Tải bản đầy đủ (.pdf) (161 trang)

Báo chí với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ( khảo sát báo đầu tư, báo tuổi trẻ TPHCM, thời báo kinh tế sài gòn, tạp chí tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.79 MB, 161 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

HÀ KHẮC MINH

BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
(Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp,
từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------

HÀ KHẮC MINH

BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC
(Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM,
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp,
từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013)

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học


Mã số: 60.32.01.01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Tuấn

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu. Các số liệu
trong luận văn rõ ràng và trung thực, các kết luận của luận văn này chưa từng
được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2015
TÁC GIẢ

Hà Khắc Minh


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Anh Tuấn đã tư vấn, hướng dẫn tôi lựa
chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này. Đây là một đề tài khó, còn nhiều quan
điểm khác nhau nhưng mang tính ứng dụng thực tiễn cao đối với công việc của bản
thân. Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học, song
được sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Anh Tuấn, tôi đã có phương pháp tiếp
cận, nghiên cứu và thực hiện đề tài một cách hiệu quả.
Xin gửi lời tri ân đến các thầy, cô giáo tại Khoa Báo chí - Truyền thông,
Phòng Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung
cấp cho tôi những kiến thức cơ bản, để bổ sung, hoàn thiện hơn cơ sở lý luận báo
chí của mình đang khuyết thiếu, giúp tôi vững vàng hơn về nghiệp vụ, quan trọng
hơn là bước đầu hình thành tư duy và kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Xin được gửi lời cảm ơn đến các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà

nước, lãnh đạo báo, các đồng nghiệp đã dành thời gian trao đổi, cung cấp nhiều
thông tin quý báu giúp tôi trong quá trình viết luận văn.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và bạn bè
đã luôn ủng hộ, động viên, là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với tái cơ
cấu DNNN ...................................................................................................... 12
1.1. Báo chí, thông tin báo chí và giám sát phản biện của báo chí
trong sự phát triển kinh tế - xã hội ................................................................. 12
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tái cơ cấu DNNN......................... ... 20
1.3. Vai trò của báo chí với tái cơ cấu DNNN………….. .............................. 30
Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................... 36
Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về tái cơ cấu DNNN ................. 37
2.1. Thực trạng thông tin về tái cơ cấu DNNN trên 4 tờ báo ......................... 37
2.2. Thực trạng nội dung thông tin ................................................................. 40
2.3. Thực trạng hình thức thông tin................................................................. 52
Tiểu kết chương 2....................................................................................... ... 71
Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng chất lƣợng thông tin về tái
cơ cấu DNNN ................................................................................................ 72
3.1. Đánh giá ưu, nhược điểm công tác thông tin tái cơ cấu DNNN .............. 72
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế………………………………...…... ... 85
3.3. Đề xuất một số giải pháp .......................................................................... 91
Tiểu kết chương 3......................................................................................... 109
KẾT LUẬN.................................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 112
PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Báo Đầu tư

: BĐT

Báo Tuổi trẻ

: BTT

Cổ phần hóa

: CPH

Doanh nghiệp

: DN

Doanh nghiệp nhà nước

: DNNN

Đại học Quốc gia Hà Nội

: ĐHQGHN

Hỗ trợ phát triển chính thức

: ODA


Phản biện xã hội

: PBXH

Tạp chí Tài chính doanh nghiệp

: TCTCDN

Tập đoàn kinh tế

: TĐKT

Tổng công ty

: TCT

Thời báo Kinh tế Sài Gòn

: TBKTSG

Tổng sản phẩm quốc nội

: GDP


MỞ ĐẦU
1 - Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta
là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò

chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế”.
Việc đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước không thể không bao gồm đổi mới
các DNNN – nòng cốt của kinh tế nhà nước TĐKT, TCT.
Nhìn tổng thể, vai trò của DNNN nói chung, các TĐKT, TCT nhà nước nói
riêng trong thời gian qua là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Các DNNN đã bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá
và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, các DNNN vẫn duy trì được hoạt động và có đóng góp quan
trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nhiều lĩnh
vực nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội.
Tuy vậy, DNNN còn nhiều yếu kém và bất cập.
Một là, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp mặc dù có
nhiều lợi thế về nguồn lực. DNNN chiếm khoảng 40% vốn đầu tư toàn xã hội, 50%
vốn đầu tư nhà nước, 70% nguồn vốn ODA và được hưởng nhiều đặc quyền khác.
Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực này còn thấp, chưa tương
xứng với những gì được đầu tư. Năm 2011, đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế
nhà nước chỉ đạt 33,03% trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp tới
48%. Bên cạnh đó, việc giám sát nguồn vốn nhà nước, quản trị DN bị buông lỏng
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm lãng phí, thất thoát vốn của Nhà nước.
Bên cạnh đó, theo số liệu của Bộ Tài chính tính đến cuối năm 2011, tổng số lỗ lũy
kế của riêng các tập đoàn lớn đã lên tới hơn 26.000 tỷ đồng, cao gấp 12 lần so với
các DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong số đó có tới gần

1


1/3 Tập đoàn, Tổng Công ty có tỷ lệ nợ phải trả cao gấp 3 lần vốn chủ sở hữu. Cũng
theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng dư nợ cho vay DNNN lên trên 415 nghìn tỷ

