Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH LIÊN KẾT ĐẦU TƯ HAHANAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.8 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY TNHH
LIÊN KẾT ĐẦU TƯ HAHANAM

HÀ NỘI – 2011


2
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, nền kinh tế quốc dân nói
chung, từng ngành, từng địa phương nói riêng và đặc biệt là các doanh nghiệp đã,
đang và sẽ tiếp tục phải đối mặt với thách thức từ sự cạnh tranh khốc liệt trên thị
trường. Do đó, việc không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là yếu tố sống còn quyết định
sự phát triển hay suy yếu không chỉ của riêng từng doanh nghiệp mà còn của cả
nền kinh tế quốc dân. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp
phải phát huy hết các ưu thế, tạo ra những điểm khác biệt so với đối thủ cạnh
tranh. Doanh nghiệp phải tự giới thiệu, quảng cáo làm cho người tiêu dùng biết
đến sản phẩm của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là qui luật tất yếu tồn tại ở mọi lĩnh vực của nền kinh tế,
trong đó có ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Những năm gần
đây chứng kiến sự gia tăng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng của các
doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Các doanh nghiệp này ra đời để đáp
ứng nhu cầu thức ăn ngày càng cao của ngành chăn nuôi. Mỗi năm, ngành
chăn nuôi cần khoảng 17-18 triệu tấn thức ăn, nhưng sản lượng thức ăn chăn
nuôi công nghiệp mới đạt 50%, còn lại người chăn nuôi phải sử dụng thức ăn


tự chế. Mỗi năm nước ta mới chỉ sản xuất được gần 6 triệu tấn thức ăn chăn
nuôi công nghiệp cho gia súc, gia cầm và 2,4 triệu tấn thức ăn chăn nuôi thủy
sản. Đó là vì một số hạn chế như: cơ chế quản lý ngành thức ăn chăn nuôi
còn nhiều bất cập; thiếu nguyên liệu; thiếu công nghệ sản xuất; thiếu nhân
lực; các doanh nghiệp nước ngoài đang nắm giữ 65-70% thị phần thức ăn
chăn nuôi [20]. Tất cả những điều này tạo ra môi trường cạnh tranh của các
doanh nghiệp sản xuất chế biến thức ăn trong nước càng khắc nghiệt hơn.
Công ty TNHH liên kết đầu tư Hahanam sản xuất và kinh doanh mặt
hàng chính là thức ăn chăn nuôi gia súc. Công ty mới hình thành và xâm nhập
vào thị trường thức ăn chăn nuôi khi mà các công ty, doanh nghiệp khác đã có
-2-

2


3

thị phần ổn định thì nhiệm vụ đặt ra cho Công ty hiện nay là làm thế nào để
nâng cao thị phần, năng lực cạnh tranh của Công ty.
Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty thì chúng ta phải hiểu
được năng lực cạnh tranh hiện nay của Công ty. Từ những vấn đề trên, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty
TNHH liên kết đầu tư Hahanam”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung

Khái quát về năng lực cạnh tranh, thực trạng sản xuất, kinh doanh và
tiêu thụ của Công ty; từ đó đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể


- Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh;
- Tìm hiểu thực trạng sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ của Công ty;
- Phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty;
- Đề xuất những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của Công ty;
1.3 Câu hỏi nghiên cứu

Cạnh tranh là gì?
Năng lực cạnh tranh là gì?
Tình hình sản xuất và chế biến thức ăn chăn nuôi trên thế giới và ở Việt
Nam?
Tình hình sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ của Công ty như thế nào?
Năng lực cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã sản phẩm của Công ty
hiện nay?
Năng lực cạnh tranh về giá cả sản phẩm của Công ty hiện nay?
Năng lực cạnh tranh về các chiến lược xúc tiến tiêu thụ của Công ty
hiện nay?
Công ty đã thực hiện những biện pháp, chiến lược nào để nâng cao
năng lực cạnh tranh?

-3-

3


4

Những giải pháp nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp?

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu năng lực cạnh tranh của Công ty,
công tác tổ chức, các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu thụ của Công ty.
Hệ thống các đại lý bán thức ăn chăn nuôi và người chăn nuôi.
Một số Công ty thức ăn chăn nuôi có mặt trên địa bàn.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu

1.4.2.1 Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung chủ yếu phân tích năng lực cạnh tranh hiện có của
Công ty, tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng, tìm hiểu thực trạng sản xuất, kinh
doanh và tiêu thụ của Công ty từ đó đề xuất một số giải pháp thích hợp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty.
1.4.2.2 Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại Công ty TNHH liên kết đầu tư Hahanam
1.4.2.3 Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu số liệu của Công ty qua các năm từ 2007 – 2009.
Thời gian thực hiện đề tài: từ 12/2009 đến 05/2010.

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Những khái niệm cơ bản

2.1.1.1 Khái niệm cạnh tranh


Khái niệm


Mỗi học giả thì lại có những quan niệm về cạnh tranh khác nhau. Sau
đây là một số quan niệm về cạnh tranh của các học giả:
Theo Các Mác (1978): “cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự
đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận

-4-

4


5

lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu ngạch” [9]. Theo
quan niệm này, thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh
được xem là sự lấn áp, chèn ép lẫn nhau để tồn tại.
Theo P.A.Samuelson và W.D.Nordhaus: “cạnh tranh là sự kình địch
giữa các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng”. Hai tác giả
này cho cạnh tranh đồng nghĩa với cạnh tranh hoàn hảo [9].
PGS. Lê Hồng Tiệm: “cạnh tranh là sự đấu tranh giữa các chủ thể sản
xuất kinh doanh nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất
ra sản phẩm, trong tiêu thụ hàng hóa, trong hoạt động dịch vụ để đảm bảo
thực hiện lợi ích tốt nhất của mình” [16].
Tóm lại: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế
ganh đua, đấu tranh gay gắt quyết liệt, thôn tính lẫn nhau, các chủ thể kinh tế
tìm mọi biện pháp, thủ thuật kể cả thủ đoạn để tranh giành khách hàng, chiếm
lĩnh thị trường thông qua đó để tiêu thụ được nhiều hàng hóa, thu được lợi
nhuận cao, giảm chi phí và nâng cao được vị thế của mình trên thị trường.






