Tải bản đầy đủ (.pdf) (182 trang)

đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài theo hướng phát triển kinh tế trọng điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 182 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

TRN TH TUYT LAN

đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng
phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ

LUN N TIN S KINH T

H NI - 2014


HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

TRN TH TUYT LAN

đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng
phát triển bền vững ở vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ
Chuyờn ngnh : Kinh t phỏt trin
Mó s

: 62 31 05 01

LUN N TIN S KINH T

Ngi hng dn khoa hc: 1. PGS, TS PHM TH KHANH
2. TS NGUYN T

H NI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu
của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận án

Trần Thị Tuyết Lan


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ

1.1. Tình hình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát
triển bền vững của các tác giả ngoài nước
1.2. Tình hình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển
bền vững vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ của các tác giả trong nước

6
6
13


Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH
TẾ TRỌNG ĐIỂM

2.1. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo hướng phát triển bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm
2.2. Nội dung, tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm
2.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á về đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo hướng phát triển bền vững vùng kinh tế trọng điểm và bài
học đối với vùng Kinh tế t rọng điểm Bắc Bộ

26
26
40

53

Chương 3: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO H ƯỚNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ

3.1. Tiềm năng, lợi thế và khó khăn, thách thức đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo hướng phát triển bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
3.2. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bền vững
ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2003 – 2011
3.3. Đánh giá chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển
bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

64
64

71
107

Chương 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ

4.1. Định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phát triển bề n vững
vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2011 -2020
4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng
phát triển bền vững ở vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

120
120
125
149
151
152
164


BẢNG DANH MỤC CÁC CHŨ VIẾT TẮT

BHXH


Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

BVMT

Bảo vệ môi trường

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

DNTN

Doanh nghiệp trong nư ớc

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài


GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GTSX

Giá trị sản xuất

GTSXCN

Giá trị sản xuất công nghiệp

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

KTTĐ

Kinh tế trọng điểm

LĐCN

Lao động công nghiệp

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

PTBV


Phát triển bền vững

TSCĐ

Tài sản cố định

TƯLĐTT

Thỏa ước lao động tập thể

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực FDI trên địa
bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2004 -2011 ................................................. 85
Bảng 3.2: Mức trang bị TSCĐ và đầu tư dài hạn cho một lao động và doanh nghiệp
của khu vực FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010 phân theo
địa phương.................................................................................................... 105

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Biểu đồ 3.1:
Biểu đồ 3.2:
Biểu đồ 3.3:
Biểu đồ 3.4:
Biểu đồ 3.5:
Biểu đồ 3.6:
Biểu đồ 3.7:
Biểu đồ 3.8:
Biểu đồ 3.9:

Tên biểu đồ

Trang

So sánh số dự án FDI ở 3 vùng KTTĐ của Việt Nam giai đoạn
2003-7/2012 .......................................................................................... 71
Vốn FDI đăng ký và vốn FDI thực hiện ở vùng KTTĐ Bắc Bộ
giai đoạn 2003-2011.............................................................................. 72
So sánh tổng vốn FDI đăng ký ở 3 vùng KTTĐ của Việt Nam
giai đoạn 2003 -7/2012 .......................................................................... 73
Qui mô dự án FDI tại 3 vùng KTTĐ của Việt Nam giai đoạn
2003-7/2012 .......................................................................................... 74
Cơ cấu FDI theo ngành phân theo số dự án ở vùng KTTĐ Bắc
Bộ giai đoạn 2003 -7/2012..................................................................... 75
Cơ cấu FDI theo ngành phân theo vốn đăng ký ở vùng KTTĐ
Bắc Bộ giai đoạn 2003 -7/2012.............................................................. 75
Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư phân theo số dự án ở vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -7/2012.................................................. 77
6 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn FDI đăng ký trên 2 tỷ USD
ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -7/2012...................................... 78

Cơ cấu FDI phân theo địa bàn đầu tư ở vùng KTTĐ Bắc Bộ

giai đoạn 2003-7/2012 .......................................................................... 79
Biểu đồ 3.10: Tốc độ tăng GDP của khu vực FDI và vùng KTTĐ Bắc Bộ giai
đoạn 2004-2011..................................................................................... 80
Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ GDP của các thành phần kinh tế so với GDP vùng KTTĐ
Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2011................................................................. 80
Biểu đồ 3.12: Vốn đầu tư của khu vực FDI và tổng vốn đầu tư xã hội ở vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010 ..................................................... 81


Biểu đồ 3.13: So sánh tốc độ và tỷ lệ vốn đầu tư của khu vực FDI với tổng
vốn đầu tư XH ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010 ................ 82
Biểu đồ 3.14: Thu ngân sách từ khu vực FDI và tổng thu ngân sách vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010 ..................................................... 83
Biểu đồ 3.15: So sánh tốc độ và tỷ lệ thu ngân sách từ khu vực FDI với tổng
thu ngân sách vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010..................... 84
Biểu đồ 3.16: Giá trị xuất khẩu so với vốn thực hiện của khu vực FDI tại một
số tỉnh, thành phố vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2011 .............. 87
Biểu đồ 3.17: Giá trị xuất nhập khẩu, nhập siêu của một số tỉnh, thành phố
vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2011 ............................................ 88
Biểu đồ 3.18: GTSXCN khu vực FDI so với GTSX, GTSXCN vùng KTTĐ
Bắc Bộ giai đoạn 2006 -2011 ................................................................. 89
Biểu đồ 3.19: Tỷ trọng GTSXCN khu vực FDI so với GTSX, GTSXCN vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2006 -2011 ..................................................... 90
Biểu đồ 3.20: Cơ cấu GTSXCN theo thành phần ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai
đoạn 2005-2011..................................................................................... 91
Biểu đồ 3.21: Cơ cấu GTSX theo thành phần ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn
2005-2011 ............................................................................................. 91
Biểu đồ 3.22: Số lao động và LĐCN của khu vực FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ

giai đoạn 2003 -2010.............................................................................. 92
Biểu đồ 3.23: Tốc độ tăng số lao động và LĐCN của khu vực FDI ở vùng
KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003-2010 ..................................................... 93
Biểu đồ 3.24: Tỷ lệ LĐCN so với số lao động đang làm việc trong khu vực
FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ giai đoạn 2003 -2010 ................................. 94
Biểu đồ 3.25: Tiền lương bình quân chia theo loại hình doanh nghiệp ....................... 95
Biểu đồ 3.26: Thu nhập bình quân của người lao động trong các loại hình
doanh nghiệp ......................................................................................... 96

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
Sơ đồ 2.1:
Sơ đồ 2.2:

Tên sơ đồ

Trang

Mối quan hệ giữa F DI với PTBV về kinh tế, xã hội và môi trường
vùng KTTĐ.....................................................................................................35
Tam giác hành vi của ba chủ thể trong hoạt động FDI theo hướng
PTBV vùng KTTĐ..........................................................................................38