đồng, trong đó tổng nợ của 12 tập đoàn kinh tế lớn đã chiếm đến 52,66%. Trong 10
năm qua, tỷ suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào
vượt quá 6%, trong khi các DN FDI luôn duy trì ở mức trên dưới 10%.
Hai là, thực trạng tài chính tại một số DNNN rất yếu kém, thua lỗ kéo dài,
tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính. Việc thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô
của Nhà nước đối với kinh tế của các DNNN còn hạn chế. Nhiều DNNN chưa bắt
kịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường; năng lực, hiệu lực, hiệu quả
quản trị DN còn yếu kém, bất cập. Các công ty nông nghiệp, lâm nghiệp (nông, lâm
trường quốc doanh) còn chậm được sắp xếp, đổi mới; và hoạt động của một bộ phận
DNNN đã góp phần dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô.
Những con số trên do bắt nguồn từ mô hình phát triển kinh tế chung, DNNN
nhất là các TĐKT, TCT nhà nước đã quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư, chưa chú
trọng phát triển theo chiều sâu nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm và của từng
TĐKT, TCT, DNNN còn bất cập và yếu kém. Việc thực hiện sắp xếp, CPH DNNN
còn chậm so với phương án được duyệt. Một nguyên nhân nữa là tình trạng nhiều
TĐKT, TCT nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ
thuộc nhiều vào vốn vay hoặc chiếm dụng; tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị
trường trong một số lĩnh vực làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển.
Ngoài ra, cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa theo kịp với thực tiễn
hoạt động của các TĐKT, TCT; sự hạn chế trong phối hợp giữa các Bộ, Ngành
trong quản lý, giám sát DNNN nhất là TĐKT, TCT nhà nước; sự bất cập về mô
hình, thể chế quản trị, đội ngũ cán bộ quản lý DN và quản lý nhà nước cũng là
những nguyên nhân chủ quan gây ra sự yếu kém của khu vực DNNN. Hậu quả là đã
có sự đổ vỡ mà tiêu biểu là Tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin),
Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines).

2



Từ những điểm nêu trên, có thể thấy rõ, việc TCC DNNN là yêu cầu cấp thiết,
được xác định là một trong ba nội dung quan trọng của TCC toàn bộ nền kinh tế
(cùng với TCC đầu tư công, TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng).
Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) tiếp tục khẳng định DNNN là
lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, lực lượng vật chất quan trọng, công cụ hỗ
trợ để điều tiết nền kinh tế, hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Vì thế,
nhìn rõ những yếu kém, sai lầm, đề ra các phương thức nâng cao tính hiệu quả của
DNNN là yêu cầu tất yếu, có tính mấu chốt trong quá trình TCC kinh tế hiện nay.
Do TCC DNNN có vai trò to lớn như vậy, nên việc tuyên truyền về TCC
DNNN làm sao cho hiệu quả là vô cùng quan trọng. Trong đề án TCC DNNN,
Chính phủ nêu rõ: Bộ Thông Tin Truyền thông phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương, các TĐKT, TCT nhà nước tổ chức thực hiện việc thông tin, tuyên truyền
về TCC DNNN theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Việc tuyên
truyền đúng góp phần đả thông tư tưởng người quản lý, tạo sự ủng hộ của cán bộ
nhân viên trong DN, sự ủng hộ của toàn dân, những người được xem là cổ đông của
DNNN (vốn toàn dân, sở hữu toàn dân)...
Báo chí cách mạng với vai trò sứ mệnh của mình đã nhập cuộc tuyên truyền,
thông tin về TCC DNNN khá đậm nét với tần suất khá cao, hình thức phong phú, đa
dạng. Từ việc phản ánh những bất cập của cơ chế chính sách đến sai phạm trong
quản lý, yếu kém trong điều hành... báo chí còn phản ánh tâm tư nguyện vọng của
người dân, chuyên gia, và sức ép của các nhà tài trợ quốc tế. Bức tranh về TCC
DNNN trên báo chí đã trở nên đa sắc màu và sát với chủ trương đường lối của
Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, điều hành về lĩnh vực DNNN vốn là lĩnh vực khó,
nhạy cảm, nên có những vấn đề còn nhiều ý kiến trái chiều, nhiều quan điểm khác
nhau cần được cân nhắc kỹ lưỡng để hài hòa lợi ích kinh tế và yếu tố an ninh quốc
phòng và an sinh xã hội. Có những thông tin cũng đã thấp thoáng việc đòi hỏi thái
quá về TCC không đúng chủ trương là “TCC để gọn, nhưng vẫn mạnh, DNNN vẫn
phải là nòng cốt của nền kinh tế”. Theo đó, có ý kiến đòi tư nhân hóa tất tần tật...

3



Với những lý do đó, bản thân chọn nghiên cứu đề tài “Báo chí với quá trình
TCC DNNN” với mong muốn có cái nhìn khái quát, tổng thể thông qua sự khảo sát,
so sánh đối chiếu giữa các tờ báo, giữa các cách thể hiện, giữa thực tế và chủ
trương... Việc nghiên cứu bao gồm cả việc nhận xét đánh giá và đưa ra khuyến nghị
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền chủ trương lớn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do chính sách TCC DNNN còn khá mới mẻ, được ban hành từ tháng 7/2012
nên đến nay, qua tìm hiểu của bản thân ở Khoa báo chí – Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân Văn (ĐHQG Hà Nội), Học viện Báo chí Tuyên truyền có một số công trình
nghiên cứu, các bài viết chuyên sâu các vấn đề liên quan đến vấn đề báo chí với
DNNN ở cấp khóa luận như:
- “Báo chí với công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Đậu Huy Sáu - năm 2004.
- “Báo chí với việc phát huy vài trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước”,
Nguyễn Thị Nguyệt Hà - năm 1998;
- “Báo chí với tiến trình đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước” của Lê Thị
Hải Lý - năm1998;
- “Những thuận lợi và khó khăn của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
trên báo chí”, Đặng Anh Tuấn – năm 2001;
- “Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước qua sự phản ánh của báo
chí” của Phạm Thu Hà – năm 2002;
- “Báo chí với việc tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước”, Lê Thị Ngọc Hà thực hiện - năm 2000;
- “Báo Nhân dân với việc tuyên truyền phát huy vài trò doanh nghiệp nhà
nước” của Nguyễn Thiện Kế - năm 2001.
- “Báo chí và doanh nghiệp: Gắn bó, hợp tác và chia sẻ”, bài báo khoa học
của TS Phạm Tất Thắng đăng ngày 21/10/2014 trên Tạp chí Cộng sản.
Các nghiên cứu này khá thành công trong việc khẳng định những đóng góp