Phân loại cạnh tranh

Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế: cạnh tranh nội bộ ngành, cạnh
tranh giữa các ngành.



Căn cứ trạng thái cạnh tranh: cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không
hoàn hảo.



Căn cứ vào chủ thể kinh tế tham gia thị trường: cạnh tranh giữa
những người bán với nhau, cạnh tranh giữa người bán với người mua;
cạnh tranh giữa những người mua với nhau.



Căn cứ vào tính chất cạnh tranh trên thị trường: cạnh tranh lành mạnh,
cạnh tranh không lành mạnh.
-5-

5


6

• Vai trò của cạnh tranh

 Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu.
 Cạnh tranh cho phép sử dụng tài nguyên tối ưu.
 Cạnh tranh khuyến khích áp dụng khoa học – kỹ thuật.
 Cạnh tranh thỏa mãn ngày càng tốt hơn thỏa mãn nhu cầu của người
tiêu dùng.
 Cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao
động và hiệu quả kinh tế.
2.1.1.2 Năng lực cạnh tranh
• Khái niệm
Khái niệm về năng lực cạnh tranh được nêu ra lần đầu tiên ở Mỹ vào
đầu năm 1980 của Aldington Report “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh
là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội
và giá cả thấp hơn các đối thủ cạnh tranh trong nước và quốc tế. Năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của
doanh nghiệp và khả năng đảm bảo thu nhập cho người lao động và chủ
doanh nghiệp” [9].
Theo Từ điển Thuật Ngữ chính sách thương mại (1997), theo đó, năng
lực cạnh tranh là năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp
khác đánh bại về năng lực kinh tế”. Quan niệm về năng lực cạnh tranh như
vậy mang tính chất định tính, khó có thể định lượng.
Theo M. Porter (1990), năng suất lao động là thước đo duy nhất về năng
lực cạnh tranh. Tuy nhiên, quan niệm này chưa gắn với việc thực hiện các
mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp [7].
Các nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam thì cho rằng: năng lực cạnh
tranh đồng nghĩa với duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh. Chẳng hạn, TS.
Vũ Trọng Lâm (2006): “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả
năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của
doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và đạt được các mục
-6-


6


7

tiêu doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế” [8].
TS. Nguyễn Hữu Thắng (2006): “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là
khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm,
mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản
xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững” [14].
Tóm lại, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và
nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới
tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích
kinh tế cao và bền vững.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phân tích năng lực
cạnh tranh hiện có của doanh nghiệp thông qua các tiêu chí để có được những
nhận định, biện pháp, chiến lược nhằm đưa doanh nghiệp có sức cạnh tranh
trên thị trường [6].
• Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh cụ thể được phân biệt thành bốn cấp độ: Năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp,
của sản phẩm hàng hóa. Chúng có mối tương quan mật thiết với nhau, phụ
thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bị hạn chế khi năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm doanh nghiệp đó đều thấp. Vì vậy trước
khi đề cập đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thì cần tìm hiểu về năng lực
cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm. Còn năng lực cạnh tranh cấp ngành có
mối quan hệ và chịu ảnh hưởng của năng lực cạnh tranh quốc gia và của sản phẩm
tương tự như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong một báo cáo về tính cạnh tranh tổng thể của Diễn đàn kinh tế thế
giới (WEF) năm 1997 đó nêu ra: “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là

năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được và duy trì mức
tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế bền vững tương đối và các
đặc trưng kinh tế khác”.

-7-

7


8

Như vậy, năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể hiểu là việc xây dựng
một môi trường cạnh tranh kinh tế chung, đảm bảo phân bố có hiệu quả các
nguồn lực, để đạt và duy trì mức tăng trưởng cao, bền vững.
Năng lực cạnh tranh của một hàng hóa là khả năng duy trì và cải thiện
vị trí của một hàng hóa của doanh nghiệp này so với hàng hóa khác cùng loại
của một doanh nghiệp khác trên thị trường một cách lâu dài nhằm tạo sự hấp
dẫn và thu hút khách hàng.
Năng lực cạnh tranh hàng hóa được phản ánh qua các tiêu chí: giá cả,
chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng cũng như sự độc đáo, quen dùng, phù hợp với
thị yếu tiêu dùng của khách hàng.
Một sản phẩm được coi là có năng lực cạnh tranh khi nó đáp ứng
được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng,
tính độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì hơn hẳn các sản phẩm
cùng loại. Nhưng năng lực cạnh tranh của sản phẩm lại được định đoạt bởi
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh
của sản phẩm cao khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh
doanh sản phẩm đó thấp.
Ở đây cũng cần phân biệt năng lực cạnh tranh của sản phẩm và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là hai phạm trù khác nhau nhưng có

quan hệ hữu cơ với nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm có được do năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra nhưng năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp không chỉ do năng lực cạnh tranh của sản phẩm quyết định mà còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của sản
phẩm có ảnh hưởng rất lớn và thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1.1.3 Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh
•Lợi thế so sánh
Lợi thế so sánh có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà kinh tế. Hai nhà
kinh tế học người Anh là Adam Smit và David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi
thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
-8-