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng KTTĐ Bắc Bộ là một trong những vùng KTTĐ của cả nước, được xây
dựng và phát triển nhằm hướng tới mục tiêu phát huy tối đa các lợi thế so sánh của
vùng KTTĐ, tạo ra các vùng kinh tế có tính chất động lực, có tác động lan tỏa và bứt

phá; lôi cuốn các vùng khác cùng phát triển. Do đó, việc thu hút và quản lý hoạt động
của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI nhằm thúc đẩy vùng KTTĐ Bắc Bộ phát triển
theo hướng bền vững là yêu cầu khách quan trong tiến tr ình phát triển kinh tế - xã hội
và BVMT của vùng.
Vùng KTTĐ Bắc Bộ bao gồm 8 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo
Thông báo số 108/TB-VPCP ngày 30 tháng 7 năm 2003 về kết luận của Thủ tướng Chính
phủ về việc bổ sung, mở rộng vùng KTTĐ Bắc Bộ là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương,
Hưng Yên, Quảng Ninh, Hà Tây, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc. Đến 1 -1-2008, Hà Tây được
sáp nhập vào Hà Nội, nên vùng KTTĐ Bắc Bộ chỉ còn 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Đây là vùng giữ vị trí quan trọng chiến lược trong tiến trìn h hội nhập sâu, rộng, hiệu
quả với khu vực và thế giới. Bởi lẽ, vùng KTTĐ Bắc Bộ là vùng duy nhất có Thủ đô Hà
Nội - là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá và quan hệ quốc tế của cả nước; nơi hội tụ
đầy đủ các lợi thế so sánh về vị trí địa kinh tế - chính trị; hạ tầng kỹ thuật; nguồn nhân lực;
là nơi tập trung nhiều viện nghiên cứu và các trường đại học nhất trong cả nước...
Với những lợi thế đặc biệt, riêng có, trong những năm qua, vùng KTTĐ Bắc Bộ là
một trong hai vùng kinh tế của cả nước luôn dẫn đầu về thu hút FDI cả về số lượng dự án và
qui mô vốn đầu tư. Khu vực doanh nghiệp có vốn FDI ở vùng KTTĐ Bắc Bộ có những
đóng góp tích cực vào tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Tuy nhiên, kết
quả thu hút FDI và quá trình hoạt động của khu vực doanh nghiệp có vốn FDI ở vùng
KTTĐ Bắc Bộ đã và đang xuất hiện những biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng không nhỏ đến sự
PTBV của vùng trên cả 3 khía cạnh: kinh tế, xã hội và BVMT... Mặc dù, kết quả thu hút
FDI vào vùng KTTĐ Bắc Bộ trong những năm qua là rất khả quan, song cơ cấu đầu tư theo
ngành của khu vực FDI trong vùng còn mất cân đối, tập trung chủ yếu vào những ngành
nghề sử dụng nhiều lao động, những ngành gia công và lắp ráp mà điển hình là: giày da, dệt
may, linh kiện điện tử,.. chưa chú trọng thu hút FDI vào phát triển các ngành công nghiệp ít
gây hại đến môi trường , nhất là ngành sử dụng công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao.
Thực tế đã chứng minh , sau nhiều năm thu hút FDI, sản xuất công nghiệp của vùng tuy có
nhiều thay đổi, nhưng vùng KTTĐ Bắc Bộ vẫn chưa thực sự trở thành trung tâm công
nghiệp hiện đại , có sức lôi cuốn và tác động lan tỏa đến ngành công nghiệp của các vùng lân



2
cận cùng phát triển. Hầu hết FDI vào các ngành công nghiệp đều có nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường cao, đặc biệt là ngành công nghiệp khai khoáng, nhiệt điện, hóa chất,... Số lượng
và qui mô dự án FDI tập trung vào các lĩnh vực giáo dục đào tạo, cấp nước và xử lý chất
thải, y tế và trợ giúp xã hội,... còn rất nhỏ bé. Bên cạnh đó, sự hoạt động của khu vực các
doanh nghiệp có vốn FDI cũng đang xuất hiện những ảnh hưởng tiêu cực đến sự PTBV của
vùng KTTĐ Bắc Bộ. Về mặt kinh tế, xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp FDI “lỗ
giả, lãi thật”, trốn thuế làm thất thu thuế của Nhà nước; hiện tượng nợ xấu và chuyển giá
trong các doanh nghiệp FDI khá phổ biến và có biểu hiện ngày càng gia tăng. Khu vực
doanh nghiệp FDI chưa thực sự tạo ra tác động lan tỏa lớn đối với nền kinh tế của vùng.
Mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong nư ớc với các doanh nghiệp FDI còn rất lỏng lẻo.
Về mặt xã hội, khu vực FDI góp phần tạo mở và giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động trong vùng, song chưa chú trọng đến việc nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động; đời sống vật chất và tinh thần của người lao động chưa được quan tâm một cách thỏa
đáng. Về mặt môi trường, ý thức chấp hành pháp luật BVMT của các doanh nghiệp có vốn
FDI chưa tốt với các biểu hiện như chưa quan tâm đầu tư cho công tác BVMT, cố tình vi
phạm pháp luật BVMT... đã ảnh h ưởng rất lớn đến môi trường sinh thái và sức khỏe của
dân cư trong vùng. Tất cả những tác động tiêu cực đó đang là rào cản tiềm ẩn nguy cơ,
thách thức to lớn đối với sự PTBV của vùng KTTĐ Bắc Bộ.
Xuất phát từ những vấn đề thực tiễn trên đây, việc làm rõ hơn nữa cơ sở lý luận về
FDI theo hướng PTBV; đánh giá đúng đắn, khách quan thực trạng FDI theo hướng PTBV
ở vùng KTTĐ Bắc Bộ và tìm kiếm các giải pháp thu hút và quản lý hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn FDI như thế nào để đảm bảo PTBV cho vùng KTTĐ Bắc Bộ trên cả
ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường là yêu cầu cấp bách. Nhằm hướng đến việc đáp
ứng yêu cầu đó, đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo h ướng phát triển bền vững ở
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” được tác giả lựa chọn để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về FDI theo hướng PTBV

vùng KTTĐ; đánh giá đúng đắn thực trạng FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ Bắc Bộ,
luận án đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh đầu tư trực
tiếp nước ngoài theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận án sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
hướng PTBV vùng KTTĐ.


3
- Tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia Châu Á về đầu tư trực tiếp nước
ngoài theo hướng PTBV và rút ra một số bài học đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo
hướng PTBV ở vùng KTTĐ.
- Phân tích, đánh giá thực trạng FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ , bao
gồm những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh FDI theo hướng
PTBV ở vùng KTTĐ Bắc B ộ trong thời gian tới.
3. Đối tượng v à phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của l uận án là đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV
ở vùng KTTĐ Bắc Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư có liên quan đến 2 chủ thể:
nhà ĐTNN và nước tiếp nhận đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt
động này là mục tiêu lợi nhuận, còn mục tiêu của nước tiếp nhận đầu tư là lợi ích
kinh tế - xã hội mà FDI mang lại. Do đó, xét dưới góc độ là nước tiếp nhận đầu tư,
đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV thực chất là việc nước tiếp nhận đầu tư
làm thế nào để hoạt động FDI mang lại nhiều tác động tích cực và đảm bảo mục tiêu
phát triển bền vững cho quốc gia đó, vùng hoặc địa phươ ng đó.

Với ý nghĩa đó, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, luận án sẽ nghiên cứu
những ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến PTBV của vùng KTTĐ Bắc
Bộ trên cả ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường . Trên cơ sở phân tích và đánh giá
những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của FDI đến PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ,
luận án chỉ ra những nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy FDI theo
hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ. Trong đó:
+ Khái niệm đầu tư được nghiên cứu trong luận án được hiểu là hoạt độ ng đầu tư,
là hoạt động bỏ vốn đầu tư nhằm mục đích thu lợi nhuận.
+ Luận án không nghiên cứu sự PTBV trong nội tại của khu vực các doanh nghiệp
có vốn FDI, mà nghiên cứu FDI tác động đến PTBV ở nước tiếp nhận đầu tư, cụ thể là
vùng KTTĐ Bắc Bộ.
+ Vai trò quản lý nhà nước về FDI theo hướng PTBV chỉ được xem xét có chừng
mực, dưới lát cắt là những nhân tố ảnh hưởng, là nguyên nhân của những hạn chế đối với
FDI theo hướng PTBV.