của báo chí đối với nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về chính sách của Đảng, pháp

4


luật của Nhà nước về đổi mới phát triển DNNN ở thời điểm nghiên cứu. Tuy nhiên,
các nghiên cứu chỉ mới ở cấp khóa luận, nên chưa thực sự chuyên sâu. Việc đánh
giá nhận xét và đề xuất giải pháp chủ yếu dừng lại đối với báo in lúc bấy giờ, chưa
đặt trong môi trường truyền thông hội tụ và có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại
hình báo chí khác nhau, cũng như sự vào cuộc của mạng xã hội. Do hoàn cảnh khác
nhau nên việc đánh giá và kiến nghị giải pháp với các luận văn không còn phù hợp
với hoàn cảnh hiện tại.
Mặt khác, những khóa luận trên chủ yếu được thực hiện từ những năm 2003
về trước (khi Luật DNNN chưa ra đời, nay luật này đã hết hiệu lực tháng 7/2010).
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở các nghiên cứu trên là trong
giai đoạn thường xuyên, chưa phải đợt cao điểm, cấp bách, toàn diện như hiện nay
nhất là khi hàng loạt sai phạm, đổ vỡ của các DNNN thời gian qua…; Chủ trương
TCC DNNN còn nóng hổi, trở thành mối quan tâm của toàn dân và các nhà tài trợ
nước ngoài… Chủ trương này cần được theo dõi, giám sát, phản biện từng ngày,
từng giai đoạn và đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, xuất hiện một số
quan điểm trái chiều: đòi bán toàn bộ DNNN, không xem kinh tế nhà nước là chủ
đạo, vấn đề độc quyền nhà nước hay độc quyền DN…
Ở cấp luận văn, gần đây có 02 nghiên cứu:
- “Báo chí ngành tài chính với vấn đề TCC DNNN” – Đậu Huy Sáu (2013);
Đây là luận văn có đề tài gần nhất với đề tài của bản thân nhất. Nhưng do
nghiên cứu này được bảo vệ sau thời điểm bản thân được hội đồng thông qua quyết
định công nhận đề tài nghiên cứu nên thời điểm đó, bản thân không biết đã có
nghiên cứu về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, bản thân đã tìm được những
điểm khác biệt như sau:
Thứ nhất, về đối tượng khảo sát: Chỉ bị trùng 01 tờ TC TCDN. 03 tờ báo còn lại có

01 tờ chính trị - xã hội đại chúng hơn là tờ Tuổi trẻ TP HCM, nhằm tìm kiếm những
thông tin được “đại chúng hóa” một vấn đề vốn rất khô khan, vĩ mô, chuyên sâu..
mặt khác kỳ vọng vào tính chiến đấu của tờ báo này ở dạng phóng sự điều tra.
TBKTSG cũng chuyên sâu hơn về kinh tế và BĐT vốn có lợi thế hơn khi cơ quan

5


chủ quản – Bộ Kế hoạch Đầu tư được giao nhiệm vụ nghiên cứu Đề án TCC tổng
thể nền kinh tế (trong đó có TCC DNNN) và xây dựng nhiều cơ chế chính sách về
DNNN.
Thứ hai, về lý luận: Bản thân đã cắt nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn về các khái niệm
về TCC DNNN và bổ sung thêm phần giám sát, PBXH trên báo để làm cơ sở
nghiên cứu, đánh giá thông tin về lĩnh vực được xem là có nhiều lỗ hổng, dễ thất
thoát, sai phạm này.
Thứ ba, về kết quả nghiên cứu của đề tài, khi nghiên cứu đánh giá thông tin, bản
thân đi vào một số vấn đề nóng bỏng, vướng mắc nhất làm ảnh hưởng đến chất
lượng thông tin trên báo chí về TCC DNNN đó là: Thiếu thông tin (vốn được xem
là vấn đề cơ bản cốt lõi ảnh hưởng đến hoạt động của DNNN và khó khăn cho hoạt
động báo chí); Phản ánh mặt trái nhiều, mặt ưu điểm ít; Thông tin thể hiện sự nóng
vội thái quá, chệnh trọng tâm; thiếu thông tin hấp dẫn... Đây là những điều khác biệt
với luận văn của Đậu Huy Sáu.
- “Vấn đề TCC nền kinh tế trên báo chí kinh tế Việt Nam” - Lê Phương Vân
(năm 2014);
Luận văn này được bảo vệ khi công trình nghiên cứu của bản thân đã gần hoàn
thiện. Điểm khác biệt là: Vấn đề TCC nền kinh tế rộng hơn gồm: TCC Đầu tư công;
TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng; TCC DNNN. Do vậy, nghiên cứu này có
bề rộng hơn song thiếu chiều sơn so với luận văn tác giả. 03 vấn đề trong Đề án
TCC tổng thể nền kinh tế cũng có nhiều điểm khác nhau, do vậy nghiên cứu đánh
giá thông tin giữa hai luận văn cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu của Luận văn

này cũng chưa đề cập đến các vấn mà bản thân đã nêu ra ở trên là thiếu thông tin,
nóng vội chệch chuẩn; thiếu thông tin hấp dẫn và nêu ưu điểm quá ít so với nhược
điểm.
Như vậy, nghiên cứu của bản thân không bị trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu
nào ở Việt Nam đến thời điểm hiện tại.
Ngoài báo chí học, cũng có khá nhiều nghiên cứu dưới các góc độ kinh tế học:

6


- Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012, Từ bất ổn vĩ mô đến con đường TCC, Ủy ban
Kinh tế Quốc hội, Nxb Tri thức, 2012;
- Cuốn Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình TCC nền
kinh tế, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện KHXHVN, VCCI, UNDP, tháng 5/2012;
- Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tập đoàn kinh tế - Lý luận và thực tiễn” do Nhà
Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật tổ chức ngày 25/5/2009)”
- Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa Xuân, mùa Thu 2013, 2014, Ủy ban Kinh tế
Quốc hội…
Nghiên cứu của bản thân lần này cập nhật và đánh giá lại tất cả các vấn đề
nóng hổi mà báo chí nêu về TCC nền kinh tế nói chung và DNNN nói riêng; đặc
biệt trong thời gian gần đây có nhiều sự kiện chấn động toàn quốc đó là: Sau sự đổ
vỡ của Vinashin, Vinalines, báo chí đã đề cập đến hàng loạt vấn đề: Ai là ông chủ
thực sự của DNNN? Xảy ra sai phạm ai chịu trách nhiệm? Mô hình nào của DNNN
sắp tới là hiệu quả? DNNN có nên được tiếp tục xem là trọng điểm của nền kinh tế
của nền kinh tế quốc dân không?
3. Mục đích, nội dung nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài “Báo chí với quá trình
TCC DNNN” là nhận diện, phân tích, đánh giá bước đầu thực trạng thông tin, tuyên
truyền về hoạt động tái cấu trúc DNNN trên 4 tờ báo được khảo sát, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí nói chung và các tờ báo được

khảo sát nói riêng, góp phần thực hiện thành công tái cấu trúc DNNN theo tinh thần
Nghị Quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Chiến lược phát triển kinh tế
-xã hội 2011 -2020.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về TCC DNNN và vai trò, sứ mệnh
của báo chí đối với chủ trương và thực tiễn của hoạt động này.
Dựa trên khung lý thuyết tại nhiệm vụ nghiên cứu trên và tham vấn ý kiến các
nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, các phóng viên, biên tập viên theo dõi
mảng kinh tế nói chung và TCC DNNN nói riêng, tác giả phân tích, đánh giá thực

7


trạng về cách thức tổ chức thông tin, nội dung và hình thức thông tin vấn đề TCC
DNNN trên 4 tờ báo khảo sát.
Qua việc, phân tích, đánh giá trên, tác giả cũng đề xuất một số khuyến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền về triển khai
thực hiện TCC DNNN trên báo chí nói chung, các tờ báo được khảo sát nói riêng.
4 – Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Vấn đề TTC DNNN trên 04 tờ
báo: BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN.
- Phạm vi nghiên cứu là nội dung thông tin; cách thức tổ chức thông tin đăng
tải trên 4 tờ báo, tạp chí sau: BĐT (Bộ Kế hoạch Đầu tư), BTT TP Hồ Chí Minh
(Thành đoàn TP Hồ Chí Minh), TBKTSG (Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh),
TCTCDN (Cục Tài chính DN, Bộ Tài chính); Chỉ khảo sát báo in, ấn phẩm chính.
Việc lựa chọn 04 tờ báo này bởi: BĐT là tờ báo chuyên về kinh tế, thuộc bộ
kinh tế tổng hợp – Bộ Kế hoạch Đầu tư được Chính phủ ủy quyền xây dựng Đề án
tổng thể TCC toàn bộ nền kinh tế (Đề án TCC DNNN là một trong ba thành phần
của đề án này). Riêng với TCC DNNN, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng tham gia xây
dựng một số cơ chế chính sách, Quyết định, Nghị định cho Chính phủ. TCTCDN

thuộc Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) là nơi tác giả đang công tác, do vậy có điều
kiện hiểu sâu hơn về Tạp chí thuận lợi trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, Tạp chí
thuộc Cục Tài chính DN – Đơn vị được Bộ Tài chính giao chủ trì soạn thảo chính
Đề án TCC DNNN này và các cơ chế chính sách về lĩnh vực DNNN. Do vậy, Tạp
chí có thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn tin. BTT là tờ báo chính trị xã hội có uy
tín và tia ra hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Nhật báo này có thông tin thời sự nóng
hổi và được đánh giá dám nói những điều khó nói, đăng những bài phóng sự điều
tra về những sai phạm, thất thoát vốn… mà TCC DNNN và một trong những vấn đề
như thế. TBKTSG cũng là một tờ báo kinh tế ở phía nam được đánh giá có uy tín
cao trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh. Tờ báo kinh tế theo hướng thị trường này
gần đây có nhiều bài chuyên gia phân tích sâu sắc về lĩnh vực TCC DNNN.
Thời gian khảo sát: Từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2013