8


9

Theo nguyên tắc lợi thế so sánh của Ricardo thì một nước có thể sản
xuất nhiều loại sản phẩm tốt hơn so với các nước khác nhưng chỉ nên sản xuất
những gì mà nó sản xuất có hiệu quả nhất. Lợi thế so sánh là kết quả duy nhất
của những sự khác biệt quốc tế về năng suất lao động tương đối, mà theo nhà
kinh tế học Ricardo trong quá trình tham gia thương mại quốc tế, các quốc gia
sẽ lựa chọn sản xuất hàng hoá và dịch vụ có lợi thế nhất cho xuất khẩu và sẽ
nhập khẩu loại hàng hoá, dịch vụ nào mà sản xuất trong nước bất lợi. Chính
từ sự lựa chọn đó, các quốc gia sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các
loại hàng hoá, dịch vụ có lợi thế tương đối (lợi thế so sánh); nhập khẩu các
loại hàng hoá, dịch vụ mà việc sản xuất trong nước bất lợi (không có lợi thế
so sánh).
Song sự hạn chế ở mô hình của Ricardo là ông đã dựa trên hàng loạt
các giả thiết đơn giản hoá của lý thuyết về giá trị lao động để chứng minh cho

quy luật này. Trên thực tế, lao động không đồng nhất và còn nhiều yếu tố
khác như đất, vốn, khoa học công nghệ…quyết định hàng hoá, dịch vụ.
Quan điểm hiện đại về lợi thế so sánh: khi xem xét lợi thế so sánh các nhà
kinh tế học hiện đại đề cập tới lợi thế so sánh tĩnh và lợi thế so sánh động.
Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế đang có. Những lợi thế có được mà
không cần phải đầu tư lớn về vốn và tri thức. Nếu sử dụng thuật ngữ của
M.Porter thì đây là những lợi thế “trời cho”, hay lợi thế “cấp thấp”. Những lợi
thế này thường không vững chắc mà chỉ mang tính ngắn hạn và trung hạn;
nếu các điều kiện sản xuất hiện có không được cải tạo liên tục và phát triển ở
mức độ cao hơn thì có thể lợi thế cạnh tranh của hàng hóa giảm xuống [10].
Lợi thế so sánh động là lợi thế “cấp cao”, lợi thế phải có đầu tư lớn về
vốn và tri thức mới có (như đầu tư vào trình độ kỹ thuật và tri thức khoa học,
cơ sở hạ tầng hiện đại….). Muốn có lợi thế này, ngoài việc tận dụng triệt để
các nguồn lực tự nhiên và sử dụng chúng có hiệu quả, Quốc gia/doanh nghiệp
còn phải đầu tư không ngừng cho quá trình tiếp cận cái mới, cải thiện môi
trường kinh tế, môi trường đầu tư mới tạo ra lợi thế tiềm năng làm cơ sở cho
-9-

9


10

sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Có như thế dưới một số điều kiện
nhất định lợi thế so sánh động mới biến được thành lợi thế so sánh trong
tương lai [10].
•Lợi thế cạnh tranh
Lợi thế cạnh tranh là tập hợp những lợi thế so sánh tạo nên sức cạnh
tranh của chủ thể.
Lợi thế cạnh tranh trước hết là sự biểu hiện tính trội của mặt hàng nào

đó về chất lượng và cơ chế vận hành của nó trên thị trường, tạo nên sức hấp
dẫn và tiện dụng trong tiêu dùng của khách hàng. Chất lượng sản phẩm, giá cả
sản phẩm, khối lượng và thời gian giao hàng, tính chất và sự khác biệt của sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ của các nước khác trong việc thoả mãn nhu cầu của
khách hàng… tất cả đó là nét đặc trưng của lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh còn là sự thể hiện tính kinh tế của các yếu tố đầu vào
cũng như đầu ra của sản phẩm, nó bao gồm chi phí cơ hội và năng suất lao
động cao, chất lượng sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng, có nguồn cung cấp ổn định và môi trường thương
mại thông thoáng. Cái đích đến và cũng là bí quyết thành công của các doanh
nghiệp chính là “Chinh phục cả thế giới khách hàng bằng uy tín, giá cả và
chất lượng”
Như vậy không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có lợi thế so sánh
thì có lợi thế cạnh tranh và ngược lại. Do đó các doanh nghiệp cần phải tạo ra
lợi thế cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của mình.
2.1.2 Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh
Nền kinh tế ngày càng phát triển, mở ra cho doanh nghiệp nhiều cơ hội
nhưng cũng làm tăng thêm nhiều đối thủ cạnh tranh. Trước những cơ hội và
thách thức như vậy mỗi doanh nghiệp phải tìm cách vượt qua nếu không nguy
cơ phá sản là rất lớn. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một qui luật
khách quan. Các doanh nghiệp tham gia thị trường đều phải chấp nhận cạnh
tranh. Cạnh tranh, chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh bằng tất cả năng lực
- 10 -

10


11

của mình mới có thể giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Chính vì vậy

nâng cao năng lực cạnh tranh là một điều tất yếu của mỗi một doanh nghiệp
hoạt động trong cơ chế thị trường. Cơ sở của nâng cao năng lực cạnh tranh
bởi cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp:
- Tồn tại và đứng vững trên thị trường: cạnh tranh sẽ tạo ra môi trường
kinh doanh và những điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng, làm
cho khách hàng tin rằng sản phẩm của doanh nghiệp mình là tốt nhất, phù hợp
với thị yếu nhu cầu của người tiêu dùng. Doanh nghiệp càng đáp ứng nhu cầu
khách hàng thì doanh nghiệp đó mới có khả năng tồn tại.
- Cạnh tranh để phát triển: Cạnh tranh là để kích thích kinh doanh, động
lực cho sản xuất, hàng hóa ngày càng nhiều và số lượng nhà cung cấp ngày
càng đông thì cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Kết quả của cạnh tranh là loại
bỏ những Công ty làm ăn kém hiệu quả, năng suất chất lượng thấp thúc đẩy
những công ty làm ăn tốt, năng suất chất lượng cao. Do vậy muốn tồn tại và
phát triển thì doanh nghiệp phải cạnh tranh nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình để đáp ứng nhu cầu thị hiếu về hàng hóa có chất lượng cao giá cả phù
hợp.
- Cạnh tranh để thực hiện các mục tiêu: bất kỳ một doanh nghiệp nào
dù lớn hay nhỏ khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều có những mục tiêu
nhất định. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp đặt ra cho mình những mục tiêu khác nhau. Trong giai đoạn đầu
khi mới thực hiện hoạt động kinh doanh thì mục tiêu của doanh nghiệp là khai
thác thị trường nhằm tăng lượng khách hàng truyền thống và tiềm năng, giai
đoạn này doanh nghiệp thu hút càng nhiều khách hàng càng tốt. còn ở giai
đoạn trưởng thành và phát triển thì mục tiêu của doanh nghiệp là tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận và giảm chi phí, giảm bớt những chi phí được coi là không
cần thiết, để lợi nhuận thu được là tối đa, uy tín của doanh nghiệp và niềm tin
của khách hàng đối với doanh nghiệp là cao nhất. Đến giai đoạn bão hòa thì
mục tiêu là gây dựng lại hình ảnh đối với khách hàng bằng cách thực hiện
- 11 -


