn của cung lao động theo thu nhập
- % ∆ L : Sự thay đổi của cung lao động
- % ∆ I : Sự thay đổi của thu nhập
Hệ số co giãn càng lớn thì cung lao động theo thu nhập càng co giãn, nghĩa
là khi mức độ chênh lệch thu nhập giữa các ngành càng lớn thì quy mô lao động
dịch chuyển ngày càng tăng. Nếu chênh lệch thu nhập giữa ngành nông nghiệp với
ngành công nghiệp dịch vụ càng lớn thì quy mô lao động di chuyển từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Điều này dẫn đến tỷ trọng lao động
trong ngành nông nghiệp giảm, còn tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và
dịch vụ tăng lên.

Nguyễn Văn Phẩm

22

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

1.2.4.7. Trình độ phát triển của thị trường lao động
Thị trường lao động được hình thành khi sức lao động là hàng hóa và được
trao đổi trên thị trường. Thị trường lao động thường được phân loại theo không gian

và theo chất lượng hàng hóa sức lao động. Dựa trên tiêu chí chất lượng hàng hóa
sức lao động, thị trường gồm hai loại: thị trường lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao và thị trường lao động phổ thông. Nếu theo tiêu chí không gian thì có
các loại thị trường như thị trường lao động các địa phương, thị trường lao động
trong nước, thị trường lao động quốc tế, thị trường lao động nông thôn, thị trường
lao động thành thị.
Một trong những đặc trưng của thị trường lao động đó là nơi mua bán hàng
hóa sức lao động và cung, cầu lao động là những yếu tố quan trọng nhất trên thị
trường lao động. Thị trường lao động có vai trò quan trọng thúc đẩy sự di chuyển
lao động trong xã hội. Chúng ta hãy xét vấn đề này trên hai khía cạnh: Thứ nhất,
trên thị trường một khối lượng lớn hàng hóa được mua, bán nghĩa là có nhiều người
bán được và mua được sức lao động, do đó số lượng người được tuyển dụng tăng
lên dẫn đến số lượng lao động của một ngành nào đó đã có sự thay đổi. Thứ hai,
nếu quá trình mua, bán sức lao động diễn ra với tốc độ nhanh, với lập luận tương tự
có thể thấy rằng nó sẽ đẩy nhanh tốc độ di chuyển lao động trong xã hội
Như vậy, thị trường lao động không những tác động đến số lượng lao động
di chuyển mà còn ảnh hưởng đến cả tốc độ di chuyển lao động. Chuyển dịch cơ cấu
lao động, theo cách hiểu đơn giản nhất đó là sự di chuyển lao động vào và ra khỏi
các ngành. Do vậy, thị trường lao động sẽ tác động đến quá trình này. Tính chất và
mức độ tác động của thị trường lao động đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường lao động.
1.3. Một số quan điểm lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động
1.3.1. Lý thuyết nhị nguyên (dualism): Lý thuyết này cho rằng ở các nền
kinh tế có hai khu vực kinh tế song song tồn tại: khu vực truyền thống, chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp và có đặc trưng là rất trì trệ, năng suất lao động rất thấp (năng
suất lao động biên tế xem như bằng không) và lao động dư thừa; khu vực công
nghiệp hiện đại có đặc trưng năng suất lao động cao và có khả năng tự tích lũy. Do
lao động dư thừa nên việc chuyển một phần lao động thặng dư từ khu vực nông
nghiệp sang khu vực công nghiệp không gây ảnh hưởng gì đến sản lượng nông

Nguyễn Văn Phẩm

23

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

nghiệp. Do có năng suất lao động cao và tiền công cao hơn nên khu vực công
nghiệp thu hút lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp chuyển sang, và do lao
động trong khu vực nông nghiệp quá dư thừa và tiền công thấp hơn nên các ông chủ
công nghiệp có thể thuê mướn nhiều nhân công mà không phải tăng thêm tiền công,
lợi nhuận của các ông chủ ngành càng tăng; giả định rằng toàn bộ lợi nhuận sẽ được
đem tái đầu tư thì nguồn tích lũy để mở rộng sản xuất trong khu vực công nghiệp
ngày càng tăng lên.
Như vậy, có thể rút ra từ lý thuyết này một nhận định là để thúc đẩy sự phát
triển, các quốc gia đang phát triển cần phải mở rộng khu vực công nghiệp hiện đại
bằng mọi giá mà không quan tâm đến khu vực truyền thống. Sự tăng trưởng của
khu vực công nghiệp tự nó sẽ thu hút hút hết lượng lao động dư thừa trong nông
nghiệp chuyển sang và từ trạng thái nhị nguyên, nền kinh tế sẽ chuyển sang một nền
kinh tế công nghiệp phát triển.
1.3.2.. Lý thuyết phát triển cân đối (balanced growth): Những người ủng hộ
quan điểm phát triển cân đối (như R Nurkse, Rosenstein - Rodan.) cho rằng phải
phát triển đồng đều ở tất cả mọi ngành kinh tế quốc dân để nhanh chóng công
nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu. Luận cứ của họ như sau:
- Trong quá trình phát triển, tất cả các ngành có liên quan mật thiết với nhau,
"đầu ra" của ngành này là "đầu vào" của ngành kia và như vậy, sự phát triển đồng