4
+ Chủ thể tham gia định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV
ở vùng KTTĐ Bắc Bộ là Nhà nước Trung ương, chính quyền địa phương, các doanh
nghiệp FDI và các tổ chức xã hội.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc
Bộ, trên địa bàn 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Hải
Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc.
- Về thời gian nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ chủ yếu trong
giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2011. Ngoài ra, một số nội dung trong luận án được phân
tích với số liệu cập nhật đến năm 2012.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn số liệu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa vào những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, Tư tưởng Hồ

Chí Minh, quan điểm và chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về huy động v ốn nước
ngoài vào phát triển kinh tế qua các Văn kiện Đại hội; định hướng chiến lược PTBV của
Việt Nam; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chủ trương, chính sách thu hút vốn FDI
của vùng KTTĐ Bắc Bộ ; tham khảo một số lý thuyết kinh tế học hiện đại về vai trò của FDI
trong tăng trưởng và phát triển kinh tế, về vấn đề quy hoạch phát triển vùng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu , trong đó đặc biệt chú
trọng vào các phương pháp sau đây:
- Phương pháp hệ thống hoá: Phương pháp này được sử dụng trong phần tổng
quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng PTBV
(chương 1) và trong phần cơ sở lý luận của đề tài luận án (chương 2), nhằm nhìn nhận vấn
đề nghiên cứu một cách toàn diện hơn, từ đó, xác định được nội dung cần tập trung nghiên
cứu của luận án.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu
trong phần đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài th eo hướng PTBV ở vùng
KTTĐ Bắc Bộ (chương 3), trên cơ sở khung lý thuyết đã được xây dựng ở Chương 2.
- Phương pháp thống kê và so sánh: Phương pháp này được sử dụng trong phần
đánh giá thực trạng ở chương 3.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch: Phương pháp này được sử dụng nhằm làm rõ
các khái niệm trung tâm của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được dùng để tham vấn và kiểm
nghiệm các luận chứng, phân tích, đánh giá thông qua các chuyên gia đầu ngành nghiên


5
cứu về FDI, cũng như các nhà hoạch định chính sách đối với FDI. Những gợi ý chính
sách của các chuyên gia sẽ rất hữu ích cho tác giả trong quá trình đưa ra những giải pháp ở
chương 4.
4.3. Nguồn số liệu
Nguồn số liệu sử dụng trong luận án chủ yếu là nguồn số liệu thứ cấp, bao gồm:

- Số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương vùng KTTĐ Bắc Bộ;
- Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ
Tài nguyên và Môi trường;
- Số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở
Tài nguyên và Môi trường của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vùng KTTĐ
Bắc Bộ;
- Số liệu điều tra, khảo sát của các Viện nghiên cứu có liên quan như Viện Khoa
học Lao động và Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện PTBV vùng KTTĐ Bắc
Bộ, Viện Khoa học Quản lý Môi trường, Viện Công nhân và Công đoàn,...
- Các kết quả nghiên cứu đã được công bố tại các cuộc Hội thảo, các bài viết đăng
tải trên các tạp chí chuyên ngành.
5. Đóng góp của luận án
- Về mặt lý luận:
+ Xây dựng khái niệm, đặc điểm và chỉ rõ yêu cầu đối với FDI theo hướng PTBV
vùng KTTĐ.
+ Xác định nội dung và các tiêu chí đánh giá FDI theo hướng PTBV ở vùng
KTTĐ trên cả ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
+ Làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.
+ Đúc rút những bài học kinh nghiệm về FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ của
một số quốc gia Châu Á, bổ sung vào lý luận về FDI theo hướng PTBV vùng KTTĐ.
- Về mặt thực tiễn:
+ Làm rõ thực trạng của FDI theo hướng PTBV ở vùng KTTĐ Bắc Bộ, những hạn
chế và nguyên nhân của nó.
+ Đề xuất những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh FDI theo
hướng phát triển bền vững ở vùng KTTĐ Bắc Bộ trong thời gian tới.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận án được trình bày trong 4 chương, 10 tiết.



6
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG Ở VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC N GOÀI
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA CÁC TÁC GIẢ NGOÀI NƯỚC

1.1.1. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động
đến tăng trưởng kinh tế
Đây là nội dung nghiên cứu được nhiều học giả nước ngoài quan tâm nhiều nhất
và có nhiều công trình nghiên cứu nhất. Tiêu biểu cho nhóm nghiên cứu này bao gồm:
Nghiên cứu của De Mello (1999) lấy mẫu ở 16 nước phát triển và 17 nước đang
phát triển, ông đã chỉ ra rằng: FDI ròng có hiệu quả tích cực và quan trọng đối với tăng
trưởng kinh tế thời kỳ 1970 - 1990. Song, đối với các nước đang phát triển thì FDI có
tác động đến tăng trưởng kinh tế lớn hơn, còn đối với các nước phát triển thì nhỏ hơn.
Nghiên cứu của Campos và Kionoshita (2002) với mẫu nghiên cứu nhỏ hơn, bao
gồm 25 nước Trung và Đông Âu, c ùng các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi thuộc
Liên Xô cũ, các tác giả cho rằng "FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế tại các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi". Bởi vì, tại các nước đang chuyển đổi có quá trình
CNH diễn ra mạnh mẽ hơn và họ có lực lượng lao động được đào tạo tốt hơn.
Nghiên cứu của các học giả Berthelemy và Demurger (2000); Graham và Wada
(2001) và Buckey et al (2002), sử dụng số liệu FDI phân theo địa phương của Trung
Quốc cho thấy, FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
các tỉnh. Các tỉnh ven biển, nơi thu hút phần lớn FDI của Trung Quốc đã sử dụng FDI
có hiệu quả hơn so với các tỉnh khác.
Nghiên cứu của Blomstrom et al (1992) chia các nước đang phát triển thành hai
nhóm, đó là: các nước có thu nhập thấp hơn và các nước có thu nhập cao hơn. Ông nhận
xét, FDI chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các nước có thu nhập cao hơn. Tác giả kết

luận, nước tiếp nhận đầu tư chỉ được hưởng lợi từ FDI, khi đạt được mức độ phát triển
nhất định, để có thể t iếp thu được công nghệ mới. Nói cách khác, mức thu nhập là điều
kiện tiên quyết cho sự ảnh hưởng tích cực của FDI đến tăng trưởng kinh tế. Dưới mức
thu nhập này, FDI hầu như không có ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Borensztein et al (1995 - 1998) sử dụng số liệu của 69 nước
đang phát triển giai đoạn 1970 - 1989 để hồi quy. Kết quả cho thấy FDI ròng chỉ có ảnh
hưởng nhẹ đến tăng trưởng, nhưng khi sử dụng số nhân của FDI với trình độ của lực


7
lượng lao động làm biến độc lập thì biến n ày có hệ số dương và ý nghĩa thống kê. Ông
kết luận, FDI chỉ mang lại tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế khi nước nhận đầu
tư có lực lượng lao động đạt đến trình độ nhất định. Dưới mức đó, FDI hầu như không
có tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Borensztein et al (1995), Hermes và Lensink (2000) lại cho rằng, tốc độ tăng
trưởng của các nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp nhận và hấp thụ
công nghệ mới. Họ cũng đồng ý rằng sự đóng góp chính của FDI là thúc đẩy tiến bộ về
công nghệ của nước sở tại. Hermes và Lensink cho rằng, để khai thác tối đa hiệu quả
của FDI, nước tiếp nhận đầu tư cần phát triển thị trường tài chính. Hệ thống tài chính
cần phát triển đến một trình độ nhất định để huy động tiết kiệm, khuyến khích các doanh
nghiệp tro ng nước đầu tư đổi mới công nghệ. Có như vậy, doanh nghiệp trong nước mới
tận dụng được công nghệ từ các doanh nghiệp FDI nhiều hơn.
Nghiên cứu của Ramirez (2000) sử dụng số liệu vốn FDI tích luỹ ước lượng
đóng góp FDI đến tăng trưởng kinh tế của Mexico gi ai đoạn 1960 - 1995. Ông thấy
rằng, vốn FDI tác động tích cực đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thông qua năng
suất lao động. Ramirez (2000) đưa ra kết luận, để FDI tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế, cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực t hì mới có thể tiếp nhận được
công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý.
Nghiên cứu của Li và Liu (2005) qua khảo sát 88 quốc gia có tiếp nhận FDI (bao
gồm cả nước phát triển và đang phát triển) đã chỉ ra rằng, FDI và tăng trưởng kinh tế có

mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo các tác giả FDI không những trực tiếp tác động
đến tăng trưởng kinh tế, mà còn thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và công nghệ. Một
điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu này là, nước nhận FDI phải có nguồn nhân lực và
công nghệ đạt tới trình độ nhất định. Nếu nước nhận FDI có trình độ nguồn nhân lực và
công nghệ thấp hơn nước đầu tư thì sẽ tác động tiêu cực đến nước nhận FDI.
Nghiên cứu của Buckley et al (2002) là một trong rất ít các nghiên cứu cho rằng
FDI tác động đến tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với đầu tư trong nước của Trung
Quốc. Nghiên cứu đi đến kết luận FDI không có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh
tế bằng các nguồn vốn khác trong nước.
Khi nghiên cứu dòng vốn FDI của Hoa Kỳ đầu tư sang các nước đang phát triển,
Nunnenkamp và Spatz (2003) đã đưa ra quan điểm rằng, FDI không có tác động đáng
kể nào đến tăng trưởng kinh tế ở các nước tiếp nhận đầu tư, thậm chí FDI còn có tác
động tiêu cực. Đặc biệt ở các quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, trình
độ lực lượng lao động không cao, độ mở cửa nền kinh tế thấp thì càng thu hút nhiều FDI
càng ảnh hưởng xấu đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Kết quả nghiên cứu của


8
Buckley et al 2002 cũng tương tự kết quả nghiên cứu của Dutt (1997), khi ông kiểm
định về hiệu quả của FDI đầu t ư từ các nền kinh tế phương Bắc vào các nền kinh tế
phương Nam.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động
đến đầu tư và khả năng tích lũy vốn
Trong các lý thuyết kinh tế Tân cổ điển và lý thuyết tăng trưởng mới, tích luỹ
vố n đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Sự khan hiếm vốn được giả định
là một trở ngại lớn trong quá trình phát triển, mà các nước đang phát triển gặp phải. Vấn
đề này phát sinh từ sự khác biệt giữa tiết kiệm và đầu tư. Bởi vì, nước đang phát triển
thường có mức thu nhập thấp và mức độ tiết kiệm thấp, do đó, không đáp ứng nhu cầu
đầu tư của họ (Reuber 1973; Solow 1956; Rostow 1971; Hirschman 1963; và UNCTAD
1992). Do đó, FDI có thể làm giảm bớt những khó khăn tài chính và có những đóng góp

đáng kể cho quá trình tích tụ vốn trong các quốc gia đang phát triển.
Các nghiên cứu thực nghiệm cũng khẳng định giả thuyết rằng FDI có tác động
tích cực đến sự hình thành vốn đầu tư. Agrawal (2000) sử dụng số liệu của các nước
Nam Á trong giai đoạn từ năm 196 0 và 1996 để phân tích các yếu tố quyết định đến tỷ
lệ tiết kiệm và đầu tư tại các nước này. Kết quả cho thấy rằng yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến tỷ lệ đầu tư của các nước này là tỷ lệ FDI rò ng/GDP. Cụ thể, tỷ lệ FDI
ròng/GDP tăng 1% sẽ mang lại tỷ l ệ đầu tư trên GDP tăng 1,81%. Đặc biệt, khi sử dụng
biến trễ để kiểm định tác động lâu dài của FDI đối với đầu tư trong nước, ông đã tì m ra
kết quả là tỷ lệ FDI ròng/GDP tăng lên 1% sẽ dẫn đến tỷ lệ đầu tư trên GDP tăng hơn
5%. Tuy nhiên, tỷ lệ đầu tư vào các nước Nam Á vẫn còn thấp và nguồn vốn FDI được
cho là ít có tác dụng hơn nguồn vốn trong nước.
Giống như Agrawal (2000), Krkoska (2001) cũng tìm thấy FDI có tác động tích
cực đến sự hình thành tổng vốn đầu tư trong nước. Krkoska (2001) ước tính tác động
của FDI vào tổng vốn cố định bằng cách sử dụng dữ liệu bảng không cân bằng từ 25 nền
kinh tế chuyển đổi, giai đoạn 1989 - 2000. Kết quả cho thấy khi FDI tăng 1% sẽ làm
tăng 0,7% tổng vốn cố định, trong khi một phần trăm tăng vốn hoá thị trường vốn, kết
quả tín dụng trong nước tăng 0,2 phần trăm hoặc ít hơn 0,1 phần trăm, tương ứng, tăng
hình thành tổng vốn cố định. Ông kết luận rằng vốn FDI, tín dụng trong nước và thị
trường vốn trong nước là tất cả các nguồn tài chính quan trọng để hình thành vốn. Ngoài
ra, FDI có tác động đáng kể trong quá trình hình thành vốn của nước chủ nhà hơn là tín
dụng tài chính trong nước và thị trường vốn.
Agosin và Maver (2000) đặt câu hỏi liệu FDI vào các nước đang phát triển sẽ
thúc đẩy hay kìm hãm sự hình thành nguồn vốn đầu tư trong nước. Họ phát triển một


9
mô hình lý thuyết đầu tư trong đó có biến vốn FDI và sau đó kiểm định nó với các bảng
dữ liệu từ 32 quốc gia của ba khu vực đang phát triển (Châu Phi, Châu Á và Mỹ Latinh).
Các số liệu của giai đoạn 1970 - 1996 và hai giai đoạn ngắn là 1976 - 1985 và 1986 1999. Kết quả cho thấy rằng ở châu Á, nguồn vốn FDI đã có tác động mạnh mẽ đến đầu
tư trong nước. Tuy nhiên, nguồn vốn này lại làm ảnh hưởng tiêu cực tới đầu tư trong

nước ở châu Mỹ Latinh trong toàn bộ thời kỳ 1970 - 1996, cũng như trong cả hai giai
đoạn ngắn. Khi tỷ lệ FDI/GDP tăng một điểm phần trăm sẽ làm cho tỷ lệ đầu tư trong
nước/GDP giảm 0,14 điểm phần trăm (giai đoạn 1970 - 1996) và 1,22 điểm phần trăm
(giai đoạn 1976 - 1985).
Razin (2002) sử dụng phương pháp kinh tế lượng để đánh giá sự tác động của FDI
đến đầu tư trong nước. Mẫu nghiên cứu của ông bao gồm 64 nước đang phát triển, trong
khoảng thời gian 22 năm từ năm 1976 đến 1997. Tác giả thấy rằng, vốn FDI đóng vai trò
quan trọng đối với đầu tư trong nước và tăn g sản lượng đầu ra, hơn là các loại vốn khác,
chẳng hạn như các khoản vay quốc tế. Cụ thể, tỷ lệ FDI/GDP tăng lên 1% sẽ d ẫn đến tỷ lệ
đầu tư trong nước/ GDP tăng 0,94 điểm phần trăm, nếu sử dụng phương pháp hồi quy
OLS và 0,68 điểm phần trăm, nếu sử dụng ph ương pháp hồi quy TSLS.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu lại cho rằng vốn FDI không có tác động tích cực
đối với tiết kiệm và đầu tư trong nước. Buffie (1993), Feldstein và Horioka (1980),
Frankel et al (1986) đã cho rằng vốn FDI có thể không phải là một nguồn vốn quan
trọng cho các nước đang phát triển.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát
triển khoa học và công nghệ
Các lý thuyết tăng trưởng đã thừa nhận vai trò ngày càng quan trọng của công
nghệ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các kênh chuyển giao công nghệ và tầm
quan trọng của công nghệ đối với sự tăng trưởng đã thu hút một số lượng lớn các
nghiên cứu trong vài thập kỷ qua. FDI không chỉ được coi là một trong những kênh
trực tiếp, quan trọng nhất và rẻ nhất trong việc chuyển giao công nghệ, mà còn là một
kênh chuyển giao gián tiếp, thông qua tác động lan toả từ các nước phát triển sang các
nước đang phát triển. (Hirschman, 1963; Nelson và Phelps, 1966; Jovanovic và Rob,
1989; Segerstrom, 1991; Blomstrom và Wang, 1989). Điều này là do các công ty đa
quốc gia có lợi thế trong việc nắm bắt các công nghệ tiên tiến, bí quyết công nghệ và
kinh nghiệm quản lý mà chưa được phát triển ở các nước đang phát triển (Blomstrom
và Persson, 1983).
Cho đến nay, rất nhiều công trình nghiên cứu đã thực hiện nhằm đánh giá tác
động chuyển giao công nghệ và tác động lan toả của FDI. Hầu hết trong số họ đều dựa