11


12

trách nhiệm đối với Nhà nước, đối với cộng đồng, củng cố lại thêm niềm tin
cho khách hàng. Để đạt được các mục tiêu thì doanh nghiệp phải cạnh tranh
thì doanh nghiệp mới tìm ra phương cánh biện pháp tối ưu để sáng tạo, táo ra
những sản phẩm chất lượng, cung ứng dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh, thỏa
mãn nhu cầu khách hàng.
Tóm lại, doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng vững, phát triển và đạt được
các mục tiêu thì phải cạnh tranh mà muốn cạnh tranh có hiệu quả thì phải
nâng cao năng lực cạnh tranh.

- 12 -

12


13
2.1.3 Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh
2.1.3.1 Các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
“Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là một chương trình hành động tổng quát
hướng đến việc thực hiện những mục tiêu của doanh nghiệp” [3]. Năng lực cạnh tranh

luôn bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chiến lược
đúng thì sức cạnh tranh sẽ được nâng cao. Trong hoạt động sản xuất kinh
doanh có nhiều chiến lược khác nhau. Dưới đây là một số chiến lược kinh
doanh quan trọng trong doanh nghiệp:
* Chiến lược giữ vững và phát triển thị trường hiện tại

“Thị trường hiện tại (hiện có) là tập hợp những khách hàng có quan
tâm, có thu nhập và có khả năng tiếp cận một sản phẩm nhất định của thị
trường” [3]. Ta có thể hiểu đó là tập hợp những khách hàng hiện có của doanh
nghiệp. Để giữ vững và phát triển thị trường hiện tại thì doanh nghiệp cần nghiên
cứu nhu cầu của khách hàng, cơ hội trên thị trường hiện tại của doanh nghiệp
thường xuất hiện khi có những nhu cầu của khách hàng còn chưa được đáp ứng
hoặc đáp ứng chưa tốt, hoặc doanh nghiệp có khả năng tăng thị phần nhờ lợi thế
chung nào đó hoặc sự suy yếu của đối thủ cạnh tranh.
* Chiến lược tiếp cận và xâm nhập thị trường mới
Việc nghiên cứu chiến lược tiếp cận và xâm nhập thị trường mới nhằm
mục tiêu tăng trưởng thường xuyên và củng cố vị thế của doanh nghiệp trên
thị trường. Doanh nghiệp cần nghiên cứu thị trường mới để xác định thị
trường trọng điểm từ đó có cách ứng xử phù hợp với thị trường.
* Chiến lược phát triển thị trường mục tiêu
Việc lựa chọn thị trường mục tiêu và chiến lược phát triển thị trường
mục tiêu là rất quan trọng của doanh nghiệp
* Các chiến lược Marketing hỗn hợp
Các chiến lược Marketing hỗn hợp hay được gọi là 4P: Product (sản
phẩm), Price (giá cả), Promotion (quảng cáo giới thiệu), Place (địa điểm).

- 13 -

13


14

Product khi thực hiện các chiến lược này thì tùy thuộc vào đặc điểm thị
trường và sản phẩm mà ta áp dụng các chiến lược: Thứ nhất, chiến lược mở
rộng thị trường là việc giới thiệu sản phẩm với các thị trường mà không thay

đổi về sản phẩm. Chiến lược này áp dụng đối với doanh nghiệp khả năng tài
chính nhỏ, khả năng nghiên cứu và phát triển hạn chế thì hiệu quả hơn. Thứ
hai, chiến lược thích nghi sản phẩm, là sự thay đổi sản phẩm để thỏa mãn các
yêu cầu thị yếu của thị trường. Để tiến hành chiến lược này các doanh nghiệp
cần dựa vào việc nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm, mức độ chấp nhận
sản phẩm của thị trường, tìm kiếm công dụng mới cho sản phẩm. Thứ ba,
chiến lược sản phẩm mới, được tiến hành theo các bước: hình thành ý tưởng,
đánh giá ý tưởng, thiết kế kỹ thuật và phát triển sản phẩm, kiểm tra sản phẩm
mới và cuối cùng là giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. Thứ tư, chiến lược
chủng loại sản phẩm quyết định đến số lượng các nhóm hàng, các kiểu loại,
kích cỡ của sản phẩm được đưa ra thị trường và phù hợp với năng lực của
doanh nghiệp.
Price là một trong những chính sách quan trọng trong chiến lược
Marketing hỗn hợp. Căn cứ để ra quyết định trong chiến lược giá: các yếu tố
chi phí; những mục tiêu của doanh nghiệp; yếu tố lạm phát; nhu cầu thị
trường; cạnh tranh trên thị trường; kênh phân phối…
Promotion bao gồm: quảng cáo, xúc tiến bán hàng, hội chợ triển lãm,
weside.
Quảng cáo được tiến hành trước khi sản phẩm có mặt trên thị trường.
Các bước thực hiện: xác định mục tiêu quảng cáo, xây dựng nội dung quảng
cáo, chọn phương tiện và lập kế hoạch quảng cáo, thiết kế và triển khai quảng
cáo, đánh giá hiệu quả quảng cáo.
Xúc tiến bán hàng là hoạt động thu hút khách hàng tới sản phẩm làm nó
hấp dẫn ở nơi tiêu thụ. Các hình thức xúc tiến chủ yếu: thay đổi hình thức sản
phẩm, khuyến khích mua hàng (hạ giá, khuyến mại), trưng bày và giới thiệu
sản phẩm hàng hóa.
- 14 -

14



15

Hội chợ triển lãm và phòng trưng bày với mục địch giới thiệu sản phẩm
và quan sát đối thủ cạnh tranh, khách hàng, xu thế của thị trường nhằm đưa ra
những sản phẩm phù hợp.
Place là những quyết định gắn liền với việc lựa chọn, phát triển và kiểm
soát các thành viên trong kênh để đáp ứng các điều kiện và mục tiêu thị
trường [11].
2.1.3.2 Quy mô của doanh nghiệp