đều và cân đối chính là đòi hỏi sự cân bằng cung cầu trong sản xuất.
- Sự phát triển cân đối giữa các ngành như thế giúp tránh được các ảnh
hưởng tiêu cực của thị trường thế giới và hạn chế được mức độ phụ thuộc vào các
nền kinh tế khác, qua đó tiết kiệm được nguồn ngoại tệ.
- Một nền kinh tế dự trên cơ cấu cân đối giữa tất cả các ngành là nền tảng
vững chắc đảm bảo sự độc lập chính trị của các nước đang phát triển.
Lý thuyết này khi đưa ra được các quốc gia đang phát triển đi theo con
đường công nghiệp hóa hướng nội (công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu) rất ưa
chuộng. Tuy nhiên, khi được áp dụng thực tế đã bộc lộ những yếu điểm như sau:
- Việc phát triển một cơ cấu kinh tế cân đối và hoàn chỉnh đã đẩy các nền
kinh tế đến chỗ khép kín và tách biệt với thế giới bên ngoài: điều này đi ngược lại
với xu thế quốc tế hóa và toàn cần hóa kinh tế đang diễn ra trên thế giới và không
tận dụng được những lợi ích tích cực từ môi trường bên ngoài đem lại.
- Các nền kinh tế đang phát triển không đủ nguồn lực về nhân tài, vật lực. để
có thể thuc hiện được những mục tiêu cơ cấu đặt ra.
Nguyễn Văn Phẩm

24

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: Th.S Nguyễn Hà Hưng

1.3.3. Lý thuyết phát triển không cân đối (unbalanced growth) hay các "cực
tăng trưởng": Những đại diện tiêu biểu của lý thuyết này (A. Hirschman, F. Perrons.)
cho rằng không thể và không nhất thiết đảm bảo tăng trưởng bền vững bằng cách duy
trì cơ cấu cân đối liên ngành đối với mọi quốc gia. Họ lập luận như sau:

- Việc phát triển không cân đối sẽ tạo ra kích thích đầu tư. Nếu cung bằng
cầu trong tất cả các ngành thì sẽ triệt tiêu động lực đầu tư nâng cao năng lực sản
xuất. Ðể phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào một số ngành nhất định, tạo
ra một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư trong các ngành khác theo
kiểu lý thuyết số nhân, từ đó kéo theo sự phát triển của nền kinh tế.
- Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành
trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực (vốn
khan hiếm) cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định.
- Do trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, các nước đang phát
triển rất thiếu các nguồn lực sản xuất và không có khả năng phát triển cùng một lúc
đồng bộ tất cả các ngành hiện đại. Vì thế, phát triển không cân đối gần như là một
sự lựa chọn bắt buộc.
Cách đặt vấn đề phát triển một cơ cấu không cân đối và mở cửa ra bên ngoài
của lý thuyết này là chấp nhận sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, mà thường
thì các quốc gia chậm phát triển chịu nhiều thiệt thòi hơn cho nên lúc đầu lý thuyết
này không được các nước đang phát triển đang theo mô hình công nghiệp hóa hướng
nội và phát triển cân đối mặn mà cho lắm nhưng càng về sau thì lý thuyết này càng
được thừa nhận rộng rãi, nhất là từ sau sự thành công của các nước công nghiệp hóa
mới (NICs). Từ thập niên 1980 trở lại đây, lý thuyết này đã được nhiều nước đang
phát triển áp dụng với mô hình công nghiệp hóa mở cửa và hướng ngoại.
1.4. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu lao động ở một số địa phương
trong cả nước cũng như trên thế giới
1.4.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn ở Trung Quốc
Dân số khu vực nông thôn chiếm đến 80% tổng số dân, giải quyết vấn đề
chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực này là mấu chốt để đẩy nhanh quá trình
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành của toàn nền kinh tế. Hai yếu tố quan trọng
nhất thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động khu vực nông thôn là phát triển các hoạt
động phi nông nghiệp và sản nghiệp hoá nông nghiệp.
Phát triển các họat động phi nông nghiệp ở nông thôn: Cải cách trong nông
nghiệp của Trung Quốc đi kèm với phát triển các họat động phi nông nghiệp, nhất

Nguyễn Văn Phẩm

25

Lớp : Kinh tế nông nghiệp 48


×