10
trên số liệu cấp doanh nghiệp của một quốc gia đơn lẻ. Một số nghiên cứu có sử dụng số
liệu của một nhóm các quốc gia, nhưng cũng chỉ hồi quy cho từng quốc gia riêng biệt.
Bằng cách sử dụng hàm sản xuất, các tác giả đều có xu hướng trả lời hai câu hỏi then
chốt: (i) liệu rằng sự tham gia của vốn nước ngoài có tác động tích tới hiệu quả của
doanh nghiệp hay không? (ii) liệu các doanh nghiệp FDI có ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp trong cùng ngành trong nước hay không? FDI có tác
động lan toả đến các doanh nghiệp trong nước hay không? Nhìn chung các nghiên cứu
đều chỉ ra rằng FDI có tác dụng làm tăng năng suất la o động trong các DNTN. Điều này
một phần là do các công ty có vốn FDI có trình độ công nghệ cao hơn so với các đối tác
trong nước.
Sử dụng dữ liệu cấp công ty tại Inđônêxia năm 1991, Sjoholm và Blomstrom
(1999) thấy rằng năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cao hơn so
với các công ty 100% vốn trong nước. Họ cũng khẳng định, FDI đã có tác động lan toả
đến các công ty Indonesia. Tác động này đến từ việc gia tăng cạnh tranh. Tuy nhiên,
mức độ của tính tràn công nghệ lại không phụ thuộc vào mức độ tham gia của vốn
nước ngoài.
1.1.4. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với
thương mại quốc tế
Nhiều nghiên cứu thực nhiệm về FDI và thương mại đã tập trung vào câu hỏi liệu
FDI có khả năng kích thích hoặc thay thế cho thương mạ i hay không, thông qua việc sử
dụng mô hình hồi qui để để giải thích mối quan hệ giữa xuất khẩu và FDI và các biến
giải thích có liên quan khác. Kết quả định lượng mà họ thu được là rất khác nhau. Hầu
hết các nghiên cứu cho thấy FDI kích thích thương mại ( Amiti và Wakelin, 2003; Liu et
al, 2001), trong khi những người khác cho rằng không có mỗi quan hệ giữa FDI và
thương mại (Goldberg và Klein, 1997).
Goldberg và Klein (1997) sử dụng số liệu chéo để ước lượng mối quan hệ giữa
xuất khẩu, FDI và tỷ giá hối đo ái thực giữa nhóm bốn nước Đông Nam Á, ba nước Mỹ

Latinh, với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Những phát hiện của họ cho thấy FDI từ Hoa Kỳ và
Nhật Bản có ảnh hưởng một cách đáng kể đến nhập khẩu hàng hoá của các nước Đông
Nam Á. Tuy nhiên, trong khi vốn FDI từ Nhật Bản tăng nhập khẩu tại các quốc gia
Đông Nam Á, FDI từ Hoa Kỳ giảm nhập khẩu của các quốc gia từ cả Nhật Bản và Hoa
Kỳ. Ngược lại, FDI của Nhật và Hoa Kỳ vào các nước Mỹ Latin đều làm tăng nhập
khẩu của những nước này từ Hoa Kỳ và Nhật Bản. Kết quả của họ cũng chỉ ra rằng, FDI
từ Nhật Bản và Hoa Kỳ đã làm tăng xuất khẩu ở các nước Đông Nam Á sang Hoa Kỳ
và Nhật Bản. Tác động thúc đẩy thương mại của FDI Nhật Bản cũng được quan sát thấy


11
ở châu Mỹ Latinh. Ngược lại, không có sự gia tăng đáng kể trong xuất khẩu của Mỹ hay
Nhật Bản khi đầu tư trực tiếp của các nước này vào khu vực Đông Nam Á và các nước
Mỹ Latinh tăng lên.
Amiti và Wakelin (2003) cho rằng việc giảm chi phí đầu tư có thể kích thích các
loại hình FDI khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau, do đó, ảnh hưởng đến hoạt
động ngoại thương. Dựa trên mô hình lý thuyết của Markusen (1997, 2002), sử dụng số
liệu thương mại song phương của 36 quốc gia có chi phí ngoại thương nếu 2 nước có
trình độ của lực lượng lao động tương đương nhau và chi phí thương mạ i cao. Ví dụ,
năm 1994, tự do hoá đầu tư khuyến khích xuất khẩu trong 70% của các quan sát, và
trong 30% còn lại của tự do hoá đầu tư làm giảm xuất khẩu.
Liu et al (2001) xem xét mối quan hệ nhân quả giữa vốn FDI và thương mại tại
Trung Quốc dựa trên một bảng số liệu FDI từ 19 quốc gia khác nhau trong giai đoạn
1984 - 1998. Kết quả nghiên cứu cho thấy FDI vào Trung Quốc có tác dụng thúc đẩy
xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước chủ đầu tư. Họ cũng thấy rằng nhập khẩu của
Trung Quốc tăng lên cũng kéo theo s ự tăng lên trong FDI vào Trung Quốc từ các nước
xuất khẩu cho Trung Quốc.
Ngược lại, Zhang và Felmingham (2001) tìm thấy rằng có một mối quan hệ hai
chiều giữa FDI và xuất khẩu của Trung Quốc khi sử dụng số liệu cấp quốc gia hoặc cấp
tỉnh. Ở cấp độ quốc gi a, nghiên cứu của họ dựa trên chuỗi số liệu theo tháng trong giai

đoạn 1986 - 1999. Kết quả cho thấy có tồn tại mối quan hệ 2 chiều giữa tăng FDI và
tăng xuất khẩu của Trung Quốc. Có nghĩa là FDI là một nhân tố thúc đẩy xuất khẩu của
Trung Quốc, đồng thời tăng xuất khẩu khiến Trung Quốc thu hút được nhiều FDI hơn.
Fukao et al (2003) đã phân tích các thay đổi gần đây trong hoạt động thương mại
của các nước Đông Á và phân tích vai trò của FDI trong những thay đổi đó trong giai
đoạn 1988 - 2000. Phân tích của họ cho thấy rằng trao đổi thương mại giữa các doanh
nghiệp cùng ngành của các nước Đông Á đã tăng lên nhanh chóng trong thời gian
nghiên cứu. Đặc biệt là trong trường hợp ngành công nghiệp điện tử nói chung và ngành
công nghiệp máy móc chính xác nói riêng. Họ cũng thấy rằng vốn FDI có tác động rất
tích cực trong trao đổi thương mại trong ngành công nghiệp thiết bị điện. Cuối cùng, họ
kết luận rằng trong khu vực Đông Á, FDI đóng vai trò quan trọng trong sự gia tăng
nhanh chóng của trao đổi thương mại giữa cá c doanh nghiệp trong cùng ngành.
Aizenmen và Noy (2006) nghiên cứu mối quan hệ hai chiều giữa FDI và thương
mại của hai nhóm nước khác nhau: các nước phát triển và các nước đang phát triển. Họ
chỉ ra rằng mối quan hệ hai chiều giữa thương mại và FDI mạnh h ơn ở các nước đang