Quy mô lớn sẽ tạo thế cạnh tranh với các đổi thủ khác và ngược lại.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở quy mô vốn, khả năng
huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, năng lực quản lý tài chính… trong
doanh nghiệp. Trước hết, năng lực tài chính gắn với vốn – là một yếu tố sản
xuất cơ bản và là một đầu vào của doanh nghiệp. Do đó, sử dụng vốn có hiệu
quả, quay vòng vốn nhanh… có ý nghĩa rất lớn trong việc làm giảm chi phí
vốn, giảm giá thành sản phẩm. Đồng thời, vốn còn là tiền đề đối với các yếu
tố sản xuất khác.
Việc huy động vốn kịp thời nhằm đáp ứng vật tư, nguyên liệu, thuê
nhân công, mua sắm thiết bị, công nghệ, tổ chức hệ thống bán lẻ… Như vậy,
năng lực tài chính phản ánh sức mạnh kinh tế của doanh nghiệp, là yêu cầu
đầu tiên, bắt buộc phải có nếu muốn doanh nghiệp thành công trong kinh
doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp phải củng cố và phát
triển nguồn vốn, tăng vốn tự có, mở rộng vốn vay dưới nhiều hình thức. Đồng
thời, điều quan trọng là doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn, hoạt động kinh doanh có hiệu quả để tạo uy tín đối với khách hàng, với
ngân hàng và những người cho vay vốn.


- 15 -

15


16
2.1.3.3 Năng lực quản lý và điều hành

Sức cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá bởi tính linh hoạt và
ứng dụng của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của thị trường.
Sự linh hoạt của doanh nghiệp trong quản lí sẽ giảm được tỷ lệ chi phí quản lý
trong giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của
doanh nghiệp.
2.1.3.4 Khả năng nắm bắt thông tin

Trong kinh doanh, doanh nghiệp nắm bắt thông tin về giá cả, thị
trường, đối thủ cạnh tranh, tâm lí khách hàng… sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế
rủi ro, tìm và tạo ra “lợi thế so sánh” của doanh nghiệp.
2.1.3.5 Đảm bảo chữ tín

Doanh nghiệp đảm bảo chữ tín với khách hàng là đảm bảo chất lượng
sản phẩm, thương hiệu sản phẩm, tạo lòng tin với khách hàng… Đối với các
đối tác bạn hàng thì phải tuân thủ đúng hợp đồng, không gian lận, không có
những hành động bất tín. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể có vị thế vững
mạnh trên thị trường.
2.1.3.6 Trình độ công nghệ

Thiết bị, công nghệ sản xuất là yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng rất lớn
đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Công nghệ phù hợp cho phép rút
ngắn thời gian sản xuất, giảm mức tiêu hao năng lượng, tăng năng suất, hạ giá

thành sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh đối
với sản phẩm của doanh nghiệp. Công nghệ còn tác động đến tổ chức sản xuất
của doanh nghiệp, nâng cao trình độ cơ khí hóa, tự động hóa của doanh
nghiệp.
2.1.3.7 Chất lượng cán bộ quản lý và đội ngũ lao động

Hệ thống cán bộ quản lí năng động, có kinh nghiệm, khả năng đánh giá
thì họ sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho Công ty. Năng lực tổ chức, quản lý doanh
nghiệp được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp
nói chung cũng như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nói riêng. Đội ngũ cán
bộ quản lí không chỉ đơn thuần là trình độ học vấn mà còn am hiểu về nhiều
- 16 -

16


17

lĩnh vực liên quan tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, từ pháp luật
trong nước và quốc tế, thị trường, ngành hàng…đến kiến thức về xã hội, nhân
văn. Ngoài ra họ phải có trình độ tổ chức, quản lý doanh nghiệp: thể hiện ở
việc sắp xếp, bố trí cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các bộ phận, hoạch định chiến lược. Việc hình thành tổ chức bộ
máy quản lý doanh nghiệp theo hướng tinh, gọn, nhẹ và hiệu quả cao có ý
nghĩa quan trọng không chỉ bảo đảm hiệu quả quản lý cao, ra quyết định
nhanh chóng, chính xác, mà còn làm giảm tương đối chi phí quản lý của
doanh nghiệp. Nhờ đó mà nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong doanh nghiệp, lao động vừa là yếu tố đầu vào vừa là lực lượng
trực tiếp sử dụng phương tiện, thiết bị để sản xuất ra sản phẩm hàng hóa và
dịch vụ. Lao động còn là lực lượng tham gia tích cực vào quá trình cải tiến kỹ

thuật, hợp lý hóa quá trình sản xuất và thậm chí góp sức vào những phát kiến
và sáng chế… Do vậy, trình độ của lực lượng lao động tác động rất lớn đến
chất lượng và độ tinh xảo của sản phẩm, ảnh hưởng lớn đến năng suất và chi
phí của doanh nghiệp. Đây là một yếu tố tác động trực tiếp tới năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần chú
trọng bảo đảm cả chất lượng và số lượng lao động, nâng cao tay nghề của
người lao động dưới nhiều hình thức, đầu tư kinh phí thỏa đáng, khuyến khích
người lao động tham gia vào quá trình quản lý, sáng chế, cải tiến…
2.1.3.8 Chi phí kinh doanh

Trong đó bao gồm chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới; chi
phí tiện ích; chi phí vận tải, bãi bằng…Chi phí nghiên cứu và phát triển sản
phẩm mới luôn chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư
nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới, độc đáo hiện đại, đáp ứng tốt yêu cầu
của khách hàng, qua đó tạo một vị thế tốt trên thị trường.
2.1.3.9 Tổ chức hệ thống của doanh nghiệp

Các doanh nghiệp cho dù có các yếu tố mặt hàng sản xuất kinh doanh,
nhân sự, tài chính, trang thiết bị hay công nghệ như nhau nhưng do trật tự tổ

- 17 -

17


18

chức hệ thống với hiệu lực khác nhau thì sức cạnh tranh của nó có những
điểm khác nhau.
2.1.4 Các công cụ sử dụng nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