8


- Lý do lựa chọn: Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
929/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “TCC DNNN, trọng tâm là TĐKT, TCT nhà nước
giai đoạn 2011 -2015”. Từ đó đến nay việc nội dung thông tin báo chí tập trung vào
phán ánh, giám sát quá trình thực hiện và đề xuất giải pháp cụ thể.
5 –Phƣơng pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận:
Đề tài luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ
nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống lý luận báo chí truyền
thông; Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TCC DNNN; hệ thống văn
bản pháp luật, điều hành của Chính phủ, các bộ ngành trong việc triển khai thực
hiện TCC DNNN; định hướng và nội dung thông tin liên quan đến TCC DNNN trên
BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN từ tháng 8/2012 đến hết tháng 8/2013.
Phương pháp cụ thể:
+ Nghiên cứu, khảo cứu tài liệu: Để tìm hiểu các khái niệm về vấn đề nghiên

cứu trong luận văn và
+ Thống kê, phân tích tài liệu: Thống kê số lượng tin bài, hình họa, biểu đồ...
về TCC DNNN trên 04 báo được khảo sát. Việc thống kê được căn cứ trên cơ sở lý
thuyết về thể loại báo chí để phân chia hợp lý, tạo điều kiện cho việc khái quát hóa.
+ So sánh, đối chiếu: Từ thống kê ở trên, tác giả đã tiến hành so sánh, đối
chiếu số lượng, chất lượng thông tin TCC DNNN giữa báo này với báo khác, giữa
thể loại này với thế loại khác...
+ Phân tích, tổng hợp; nhận xét, đánh giá và khái quát vấn đề: Việc phân tích
được dựa vào những con số cụ thể từ đó đánh giá chất lượng thông tin, đánh giá
điểm mạnh, điểm yếu và khái quát hóa để luận văn mang tính tổng thể của vấn đề.
+ Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn chuyên gia, các nhà quản lý trong lĩnh vực kinh
tế - tài chính; các lãnh đạo báo, phóng viên, biên tập viên phụ trách lĩnh vực này. Cụ
thể, tác giả đã phỏng vấn: Ths Nguyễn Duy Long – Trưởng phòng Sắp xếp đổi mới
và Phát triển doanh nghiệp (Cục Tài chính doanh nghiệp- Bộ Tài chính), thành viên
ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; Ths Đặng Quyết Tiến – Phó Cục trưởng Cục Tài

9


chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), Kiêm tổng Biên tập Tạp chí Tài chính doanh
nghiệp, thành viên ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; ông Hoàng Tư Giang – Phóng
viên Thời báo Kinh tế Sài gòn; ông Bùi Đức Hải – Phó tổng Biên tập Báo Đầu tư;
Ths Tạ Thị Thu Hằng – Phóng viên Tạp chí Tài chính doanh nghiệp; Bà Lê Thanh –
Phóng viên báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh.
Tùy theo điều kiện khách quan, đề tài thực hiện phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp
(quan email, điện thoại).
6 – Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của báo chí đối với
việc triển khai thực hiện TCC DNNN hiện nay.

+ Khái quát lý luận về thông tin tuyên truyền TCC DNNN trên báo chí.
+ Cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho những người viết báo chuyên về lĩnh
vực kinh tế, tài chính, DN và những người làm quản lý các báo, chuyên mục kinh
tế- tài chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác định hướng dư luận, góp
sức vào thực hiện hiệu quả công tác TCC DNNN và đáp ứng nhu cầu của công
chúng.
+ Luận văn cũng góp phần làm giàu, phong phú và hoàn thiện thêm lý luận
báo chí truyền thông hiện đại (vai trò, chức năng, kinh tế báo chí truyền thông…).
- Ý nghĩa thực tiễn:
Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động truyền thông về TCC DNNN
trên các tờ báo được khảo sát. Do vậy luận văn có thể làm cẩm nang nghề nghiệp
cho sinh viên chuyên ngành báo chí học; tài liệu tham khảo cho các phóng viên,
biên tập viên, cơ quan báo chí khảo cứu cho việc hoạch định tổ chức thông tin báo
chí về công tác TCC DNNN. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu, khảo sát và
phân tích, tác giải đã đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên các cơ quan báo chí
khác.
7 – Kết cấu luận văn

10


Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3
chương như sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với TCC
DNNN
Nội dung chương này giải quyết các vấn đề lý luận về TCC DNNN nói chung,
một số quan điểm định hướng của Đảng, Nhà nước về vấn đề TCC DNNN và vai
trò của báo chí cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò của báo chí với
vấn đề TCC DNNN.

Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về TCC DNNN
Chương này trình bày toàn bộ số liệu khảo sát cũng như thuyết minh kết quả
khảo sát về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về TCC DNNN trên 04 tờ
báo được khảo sát. Đây là những dữ liệu quan trọng để đánh giá ưu nhược điểm và
tìm ra giải pháp cho vấn đề.
Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của báo chí về
TCC DNNN
Trên cơ sở dữ liệu ở chương 2, chương 3 đã tiến hành đánh giá điểm mạnh và
những điểm còn hạn chế của công tác thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên 04
báo. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin về
TCC DNNN thời gian tới.