12
phát triển so với các nước phát triển. FDI thúc đẩy xuất khẩu mạnh hơn là xuất khẩu
hàng hoá.
1.1.5. Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với lao
động, việc làm và vốn con người
Rõ ràng, lao động là một yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. FDI góp
phần tăng trưởng kinh tế trực tiếp bằng cách tạo ra cơ hội việc làm; gián tiếp thông qua
việc tạo ra các cơ hội việc làm tại các tổ chức khác, trong đó có thể được nhà cung cấp
hoặc người tiêu dùng của các doan h nghiệp có vốn ĐTNN. Mặc dù một trong những
mục tiêu thu hút FDI của các nước đang phát triển là nhằm khắc phục tình trạng tỷ lệ
thất nghiệp và thiếu việc làm cao, song các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động
của FDI đối với tạo việc làm lại không đư ợc như mong đợi. Theo UNCTAD (1994), các
công ty đa quốc gia đã tạo ra khoảng 73 triệu việc làm trên toàn thế giới, trong đó hơn

60% việc làm được tạo ra từ các công ty mẹ và 40% là từ các chi nhánh tại nước ngoài.
Tuy nhiên, số việc làm mà các công ty đa quốc gia tạo ra chỉ chiếm 3% lực lượng lao
động của thế giới.
Slaughter (2002) đánh giá tác động của các công ty đa quốc gia đến cả cầu và
cung lao động có kỹ năng của thị trường lao động nước chủ nhà. Ông đã sử dụng một bộ
dữ liệu cho giai đoạn 1982 - 1990 của 7 ngành công nghiệp thuộc 16 nước phát triển và
đang phát triển để hồi qui mối quan hệ giữa tiền lương và sự hiện diện của các doanh
nghiệp nước ngoài . Kết quả cho thấy sự hiện diện của các công ty nước ngoài có tác
động tích cực đến việc nâng cao kỹ năng của người lao động.
Feenstra và Hanson (1995) sử dụng mô hình trao đổi thương mại Bắc -Nam và
mô hình đầu tư để kiểm tra tác động của FDI để nhu cầu lao động có tay nghề tại
Mexico trong giai đoạn 1975-1988. Kết quả cho thấy, tăng trưởng FDI làm tăng nhu cầu
đối với lao động có tay nghề cao. Tại các khu vực FDI tập trung nhiều, các công ty nước
ngoài chiếm trên 50% nhu cầu lao động kỹ thuật của thị trường. Tác giả cho rằng, kết
quả này phản ánh một thực tế là hầu hết các công ty nước ngoài sử dụng công nghệ đòi
hỏi người lao động phải có kỹ năng cao.
Zhao (2001) đưa ra giả thuyết rằng, trong một nền kinh tế đặc trưng bởi phân
khúc thị trường lao động và chi phí thay đổi việc làm cao thì FDI có thể làm tăng giá cả
của lao động có tay nghề cao. Sử dụng dữ liệu từ một cuộc khảo sát hộ gia đình đô thị ở
Trung Quốc năm 1996, ông ước lượng tiền lương tương đối của công nhân lành nghề
trong cả khu vực kinh tế nước ngoài (FIEs) và DNNN tại Trung Quốc. Những phát hiện
của ông chỉ ra rằng, những người có trình độ tay nghề thấp làm việc cho các công ty
nước ngoài có thu nhập thấp hơn so với làm việc cho các công ty nhà nước. Ông giải


13
thích rằng nền kinh tế Trung Quốc được đặc trưng bởi "nền kinh tế lưỡng thể", ở đó, lực
lượng lao động được tách ra thành khu vực kinh tế đặc quyền, bao gồm các DNNN và
phi nhà nước. Công nhân trong các DNNN được hưởng thu nhập cao hơn và được
hưởng các lợi ích đặc quyền khác như nhà ở, các khoản trợ cấp. Một số công nhân có

tay nghề thấp may mắn vào được công ty nhà nước, có hợp đồng dà i hạn với công ty
nhà nước thì được hưởng đặc quyền. Số còn lại phải làm việc cho khu vực kinh tế phi
nhà nước không có đặc quyền nên phải chấp nhận mức lương thấp hơn.
Lipsey và Sjoholm (2004) xem xét tác động của FDI vào vốn con người của các
nước chủ nhà bằng cách kiểm định sự khác biệt trong mức lương giữa các công ty trong
nước và công ty nước ngoài ở Indonesia. Họ thấy rằng mức lương trung bình tại công ty
nước ngoài cao hơn các công ty tư nhân trong nước khoảng 50%. Ngoài ra, nếu tính cả
hình thức trợ cấp như tiền thưởng, quà tặng, an sinh xã hội, bảo hiểm và lương hưu thì các
doanh nghiệp nước ngoài phải trả lương cao hơn khoảng 60% so với doanh nghiệp tư
nhân sở hữu vốn trong nước. Tuy nhiên, sự khác biệt về mức lương một phần là vì các
công ty nước ngoài ở Indonesia sử dụng công nhân có trình độ tay nghề cao hơn.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ
CỦA CÁC TÁC GIẢ TRONG NƯỚC

1.2.1. Tình hình nghiên cứu về tác động của FDI đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế
Có thể khẳng định, các công trình nghiên cứu về FDI ở Việt Nam rất phong phú
và đa dạng từ những vấn đề về nguồn gốc của FDI, các nhân tố tác động đến lưu chuyển
FDI, các hình thức FDI, hiệu quả thu hút và quản lý FDI, những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của FDI đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế,... Khi nghiên cứu mối quan hệ
giữa FDI với các vấn đề kinh tế, nhiều học giả trong nước đã khẳng định FDI có tác
động đến nền kinh tế trên nhiều mặt . FDI không chỉ bù đắp sự thiếu hụt về vốn đầu tư,
mà còn có ý nghĩa quan trọng trong đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, thúc
đẩy hoạt động marketing, tăng khả năng sản xuất hàng xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu
tư... Mặc dù vậy, những nghiên cứu về tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế, phát
triển khoa học công nghệ và hiện nay, những tác động tiêu cực của FDI đến vấn đề
chuyển giá được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nhiều nhất.
- Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến
tăng trưởng kinh tế

Nguyễn Thị Phương Hoa (2001) và Nguyễn Mại (2003) đã nghiên cứu tổng quát
hoạt động FDI ở Việt Nam đến 2002 và đều đi đến kết luận rằng FDI có tác động tích