 Cạnh tranh bằng chiến lược sản phẩm
“Sản phẩm là bất cứ cái gì – những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm tổ chức và
ý tưởng – có thể đưa vào thị trường để tạo sự chú ý, mua sắm, sử dụng tiêu dùng nhằm
thỏa mãn một nhu cầu hay ước muốn” [3]. Chiến lược sản phẩm là vũ khí sắc bén nhất
trong cạnh tranh trên thị trường đồng thời là phương pháp có hiệu quả tạo ra nhu cầu mới,
để nghiên cứu thực hiện chiến lược sản phẩm một cách tốt nhất, sản phẩm có vị thế trên thị
trường cần quan tâm đến các yếu tố cấu thành nên sản phẩm:
Các doanh nghiệp cần xác định cho mình một danh mục sản phẩm phù hợp. Danh
mục sản phẩm dựa trên bốn yếu tố: chiều rộng (có bao nhiêu loại sản phẩm), chiều dài
(tổng số mặt hàng có trong tất cả các loại sản phẩm), chiều sâu (số lượng những mặt hàng
có trong từng nhãn hiệu của từng loại sản phẩm của danh mục sản phẩm) và tính thống
nhất (mức độ quan hệ giữa các sản phẩm xét theo cách sử dụng cuối cùng, công nghệ sản
xuất, hệ thống phân phối, giá cả…) [3].
“Nhãn hiệu là một sự hứa hẹn của người bán bảo đảm cung cấp cho người mua
một tập hợp nhất định những tính chất, lợi ích và dịch vụ. Những nhãn hiệu danh tiếng
bao hàm một sự đảm bảo về chất lượng, sự trung thành của khách hàng [2].
Chiến lược nhãn hiệu của doanh nghiệp được thực hiện theo bốn hướng: mở rộng
loại sản phẩm, mở rộng nhãn hiệu, sử dụng nhiều nhãn hiệu trong cùng một loại sản phẩm
và nhãn hiệu mới cho loại sản phẩm mới. Do thay đổi trong nhu cầu thị yếu của người tiêu
dùng và hành vi ứng xử của các đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp cần tái định vị nhãn
hiệu bằng cách khai thác sự thừa nhận đối với nhãn hiệu hiện có hay thay đổi cả sản phẩm
lẫn hình ảnh của nó, hoặc chỉ thay đổi hình ảnh của sản phẩm.
Bao bì là một yếu tố của chiến lược sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết kế để nó
không chỉ làm nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ sản phẩm, mà còn giới thiệu một kiểu phân phối
mới, gợi ra những phẩm chất của sản phẩm, giúp cho người tiêu dùng dễ nhận biết sản
phẩm và nhãn hiệu, tạo ra cho họ sự tin tưởng và an tâm khi lựa chọn sản phẩm và nhãn
hiệu của doanh nghiệp.
Với những thay đổi nhanh chóng của thị hiếu người tiêu dùng, khoa học công nghệ
và cạnh tranh thị trường. Các doanh nghiệp cần có chương trình phát triển sản phẩm mới.
Doanh nghiệp có thể phát triển sản phẩm mới bằng hai cách: thông qua việc mua lại


- 18 -

18


19
doanh nghiệp, bằng sáng chế, giấy phép để sản xuất sản phẩm của người khác, hoặc thông
qua việc phát triển sản phẩm mới.
Ngoài ra doanh nghiệp sử dụng các chiến lược về thương hiệu, mẫu mã sản phẩm,
công nghệ sản xuất để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm.

 Cạnh tranh chất lượng
Chất lượng sản phẩm là phần lợi ích mà người tiêu dùng sở hữu và cảm
nhận được. Yêu cầu của khách hàng ngày càng cao về lợi ích mà họ nhận
được từ sản phẩm. Khách hàng chấp nhận bỏ giá cao hơn để được mua sản
phẩm chất lượng tốt. Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, tạo lợi thế
cạnh tranh với các đối thủ thì các doanh nghiệp phải không ngừng nghiên cứu
phát triển các sản phẩm mới có chất lượng tốt hơn.
Chất lượng sản phẩm là vấn đề quan trọng nhất đối với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm không được đảm bảo thì
cũng có nghĩa là doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng, mất thị trường nhanh
chóng đi tới suy thoái và bị phá sản. Chất lượng sản phẩm tốt sẽ làm tăng sản
lượng tiêu thụ, kéo dài chu kì sống của sản phẩm, làm tăng uy tín của doanh
nghiệp, mở rộng thị trường tiêu thụ. Do vậy, cạnh tranh bằng chất lượng sản
phẩm là một yếu tố rất quan trọng và cần thiết mà bất cứ một doanh nghiệp
nào cũng đều phải sử dụng nó.
 Cạnh tranh về giá cả sản phẩm
Giá cả có thể hiểu theo ý sau: đối với người bán, giá cả là khoản tiền trù
tính có thể nhận được từ phía người mua sau khi chuyển cho họ quyền sở hữu

hay sử dụng hàng háo dịch vụ đó. Còn đối với người mua thì giá cả luôn là chỉ
số đầu tiên đánh giá phần được với chi phí mà họ bỏ ra để có được quyền sở hữu
hay sử dụng hàng hóa đó. Nói một cách khác là lợi ích của hàng hóa và dịch vụ
phải tương ứng với khoản tiền mà họ bỏ ra để mua chúng.
Khi triển khai một sản phẩm mới, cải tiến sản phẩm mới hay đưa một
sản phẩm hiện có vào kênh phân phối mới, một thị trường mới thì doanh
nghiệp cần tiến hành định vị sản phẩm. Các doanh nghiệp thường tiến hành