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ VAI TRÒ BÁO CHÍ
VỚI TCC DNNN

11


1.1. Báo chí, thông tin báo chí và sự giám sát phản biện của báo chí trong
phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Khái niệm báo chí và thông tin báo chí
Theo giáo trình Cơ sở lý luận báo chí truyền thông của các tác giả: Dương
Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), báo chí là một bộ phận của truyền
thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trò nền tảng vào có
khả năng quyết định, tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác
động của truyền thông đại chúng. Báo chí là một hiện tượng đặc biệt phổ biến tác
động từng ngày, từng giờ vào xã hội. Quy mô phạm vi, hình thức hoạt động của báo
chí ngày càng mở rộng, thu hút sự quan tâm chú ý của đại bộ phận xã hội, trở thành
một phương tiện có sức mạnh được sử dụng vào các mục đích rất khác nhau như:

nhân đạo, kinh doanh, kinh tế, chính trị và quân sự, không có một đảng chính trị,
một tổ chức lực lượng kinh tế xã hội nào không sử dụng báo chí như một phương
tiện thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình.
Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt quan
trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và
môi trường truyền thông số hiện nay, báo chí và truyền thông nói chung có vai trò
đặc biệt quan trọng. Báo chí là loại hình hoạt động thông tin mang tính chính trị - xã
hội.
Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ tiếng Latinh informetio, gốc của từ
tiếng Anh information. Hai ông Philippe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách
“bùng nổ truyền thông” giải thích rằng: Khái niệm này có liên quan đến nét đặt
trưng Roma, biểu hiện sự mong muốn giảng dạy, truyền đạt. Nó có hai hướng
nghĩa: Thứ nhất là nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng “forme”,
thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai
hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự

12


truyền đạt kiến thức và truyền đạt, đây là tiêu biểu cho sự phát minh của tiếng
Latinh. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các
lĩnh vực khoa học, thuật ngữ “thông tin” cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử
dụng đến nó. Trong báo chí được dùng để nói về chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu
tả, câu chuyện kể, bằng chứng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại.
Trong lý luận báo chí, khái niệm “thông tin” cũng đang tồn tại hai cách hiểu:
Một là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai
là sự loan báo cho mọi người biết. Theo cách hiểu thứ nhất, thông tin thể hiện tính
chất khởi đầu, khởi điểm (tương tự với khái niệm hình tượng trong nghệ thuật, hàng
hóa trong kinh tế - chính trị…). Đây chính là đặc trưng cơ bản của báo chí nói

chung. Còn theo cách hiểu thứ hai là sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện có để
truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Như vậy, thì thông
tin cũng chính là chức năng của báo chí (theo nghĩa là sử dụng phương tiện kỹ thuật
để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo).
Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện
mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Nó
là “dụng cụ làm việc” của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ đó, những công việc
đa dạng và quan trọng được thực hiện. Có thể coi những công việc của báo chí như
một hệ thống xã hội đặc biệt.
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều cách sử dụng khác
nhau. Có trường hợp, các nhà báo sử dụng nó để biểu thị tính chất của các thông
báo ngắn, không kèm theo lời phân tích, bình luận về một sự kiện mới (như tin văn
hay tin ngắn). Trong trường hợp khác, nó được dùng để chỉ tất cả các thể loại được
dùng để ghi chép những sự kiện, hiện tượng mới như: tin tức, tường thuật, phỏng
vấn… Nhiều khi một tin ngắn cũng được gọi là “thông tin”.
Nhưng bất cứ tác phẩm báo chí nào (tin vắn, phim tài liệu, tin của đài phát
thanh…) cũng đều chứa đựng thông tin. Tóm lại, “thông tin” là cách gọi truyền

13


thống trong nghề báo, theo nghĩa chính xác nhất của từ này thì đó là “thông tin sự
kiện”. Ngoài ta, trên báo, trong chương trình phát thanh hay trên vô tuyến truyền
hình còn có “thông tin lý luận”, “thông tin giải thích”, “thông tin nghệ thuật”
v.v… [45]
Thuật ngữ “thông tin” còn có cách hiểu rộng hơn. Để hiểu thuật ngữ này một
cách đầy đủ, đòi hỏi phải xem xét từ sự ứng dụng riêng biệt. Chúng ta có thể gọi
“toàn bộ các tác phẩm”, hay “hệ thống những tin tức”… là thông tin. Như vậy, thuật
ngữ “thông tin” nhiều khi còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Khi xem xét khái
niệm thông tin trong hệ thống khái niệm của lí luận báo chí thì cách hiểu như vậy

không phù hợp, vì ý nghĩa riêng của thuật ngữ “thông tin” thường được sử dụng
theo thói quen hay theo kinh nghiệm. Ví dụ, khi nghe đài hay đọc báo mà người đọc
không thu nhận được điều gì mới mẻ, họ sẽ nói: “tác phẩm nghèo thông tin” thậm
chí là “không có thông tin”. Điều này dường như vô lý. Nhiệm vụ của báo chí là
mang thông tin đến cho công chúng nhưng tại sao họ lại không tìm thấy chúng
trong tác phẩm? Thế nhưng đây là điều có thật khi thông tin không phản ánh được
thực tế cuộc sống, không thỏa mãn nhu cầu của công chúng.
Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung rất phong phú; nó
có quan hệ trực tiếp đến chức năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến “nguyên
tắc” cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc
tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. Khái niệm “thông tin” là nền tảng của công
tác báo chí, cho nên khi nghiên cứu lí luận báo chí cần chú ý đến ý nghĩa của thuật
ngữ này.
Nhận thức về thông tin phát triển song song với nhận thức về chức năng và đối
tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác
định được mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có
tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng
rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông
tin có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí. Một hướng quan trọng trong