14
cực đến tăng trưởng kinh tế thông qua kênh đầu tư và cải thiện nguồn nhân lực. Tác
động của FDI cũng xuất hiện ở ngành công nghiệp chế biến nhờ di chuyển lao động và
áp lực cạnh tranh. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hường và Bùi Huy Nhượng (2003), rút
ra một số bài học cho Việt Nam bằng cách so sánh chính sách thu hút FDI ở Trung
Quốc và Việt Nam trong thời kỳ 1979 - 2002.
Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phúc (2003) phân tích đánh giá thực trạng của FDI ở
Việt Nam, thời kỳ 1988 - 2003 và cũng khẳng định tăng trưởng kinh tế ở nước ta phụ
thuộc nhiều vào khu vực có vốn ĐTNN, trong đó có FDI.
Nguyễn Thị Phương Hoa (2004) đã sử dụng cả hai phương pháp định tính và
định lượng để đánh giá tác động của FDI đến tăng trưởng kinh tế của của các tỉnh và
mối quan hệ giữa FDI với xoá đói, giảm nghèo. Kết quả cho thấy, FDI có tác động tích
cực đến tăng trưởng kinh tế và góp phần vào xoá đói giảm nghèo ở một số địa phương.
Lê Xuân Bá (2006) đã kết hợp cả ba phương pháp nghiên cứu là phân tích định
tính qua số liệu thống kê; điều tra bằng bảng hỏi và phân tích định lượng nhằm đánh giá
tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế nước ta thông qua hai kênh quan trọng là vốn
đầu tư và tác động tràn. Nhưng phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở ngành công nghiệp
chế biến với ba nhóm ngành là: ngành dệt may, chế biến thực phẩm và cơ khí điện tử.
Đây là ba nhóm ngành có vai trò chủ đạo trong ngành chế biến của Việt Nam và cũng là
những ngành thu hút nhiều FDI trong những năm vừa qua. Kết quả cho thấy, FDI có tác
động tích cực, thúc đẩy tăng trưởng của nhóm ngành này.
Vũ Văn Hưởng (2007) đã sử dụng mô hình kinh tế lượng để đánh g iá tác động
của FDI đến GDP bình quân đầu người và tác động của FDI đến xuất khẩu. Công trình
đã đưa ra kết luận rằng, tỷ lệ vốn FDI trên tổng số vốn đầu tư toàn xã hội có tác động
tích cực đến GDP trên đầu người và vốn FDI cũng tác động tích cực đến hoạt động xuất
khẩu ở nước ta.

Trần Minh Tuấn (2010) thừa nhận tính hai mặt của FDI đối với phát triển kinh tế
nước ta trong những năm qua và cho rằng: một mặt, FDI có đóng góp quan trọng cho
tăng trưởng kinh tế, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tă ng vốn đầu tư, tăng
thu ngân sách nhà nước; nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, tăng kim ngạch xuất
khẩu; tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thúc đẩy chuyển giao công
nghệ. Bên cạnh đó, FDI cũng gây ra không ít tác động tiêu cực cho nền kinh tế như: hiện
tượng chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI; nhiều doanh nghiệp có vốn ĐTNN
không thực hiện cam kết xuất khẩu hàng hoá, chuyển sang tiêu thụ nội địa, dẫn đến tình
trạng thâm hụt thương mại; nhiều dự án FDI có trình độ công nghệ trung bình thậm chí


15
thấp, nên không thực hiện được mục tiêu chuyển giao công nghệ và FDI đang có nguy
cơ làm trầm trọng hơn tình trạng ô nhiễm môi trường.
Nguyễn Phú Tụ và Huỳnh Công Minh (2010) đã kiểm định mối quan hệ hai
chiều giữa vốn FDI và tăng trưởng kinh tế tại 64 tỉnh, thành phố Việt Nam với nguồn dữ
liệu chéo, với các biến được lấy giá trị trung bình từ năm 2003 - 2007. Mối quan hệ này
được kiểm định thông qua ước lượng một mô hình kinh tế lượng đồng thời gồm hai
phương trình tăng trưởng kinh tế và vốn FDI, với việc sử dụng đồng thời cả ba phương
pháp là OLS, TSLS và GMM. Kết quả ước lượng đã cho thấy, trong giai đoạn 2003 2007, FDI và tăng trưởng kinh tế tại 64 tỉnh, thành phố trong cả nước có mối quan hệ
hai chiều tích cực. FDI tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế tại 64 tỉnh, thành cả
nước và tăng trưởng kinh tế cao tại 64 tỉnh, thành là dấu hiệu tích cực để thu hút các nhà
đầu tư đến Việt Nam. Tuy nhiên, tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc
vào khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Dự a trên kết quả thu được, các tác giả cho rằng để
nâng cao năng lực thu hút FDI, Chính phủ cùng với các Bộ, ngành có liên quan cần tiếp
tục theo đuổi chính sách đổi mới, cải thiện môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý,
tạo môi trường đầu tư lành mạnh nh ằm tạo sức hấp dẫn cho môi trường đầu tư Việt Nam
trước làn sóng cạnh tranh thu hút FDI của các quốc gia thời hậu khủng hoảng.
Đỗ Đức Bình (2010) thông qua việc phân tích thực trạng FDI của Việt Nam
trong 3 năm (2007 - 2009), đã đưa ra những đề xuất nhằm t ái cơ cấu ĐTNN tại Việt

Nam trong những năm tới. Theo tác giả, cơ cấu FDI tại Việt Nam phải phù hợp với sự
phát triển nhằm hạn chế các ngành khai thác tài nguyên, đặc biệt là những loại tài
nguyên không thể tái tạo được; cần hướng mạnh FDI vào lĩnh vực nôn g nghiệp; thu hút
FDI phải gắn với hiệu quả FDI, gắn với bảo vệ môi trường; tái cơ cấu FDI phải gắn với
yêu cầu nâng cao mức độ tham gia và hiệu quả tham gia của Việt Nam vào mạng lưới
sản xuất, phân phối và giá trị toàn cầu; tái cơ cấu FDI phải gắn với vi ệc điều chỉnh quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
Các nghiên cứu trong nước viết về FDI và tác động của nó đến tăng trưởng kinh
tế rất nhiều, song hầu hết đánh giá FDI có tác động tích cực, số khác lại cho rằng, FDI
có tác động đến tăng trưởng kinh tế và các vấn đề xã hội, môi trường, nhưng phải có
điều kiện. Chúng tôi chưa tiếp xúc được công trình nào ở Việt Nam khẳng định, FDI
không có tác động tích cực nào đến tăng trưởng kinh tế. Phần lớn các công trình nghiên
cứu ở nước ta đều khẳng định mặ t tích cực của FDI đến tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội, song cũng nêu mặt trái của FDI tác động tiêu cực đến nền kinh tế, nhưng đều lý
giải là do yếu kém trong quản lý của Nhà nước, các Bộ, ngành và chính quyền địa
phương, chứ không cho là do bản chất của FDI gây ra.


16
- Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển
khoa học và công nghệ
Nguyễn Trọng Xuân, Nguyễn Xuân Thắng (2001) phân tích FDI vào ngành điện
tử tin học, viễn thông Việt Nam giai đoạn 1995 - 1999 và cho rằng tuy chỉ chiếm tỷ
trọng rất thấp so với toàn bộ FDI vào Việt Nam, nhưng đây lại là những lĩnh vực mà
Việt Nam có tiến độ thực hiện nhanh và sớm phát huy hiệu quả, thực hiện tốt mục tiêu
"thu hút công nghệ mới, tiên tiến..." của các dự án FDI. Công nghệ sử dụng trong các
doanh nghiệp FDI thuộc ngành công nghiệp điện tử, tin học phổ biến là công nghệ tiên
tiến. Chính điều này đã tạo ra tiền đề cần thiết cho việc thực hiện CNH, HĐH của Việt
Nam trong những năm qua. Tuy nhiên, bài viết cũng cho rằng FDI vào ngành công
nghiệp điện tử, tin học chỉ có thể tăng lên khi bản thân lĩnh vực này có được một tiềm
năng hay trình độ phát triển nhất định để tạo ra những tiền đề, cơ sở đảm bảo cho sự