- 19 -

19


20

định vị theo mối qua hệ giữa giá cả và chất lượng, với chín chiến lược có thể
là: chất lượng cao – giá cao, chất lượng cao – giá trung bình, chất lượng cao –
giá thấp, chất lượng trung bình – giá cao, chất lượng trung bình – giá trung
bình, chất lượng trung bình – giá thấp, chất lượng thấp – giá cao, chất lượng
thấp – giá trung bình, chất lượng thấp – giá thấp [3].
Đối với mỗi sản phẩm doanh nghiệp cần xác định mức giá bán ban đầu
và sau đó sẽ tiến hành điều chỉnh giá trong quá trình sản xuất kinh doanh, tức
là xây dựng được một cơ cấu giá phản ánh được những thay đổi về nhu cầu và
chi phí theo địa lý, những yêu cầu khác nhau của các phân đoạn thị trường,
thời vụ mua sắm, quy mô đặt hàng và các yếu tố khác. Trong quá trình triển
khai các cơ cấu và chiến lược về giá, các doanh nghiệp sẽ phải thay đổi giá
bán của họ.
Doanh nghiệp chủ động giảm giá khi: muốn tận dụng sản xuất năng lực
dư thừa, bảo vệ thị phần đang giảm dần, hay chi phối thị trường thông qua giá
thành thấp hơn do khối lượng sản xuất thấp hơn và tích lũy được nhiều kinh

nghiệm hơn. Doanh nghiệp chủ động tăng giá khi chi phí sản xuất tăng, nhu
cầu tăng quá mức.
 Cạnh tranh trong thiết lập mạng lưới kênh phân phối.
Phần lớn những người sản xuất đều cung cấp sản phẩm của mình cho
thị trường thông qua các trung gian phân phối. “Kênh phân phối là tập hợp
những cá nhân hay những cơ sở kinh doanh phụ thuộc lẫn nhau trong quá
trình tạo ra và chuyển sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến tiêu dùng”
[3]. Kênh phân phối có vai trò rất quan trọng giúp các doanh nghiệp giải
quyết khó khăn về tài chính và nhân sự, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm,
giảm bớt đầu mối giao dịch. Thông qua việc thực thi các chức năng thông tin,
cổ động, tiếp xúc, cân đối, thương lượng, phân phối vật phẩm, tài trợ và chia
sẻ rủi ro, lấp được khoảng cách về thời gian, không gian và quyền sở hữu của
người tiêu dùng đối với các sản phẩm và dịch vụ.

- 20 -

20


21

Tổ chức kênh phân phối được chia ra thành kênh phân phối trực tiếp
(người sản xuất bán thẳng cho khách hàng) và kênh phân phối gián tiếp
(thông qua các trung gian như đại lý, người bán buôn, người bán lẻ…). Tùy
số lượng trung gian và mối quan hệ của họ mà kênh phân phối gián tiếp lại
phân thành các cấp 1, 2, 3, 4.
Việc thiết kế kênh phân phối đòi hỏi phải phân tích nhu cầu khách hàng
về mức độ bảo đảm dịch vụ, xác định những mục tiêu và những yêu cầu bắt
buộc của kênh, xây dựng và đánh giá các phương án chính của kênh và lựa
chọn kênh phân phối.

Trong quá trình phân phối, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra,
giám sát hoạt động của kênh, phân tích lợi ích trong chuỗi giá trị để từ đó đưa
ra các quyết định tốt nhất để kênh hoạt động có hiệu quả tăng lợi ích cho các
tác nhân trong kênh.
 Cạnh tranh bằng công cụ quảng cáo, khuyến mãi
Quảng cáo là một trong năm công cụ chủ yếu để hướng thông tin thuyết
phục vào người mua và công chúng mục tiêu. Quảng cáo được thực hiện bởi
bộ phận marketing của doanh nghiệp hay thuê các hãng quảng cáo. Việc xây
dựng các chương trình quảng cáo phải phù hợp với thị trường mục tiêu và
động cơ của người mua. Doanh nghiệp phải đưa ra quyết định về mục tiêu
quảng cáo, ngân sách quảng cáo, thông điệp quảng cáo, phương tiện truyền
thông và đánh giá kết quả [3].
Khuyến mãi gồm những công cụ kích thích khách hàng (tặng hàng
mẫu, phiếu thưởng, trả lại tiền, bán đại hạ giá…, kích thích thương mại (trợ
cấp mua, quà miễn phí, thi đua doanh số các đại lý…, và kích thích nhân viên
bán hàng (tiền thưởng, thi đua, so sánh doanh số). Những quyết định chủ yếu
về khuyến mãi là xác định mục tiêu, lựa chọn công cụ, xây dựng chương
trình, thử nghiệm trước, tiến hành, kiểm tra hoạt động và đánh giá kết quả.
2.1.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh

- 21 -

21


22

2.1.5.1 Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
 Các nhân tố kinh tế
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chủ yếu ảnh hưởng bởi GDP

bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ giá hối đoái,
yếu tố lạm phát, lãi suất, thuế xuất nhập khẩu…
GDP là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm). Trong nhiều năm gần đây GDP bình quân đầu người và
tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đều tăng cao. Tốc độ tăng trưởng bình
quân trong nhiều năm đạt khoảng 7,6% đặc biệt trong thời kì khủng hoảng
kinh tế nước ta vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2009 trong khi các
nước như Mĩ, Anh, Pháp và nhiều nước khác cố tìm cách thoát khỏi khủng
hoảng và tránh tình trạng tốc độ tăng trưởng quá thấp thậm chí là âm thì nước
ta vẫn đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và GDP
bình quân đầu người cao làm cho thu nhập của người dân tăng, khả năng
thanh toán nhanh dẫn tới sức mua tăng. Vậy đây là cơ hội để các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh các mặt hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng
gia tăng của thị trường [19].
Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước: Nhân tố này có tác
động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và đối với nền
kinh tế nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên
giá, khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn đối thủ
cạnh tranh. Như vậy, năng lực cạnh tranh bằng giá sản phẩm của doanh
nghiệp sẽ kém hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên
giá khuyến khích nhập khẩu thì sức cạnh tranh hàng hoá cùng loại của các
doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay cả trên thị trường trong nước.
Ngược lại khi đồng nội tệ giảm giá, sức cạnh tranh hàng hoá của các doanh
nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài vì giá bán