14


cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi chương trình, mỗi tác phẩm phải được xem
xét kỹ lưỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác
phẩm báo chí (trong lí luận về thông tin thường dùng thuật ngữ “bài báo”) là điểm
trung gian (cầu nối) của hệ thống Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng.
Tác phẩm (bài báo, chương trình phát thanh hay truyền hình) do nhà báo
chuẩn bị và được in trên báo hay phát sóng. Đối với công chúng, tác phẩm báo chí
mới chỉ thể hiện qua chất lượng của thông tin tiềm năng. Bởi vì những thông tin đó

chưa chắc đã được công chúng tiếp nhận. Có nhiều tác phẩm (bài báo) giữ vai trò là
“cầu nối”, phục vụ cho việc trao đổi thông tin giữa nhà báo và công chúng, nhưng
công chúng không tiếp nhận, mặc dù tác phẩm (hay chương trình) đã được đăng báo
hay phát sóng. Hiện tượng đó diễn ra khi công chúng không đọc báo, không xem
truyền hình hay không nghe đài (có nhiều lý do dẫn đến hiện tượng này, chẳng hạn
như kỹ thuật in kém, sóng truyền hình yếu v.v… nhưng quan trọng hơn cả mà người
làm báo cần chú ý là bài viết, hay chương trình phát thanh, truyền hình… không hấp
dẫn được người đọc, người xem, người nghe). Trong những trường hợp như vậy,
mối quan hệ nhà báo – tác phẩm – công chúng bị phá vỡ. Điều đó dẫn đến tình trạng
là không có khả năng chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Thông
tin hiện thực là thông tin được nhà báo sáng tạo và được công chúng tiếp nhận qua
các phương tiện thông tin đại chúng hoặc có thể họ là “người nhận thứ hai” (nghe
người đã từng nghe, xem, đọc kể lại). Việc đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ
lẫn nhau giữa nhà báo và công chúng được thể hiện qua các tác phẩm và chương
trình là rất cần thiết, đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện thực.
Vì thế mà trong khoa học hiện đại có một cách định nghĩa về thông tin như sau:
Thông tin không chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí
khi đã được công chúng tiếp nhận [45].
Trong hoạt động báo chí, khi tìm hiểu về khái niệm thông tin cần đặt nó trong
mối liên hệ trực tiếp với vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin
đối với công chúng, hướng dẫn nhận thức và giáo dục đạo đức cho họ để họ có hành
động đúng đắn. Vì vậy, có thể đồng tình với định nghĩa: Thông tin là phần tri thức

15


được sử dụng để định hướng, tác động đến những hành động tích cực và quản lý xã
hội, thực hiện mục đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất, sự hoàn thiện và sự
phát triển hệ thống. (Như là phương tiện tác động trong mối quan hệ báo chí – công
chúng).

Thông tin báo chí là dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự, phổ cập
và rất quan trọng về phương diện chính trị - xã hội. Để xã hội loài người tồn tại và
phát triển, con người cần nhiều loại hoạt động như sản xuất của cải vật chất để duy trì
sự sống, sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn tinh thần. Một phần của sự hoạt động đó là
hoạt động báo chí nhằm cung cấp cho công chúng những thông tin, tức là thông báo
cho công chúng biết mọi sự kiện, hiện tượng diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
"Nhưng thông tin báo chí là những thông tin chính trị - xã hội. Nghĩa là thông tin báo
chí bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội hay chính trị. Thông tin là đặc trưng
của ngành truyền thông đại chúng so với các ngành khác" [45, tr.51,52].
Tiêu chí đánh giá một thông tin tốt là: khách quan, kịp thời, đúng thời điểm,
chính xác, đầy đủ, độc đáo, thích hợp và đại chúng.
Còn theo Thông tư số 18/2012/TTLT- BTC-BTTTT ngày 14/02/2012, hướng
dẫn quản lý, sử dụng kinh phí hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở Trung
ương và địa phương giai đoạn 2011 – 2015 của Liên bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ
Tài chính (2012), tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lượng cao, được các cơ
quan quản lý nhà nước nghiên cứu quy định cụ thể, đó là: "Những tác phẩm mang
lại hiệu quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa phương; có nhiều
tìm tòi, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; có nội
dung phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù hợp với quan điểm
chỉ đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước". Do vậy, báo chí cần hướng tới những tiêu chí này.
Ngày nay ai cũng biết con người cần thông tin về nhiều mặt, nhiều lĩnh vực,
nhất là thông tin về sự kiện chính trị và kinh tế xã hội. Để đáp ứng nhu cầu thông tin
của công chúng, mỗi loại hình báo chí đều có thế mạnh riêng của mình. Nhà báo

16


cần hiểu rõ đặc trưng các loại hình để thông tin một cách hiệu quả. Với báo in, dù ra
đời sớm nhất và chịu sự cạnh tranh khốc liệt của một số loại hình báo chí khác trong

thời đại kỹ thuật số, nhưng báo in vẫn khẳng định được vai trò, vị trí và tồn tại song
song với các loại hình báo chí khác, bởi những đặc trưng, thế mạnh riêng của nó. Đặc
trưng lớn nhất của thông tin trên báo in là khả năng phân tích, bình luận, lý giải sâu
rộng đầy đủ các vấn đề, sự kiện.
1.1.2. Giám sát và phản biện của báo chí
Khái niệm giám sát: Trong cuốn “Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện
Đại hội X của Đảng”, giám sát được hiểu là “sự theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh
giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng
người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến
pháp, pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước, các
quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị
phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với tổ chức, cá nhân có những hành vi sai
trái”.
Qua những tìm hiểu và tổng hợp trên, có thể tạm hiểu khái niệm giám sát
trên những khía cạnh:
- Giám sát là hành vi độc lập, từ bên ngoài. Giám sát là hoạt động theo dõi,
quan sát, xem xét, nhận định về việc làm của đối tượng chịu sự giám sát.
- Mục đích của giám sát là xem xét việc làm của đối tượng bị giám sát có
đúng những quy định, quy chế, chuẩn mực đã đặt ra hay không. Qua đó phát hiện
những khiếm khuyết trong tổ chức và hoạt động của đối tượng bị giám sát để có
những kiến nghị và biện pháp can thiệp, khắc phục kịp thời nhằm hướng hoạt động
của đối tượng đi đúng hướng.
PBXH : Thuật ngữ PBXH được sử dụng chính thức trong Báo cáo chính trị
tại Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo đó, “PBXH là phản biện nói
chung, nhưng có quy mô và lực lượng rộng rãi hơn của xã hội, của nhân dân và các
nhà khoa học về nội dung, phương hướng, chủ trương, chính sách, giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục, y tế, môi trường, trật tự an