phát triển có hiệu quả.
Nguyễn Khắc Minh và Nguyễn Việt Hùng (2008) sử dụng cơ sở số liệu hỗn hợp
của ngành chế tác Việt Nam trong thời kỳ 2000 - 2005 với mẫu quan sát là 31.509
doanh nghiệp và sử dụng cách tiếp cận bán tham số để xem xét ảnh hưởng của FDI đến
tăng trưởng năng suất của ngành chế tác Việt Nam. Kết quả ước lượng ch o thấy những
thay đổi trong yếu tố đầu vào cũng như phần chia vốn của các công ty FDI có ảnh
hưởng tích cực đến các doanh nghiệp nội địa và phần chia vốn của các doanh nghiệp
này có quan hệ cùng chiều với tốc độ tăng trưởng sản lượng, điều đó có nghĩa là m ức độ
cạnh tranh trong ngành chế tác Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng, nếu vốn FDI ở các
doanh nghiệp FDI tăng. Đây chính là thách thức cho các doanh nghiệp nội địa ngành
chế tác Việt Nam.
Lê Quốc Hội (2008) sử dụng mô hình phân tích định lượng của Blomstrom và
Sjoholm bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS) để kiểm định sự lan toả công
nghệ từ FDI ở ngành công nghiệp chế biến Việt Nam. Kết quả ước lượng cho thấy sự
tham gia của các doanh nghiệp FDI có tác động tích cực, lan toả công nghệ theo chiều
dọc tới các doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp chế biến Việt Nam. Điều này
có nghĩa rằng DNTN nào có càng nhiều mối quan hệ với các doanh nghiệp FDI thông
qua cung cấp sản phẩm đầu vào hoặc trao đổi lao động thì doanh nghiệp đó thu được
lợi ích nhiều hơn từ sự lan toả công nghệ. Tuy nhiên, kết quả ước lượng lại cho thấy
không có tác động của lan toả công nghệ theo chiều ngang, mà ngược lại, sự có mặt
của doanh nghiệp FDI lại gây tác động tiêu cực tới DNTN trong cùng một ngành. Như
vậy, có sự lan toả công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và DNTN ở các ngành công
nghiệp chế biến Việt Nam thông qua kênh kết hợp và liên kết sản xuất giữa hai doanh


17
nghiệp này. Và, mức độ của sự lan toả công nghệ còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ
công nghệ của các DNTN.
Nghiên cứu của Nguyễn Quang Hồng (2009) cho rằng đóng góp lớn nhất của
FDI đối với các quốc gia đang phát triển, bởi công nghệ và kỹ năng quản lý hiện đại

không chỉ nằm lại trong các doanh nghiệp FDI mà còn có tác động lan toả sang các
doanh nghiệp nội địa thông qua chu yển giao công nghệ, thông qua quá trình di chuyển
lao động giữa hai khu vực, quá trình cạnh tranh, học hỏi và đặc biệt là thông qua quá
trình liên kết sản xuất công nghiệp phụ trợ. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam những năm
qua, mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp nội địa thông qua các
kênh kể trên chưa được như mong đợi.
Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam trong hơn 10 năm qua, mặc dầu đã đạt
được một số thành tựu tích cực, song nhìn chung vẫn chưa được như mong muốn, hầu
hết các ngành có phát triển công nghiệp phụ trợ thì tỷ lệ nội địa hoá cứng ở mức thấp,
ngoại trừ ngành lắp ráp xe máy (cung cấp khoảng 70% nhu cầu phụ tùng cho các doanh
nghiệp lắp ráp) .
- Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề
chuyển g iá trong các doanh nghiệp FDI
Hiện tượng chuyển giá hiện đang diễn ra khá phổ biến trong bối cảnh cuộc cạnh
tranh trong kinh doanh ngày càng trở nên gay gắt. Vấn đề chuyển giá cũng đang là nội
dung thu hút nhiều sự quan tâm của dư l uận, của các chuyên gia kinh tế ...
Các bài viết tiêu biểu cho vấn đề này có thể kể đến như: Nguyễn Văn Phụng,
Chống chuyển giá: Thực trạng và những vấn đề đặt ra; Đặng Thị Hàn Ni, Thủ thuật
chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI tại TP.Hồ Chí Minh; Nguyễn Việt Hòa, Một
số điểm cần bàn về chống chuyển giá; Dương Thị Nhi, Chống chuyển giá: Bài toán khó
giải; Lê Xuân Trường, Chống chuyển giá ở Việt Nam: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp
lý và các điều kiện thực hiện; Phạm Tiến Đạt, Giải pháp chống chuyển giá trong doanh
nghiệp FDI; Nguyễn Trọng Thoan, Kinh nghiệm chống chuyển giá trong các doanh
nghiệp FDI của Cục Thuế Lâm Đồng;... Tạp chí Tài chính, số tháng 5/2011. Vũ Đình
Ánh (2012), Chống chuyển giá và một số vấn đề tài chính liên quan đến FDI, Tạp chí
Kinh tế và Dự báo, (517); Nguyễn Đình Tài (2013), Chống chuyển giá đối với các
doanh nghiệp FDI, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (541).
Có thể nói, hầu hết các bài viết trên đây đều cho rằng h ành vi chuyển giá trong
các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp FDI nói riêng là do xuất phát từ động cơ
tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp; quyền tự do quyết định giá trong các giao dịch

của các doanh nghiệp; sự khác biệt về môi trường đầu tư, kinh doanh; sự khác biệt về


18
chính sách, pháp luật, thể chế giữa các quốc gia,... Cách thức hay thủ thuật chuyển giá
điển hình của các doanh nghiệp FDI là: (i) chuyển giá nhờ bóp méo giá đầu vào bằng
cách nâng các chi phí yếu tố đầu vào như tiền lương, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố
định, lãi tiền vay, giá nhiên nguyên vật li ệu, chi phí bán hàng, quảng cáo... để giảm số
thuế phải nộp, thậm chí gây ra tình trạng “lỗ giả, lãi thật”, không phải thực hiện nghĩa vụ
thuế; (ii) chuyển giá nhờ bóp méo đầu ra bằng cách bán sản phẩm, dịch vụ cho doanh
nghiệp cùng nhóm lợi ích với giá thấp hơn thị trường, thậm chí nhiều trường hợp bán
dưới giá thành khi doanh nghiệp mua sản phẩm, dịch vụ được hưởng chính sách ưu đãi
về thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hành vi chuyển giá trong hoạt động của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam gây
tác động xấu về nhiều mặt. Chuyển giá gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước, làm
méo mó môi trường kinh doanh, gây bất lợi cho các doanh nghiệp 100% vốn trong
nước, thậm chí thôn tính các doanh nghiệp trong nước. Chuyển giá còn làm suy giảm
hiệu lực quản lý nhà nước và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập
siêu tăng cao do số lượng ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên vật liệu luôn lớn hơn số
ngoại tệ thu về khi xuất khẩu sản phẩm, vì giá bán ra thấp hơn giá đầu vào. Vấn đề nhức
nhối và cũng là thách thức lớn đặt ra trong công tác quản lý nhà nước là làm thế nào để
kiểm soát và hạn chế hiện tượng chuyển giá và trốn thuế của các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam.
- Những công trình nghiên cứu về đầu tư trực tiếp nước ngoài với lao động,
việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Tác giả Phan Minh Ngọc, cho rằng có sự khác biệt giữa mức lương và các loại
chi phí khác, trả cho công nhân ở các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp tư nhân. Tác
giả giải thích lý do vì sao các doanh nghiệp FDI trả lương cao hơn các doanh nghiệp
trong nước. Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI thường sử dụng công nghệ hiện đại hơn và
tuyển dụng lao động lành nghề hơn so với các DNTN. Do đó, tiền lương phải trả cho

công nhân trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn các DNTN khác. Thứ hai , các
doanh nghiệp FDI buộc phải trả một mức lương cao hơn tương đối nhằm hạn chế tình
trạng bỏ việc của người lao động. Mức chênh lệch này đôi khi là cao hơn mức cần có,
nếu xét đơn thuần đến chất lượng lao động. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI buộc phải
trả lương tối thiểu cao hơn do quy định củ a pháp luật nước sở tại. Thứ ba, do các doanh
nghiệp FDI có những đặc tính khác biệt với các DNTN mà nhờ đó, họ có khả năng đem
vốn đầu tư vào sản xuất và kinh doanh một cách có lãi hơn.
Cũng theo tác giả Phan Minh Ngọc, một mặt, FDI tạo ra nhiều cơ hội vi ệc làm
hơn (cả việc làm trực tiếp và việc làm gián tiếp) cho lực lượng lao động dư thừa tại khu


×