- 22 -

22



23

hàng hoá sẽ thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh kinh doanh hàng hoá do nước
khác sản xuất. Tỷ giá thay đổi làm đội giá thành thức ăn thành phẩm.
Yếu tố lạm phát cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh hàng hoá của
doanh nghiệp. Một quốc gia có mức lạm phát cao sẽ làm tăng giá cả các yếu
tố đầu vào dẫn đến tăng giá thành và tăng giá bán. Điều đó làm cho hàng hoá
của doanh nghiệp khó cạnh tranh hơn về giá so với các đối thủ cạnh tranh
khác. Trong năm 2008, 2009 với sự gia tăng chóng mặt của giá cả hàng hóa
làm cho người tiêu dùng giảm lượng mua hàng hóa so với trước điều này ảnh
hưởng không ít tới sản xuất của các doanh nghiệp [19].
Lãi suất cho vay của những ngân hàng có ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp đặc biệt là năng lực tài chính. Vốn vay trong cơ cấu
vốn của doanh nghiệp là không thể thiếu. Mặt khác khi lãi suất cho vay của
các ngân hàng cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao kéo theo sức mua hàng
hóa giảm.
Thuế xuất nhập khẩu cũng là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới
năng lực cạnh tranh của Công ty. Đối với các doanh nghiệp chế biến thức ăn
chăn nuôi thì thuế nhập khẩu các loại ngô, đỗ tương làm tăng chi phí sản xuất
của sản phẩm đã gây khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, mở rộng thị trường.
Vậy muốn nâng cao được năng lực cạnh tranh thì các doanh nghiệp cần
thường xuyên quan tâm nắm bắt tới các nhân tố kinh tế để có các chiến lược,
quyết định trước những sự biến động của các yếu tố kinh tế.
 Các nhân tố về thể chế chính sách
Thể chế, chính sách là tiền đề quan trọng cho hoạt động của doanh
nghiệp. Nội dung của thể chế, chính sách bao gồm các quy định pháp luật, các
biện pháp hạn chế hay khuyến khích đầu tư hay kinh doanh đối với hàng hóa,
dịch vụ, ngành nghề, địa bàn… Thể chế, chính sách bao gồm pháp luật, chính
sách về đầu tư, tài chính, tiền tệ, đất đai, công nghệ, thị trường… nghĩa là các

biện pháp điều tiết cả đầu vào và đầu ra cũng như toàn bộ quá trình hoạt động
của doanh nghiệp. Do vậy, đây là nhóm yếu tố rất quan trọng và bao quát rất
- 23 -

23


24

nhiều vấn đề liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp nói chung và nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng.
 Các nhân tố về kỹ thuật công nghệ
Nhóm yếu tố này ngày càng quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến
môi trường cạnh tranh, tác động một cách quyết định đến hai yếu tố cơ bản
nhất tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất
lượng và giá bán. Khoa học – công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của các
doanh nghiệp, qua đó tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Hiện nay
trên thế giới đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng sản
phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học – công nghệ cao.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra
được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị toàn bộ cơ
sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Đây là tiền đề để các doanh
nghiệp ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
 Các nhân tố về văn hóa xã hội
Ở mỗi vùng miền lại có những phong tục, tập quán, lối sống cũng như
thị hiếu của người tiêu dùng khác nhau. Sự khác nhau đó thể hiện ở cách ăn
mặc, cách sống, các lễ nghi cưới xin ma chay, tôn giáo… phong tục sản xuất
cũng khác nhau đặc biệt là ngành nông nghiệp. Do đó các doanh nghiệp khi
sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó hoặc xâm nhập hàng vào thị trường
mới thì xem nó có phù hợp với phong tục tập quán không? Khi đã hiểu được

về các yếu tố đó và đáp ứng được hàng hóa phù hợp với nhu cầu khách hàng
thì cũng là lúc doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh thị trường và nâng cao năng
lực cạnh tranh của Công ty.
 Các nhân tố về tự nhiên
Các nhân tố tự nhiên tạo ra những điều kiện thuận lợi và khó khăn ban
đầu cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, nếu tài nguyên thiên nhiên
phong phú, điều kiện khí hậu thời tiết thuận lợi, vị trí của doanh nghiệp thuận

- 24 -

24


25

lợi thì cũng coi như là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp giúp doanh
nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
2.1.5.2 Các nhân tố thuộc môi trường vi mô
 Khách hàng
Khách hàng là yếu tố quan trọng có ảnh hưởng tới kinh doanh, vì thế
thực chất khách hàng là thị trường của doanh nghiệp, số lượng, kết cấu khách
hàng, quy mô nhu cầu, động cơ mua hàng, thị hiếu, yêu cầu của họ…Khách
hàng có ý nghĩa sống còn đối với việc kinh doanh, nếu chúng ta không cung
cấp cho khách hàng thứ mà họ cần với giá phải chăng họ sẽ tìm chỗ khác để
mua hàng và ngược lại nếu ta đáp ứng tốt được các nhu cầu của khách hàng
chúng ta sẽ tăng được được doanh số và lợi luận.
Trong điều kiện một ngành có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của
khách hàng ngày càng trở nên quan trọng và cần được ưu tiên hơn. Một doanh
nghiệp không thể thoả mãn được tất cả nhu cầu của mọi khách hàng nên
doanh nghiệp cần phải phân loại khách hàng thành các nhóm khác nhau. Trên

cơ sở đó mới tiến hành phân tích và đưa ra những chính sách thích hợp để thu
hút ngày càng nhiều khách hàng về phía mình nhằm tăng sức cạnh tranh của
hàng hoá của mình so với đối thủ cạnh tranh. Ngoài việc thu hút khách hàng
thì các doanh nghiệp phải gìn giữ khách hàng.
 Nhà cung cấp và các yếu tố đầu vào
Nhà cung cấp là những cá nhân hay tổ chức cung ứng các loại yếu tố
đầu vào cho doanh nghiệp như: nguyên liệu, máy móc, vật liệu, thành phẩm
hay dịch vụ cho doanh nghiệp; lao động; khoa học kỹ thuật; vốn giữa các nhà
cung ứng và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương lượng về giá cả,
chất lượng và thời gian giao hàng.
Nhà cung cấp và các yếu tố đầu vào ảnh hưởng lớn đến môi trường
cạnh tranh trong nội bộ ngành. Số lượng các nhà cung cấp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau thể hiện sự phát triển của thị trường các yếu tố đầu

- 25 -

25


×