17



ninh chung toàn xã hội của Đảng, Nhà nước và các tổ chức liên quan. PBXH là
phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, ý thức trách nhiệm của
nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước, góp ý kiến với cán bộ, công chức
và các cơ quan Nhà nước… PBXH là nhu cầu cần thiết và là đòi hỏi bắt buộc của
quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí và các tiêu cực khác”. [5, (23), tr239-240]
Phản biện trên báo chí: Báo chí từ trước đến nay vẫn thường được xem là
công cụ chính trị của giai cấp cầm quyền. Vì thế, PBXH của báo chí dễ bị hiểu sai
lệch là phản biện những vấn đề giai cấp cầm quyền đưa ra. Hiểu như thế là chỉ mới
hiểu một mặt của PBXH của báo chí. Đối tượng của PBXH của báo chí là bất cứ
vấn đề nào nảy sinh trong cuộc sống. Từ sự phản biện đó, báo chí kịp thời định
hướng nhận thức cho quần chúng cũng như phản hồi, góp ý để giai cấp cầm quyền
đưa ra chính sách hợp lý hơn.
Tính phản biện trong báo chí hiện đại là bước phát triển của tính chiến đấu
của báo chí cách mạng. Báo chí cách mạng coi tính chiến đấu như là một yếu tố
quan trọng khẳng định vai trò và vị trí của báo chí đối với đời sống xã hội thông qua
hình thức phê bình và tự phê bình trên báo chí. Tính chiến đấu – nghĩ là làm cho
chân lý được sáng tỏ, điều phi chân lý bị đẩy lùi; làm cho cái mới được sinh sôi nảy
nở, cái cũ héo hon tàn lụi; làm cho cái tiến bộ được phát triển, cái lạc hậu bị xóa bỏ.
Với ý nghĩa này, tính phản biện, suy cho cùng cũng là tính chiến đấu của báo chí
hiện đại. PBXH của báo chí hiện đại làm cho cái đúng được bảo vệ, được làm sáng
rõ, cái sai được đẩy lùi.
Ở nước ta, lần đầu tiên trong Nghị quyết Trung ương 6 lần hai khóa VIII,
Đảng cộng sản Việt Nam đã ghi nhận, khẳng định báo chí và truyền thông đại
chúng là một trong bốn hệ thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng
về lý luận, nhận thức của Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền thông đại
chúng. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu
cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam nhận thêm vai trò, nhiệm vụ PBXH. Nghị
quyết Đại hội về phát triển hệ thống thông tin đại chúng nêu rõ: “Chú trọng nâng


18


cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và
PBXH của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất
nước...”.
Thực hiện chức năng giám sát, PBXH là báo chí góp phần khơi gợi, tập hợp
nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của toàn dân, trước hết là đội ngũ trí thức, chuyên gia
về mọi lĩnh vực góp ý cho các quyết sách lớn của Nhà nước trong quá trình xây
dựng và thực hiện nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo đó, giám sát và PBXH bằng báo
chí và thông qua báo chí là việc làm sinh động nhất của việc phát huy dân chủ xã
hội theo nghĩa để cho người dân được nói, bảy tỏ quan điểm của mình.
Giám sát, PBXH của báo chí trong quá trình thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật là để kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương,
khích lệ, tổng kết kinh nghiệm và nhân rộng mô hình; đồng thời cũng để sớm phát
hiện những trục trặc, những nơi làm dở, làm sai, vi phạm chủ trương, chính sách và
luật pháp. Vai trò và sức mạnh giám sát xã hội của báo chí trước hết là xã hội hóa
những việc làm tốt và những sai phạm của các tổ chức, cá nhân để khơi nguồn và
định hướng dư luận xã hội theo hướng ủng hộ hoặc chỉ trích, tạo áp lực dư luận và
buộc các cơ quan công quyền giải quyết, giải thích và giải đáp trước nhân dân,
trước công luận. Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng trong những
năm gần đây, phần lớn những vụ việc đều do báo chí phát hiện, phanh phui rồi các
cơ quan chức trách mới vào cuộc.
Giám sát và PBXH có mối quan hệ chặt chẽ với nhau – đây cũng là mối quan
hệ giữa nhận thức và thực tiễn. Có giám sát mới có hiểu biết, có kinh nghiệm để
phát hiện được ưu điểm cũng như những hạn chế, yếu kém mà đề xuất, kiến nghị
thay đổi hoặc bổ sung về đường lối, quan điểm, chính sách, pháp luật. Ngược lại, có
PBXH thì giám sát mới sát, đúng và trúng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, góp

phần giúp quản lý xã hội ngày càng đi vào chiều sâu và có hiệu quả. Qua giám sát
và PBXH, các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân bộc lộ thành phản hồi xã hội, nhờ

19


×