Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Phân tích thực trạng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng trong phân phối ở Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.98 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC

1

LỜI GIỚI THIỆU..................................................................................1
Chương

2
THỰC

TRẠNG

PHÂN

PHỐI

THU

NHẬP



TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM...................22
I. THỰC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHẬP........................................................22
NGUỒN: TCTK, ĐIỀU TRA MỨC SỐNG DÂN CƯ 1993 ĐẾN 2004..............................25

Nguồn: Tổng cục Thống kê.............................................................29
2. Nghèo đói và bất bình đẳng theo các nhóm xã hội ..............................30
2.1. Sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị.......................................................................................................30
2.2. Khác biệt giữa các vùng..................................................................................................................................32



III. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM......................................................34

2. Phát triển nguồn nhân lực.....................................................................73
4. Chính sách di dân.................................................................................76


LỜI GIỚI THIỆU

Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc
biệt là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục
tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn và có tăng trưởng nhanh
hơn. Tuy nhiên, có nhiều lý do cho thấy sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn
ở các nước các nước nghèo như Việt Nam có thể có lợi cho tăng trưởng.
Đảng ta đã chủ trương xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm căn cứ cho toàn bộ hoạt động của
Nhà nước. Đảng ta cũng đã khẳng định mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XCHN ở Việt Nam chính là thực hiện dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, và văn minh. Do đó, bên cạnh
mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững, Nhà nước còn phải đóng
vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đảm bảo
cho mọi người chứ không phải chỉ một số người được hưởng lợi từ thành quả
tăng trưởng kinh tế chung của đất nước.
Trong quá trình đổi mới theo hướng tự do hóa, mở cửa và hội nhập vào
khu vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam ngày càng khởi sắc: tốc độ tăng
trưởng GDP đạt cao, thu nhập của người dân được cải thiện đáng kể. Việt
Nam ngày càng được biết đến như một nền kinh tế năng động hàng đầu trong
danh sách các nước đang phát triển trên thế giới. Mặc dù vậy, quá trình này
cũng đã làm nảy sinh những mặt trái, gây trở ngại cho sự phát triển bền vững
của nền kinh tế. Trong đó, có một thực trạng đáng lo ngại là sự gia tăng chênh

lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư và giữa các vùng. Trong khi nền kinh
tế tăng trưởng cao, khoảng cách giàu - nghèo có xu hướng doãng ra.


Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu bàn về mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập. Theo nhà kinh tế được nhận giải
thưởng Nobel năm 1971, Simon Kuznets (14), bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập có xu hướng nới rộng trong những giai đoạn đầu của quá trình phát
triển, trở nên ổn định trong một giai đoạn, và sau đó thu hẹp dần trong những
giai đoạn sau khi nền kinh tế đã chín muồi. Persson và Tebellini (22) đã xem
xét tác động của phân phối thu nhập đến tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người ở 56 nước từ năm 1960 đến năm 1985. Theo mô hình của họ thu nhập
phân phối càng bình đẳng thì tăng trưởng kinh tế càng cao. Nhiều nhà kinh tế
khác, như Barro (3) và Edgar (9) đã xây dựng mô hình phân tích chéo và đi
đến kết luận có sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và sự bình đẳng trong
phân phối thu nhập.
Ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập là những chủ đề
được các nhà kinh tế đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, các bài viết mới chỉ bàn
riêng hoặc về tăng trưởng kinh tế hoặc về phân phối thu nhập. Cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về mối quan hệ
giữa phân phối thu nhập và tăng trưởng kinh tế.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phân phối thu nhập là một vấn đề cấp thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
Luận văn có bốn mục tiêu chủ yếu sau:
1. Hệ thống hóa lý thuyết về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
phân phối thu nhập.
2. Phân tích thực trạng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng trong phân phối ở Việt Nam trong thời gian qua.



3. Phân tích định lượng mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân
phối thu nhập.
4. Đề xuất các chính sách cần thực hiện nhằm thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng nhanh và bền vững đi đôi với việc thực hiện công bằng xã hội.
Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu mà luận văn sử dụng bao gồm:


Các phương pháp nghiên cứu chung và đặc thù sẽ được áp dụng (phân

tích tổng hợp, lôgíc và lịch sử...).


Phân tích định lượng thông qua việc xây dựng các mô hình kinh tế lượng

để kiểm định ảnh hưởng của phân phối thu nhập đến tăng trưởng kinh tế.
Các số liệu tổng hợp được lấy từ các cuốn Niên giám thống kê, còn các số
liệu theo tỉnh được lấy từ bốn cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam
(ĐTMSDC) 1992-93; 1997-98; 2002; và 2004.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÂN PHỐI THU
NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Phần đầu của chương này sẽ bàn về đo lường phân phối thu nhập và tăng
trưởng kinh tế. Sau đó chúng ta sẽ hệ thống hóa các lý thuyết đề cập đến mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập.
I. PHÂN PHỐI THU NHẬP: ĐO LƯỜNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG


Các nhà kinh tế thường phân biệt hai cách phân phối thu nhập để phục
vụ cho cả mục tiêu phân tích và định lượng: đó là phân phối thu nhập theo
“cá nhân” hay theo “qui mô”; và phân phối thu nhập theo chức năng hay theo
“tỉ lệ thu nhập được phân phối cho các yếu tố sản xuất”.
Phân phối thu nhập theo cá nhân hay theo qui mô được các nhà kinh tế
sử dụng rộng rãi hơn. Nó đề cập đến việc thu nhập được phân phối như thế
nào giữa các cá nhân hay các hộ gia đình mà không quan tâm đến nguồn hình
thành thu nhập. Nghiên cứu này cũng nằm trong trào lưu chung, sẽ tập trung
xem xét phân phối thu nhập theo quy mô.
1. Đo lường phân phối thu nhập
Theo cách tiếp cận qui mô các nhà kinh tế và thống kê thường sắp xếp
các cá nhân theo mức thu nhập tăng dần, rồi chia tổng dân số thành các nhóm.
Một phương pháp thường được sử dụng là chia dân số thành 5 nhóm có qui
mô như nhau theo mức thu nhập tăng dần, rồi xác định xem mỗi nhóm nhận
được bao nhiêu phần trăm của tổng thu nhập. Bằng cách này, chúng ta có thể
đưa ra các số liệu như trong Bảng 1.


Bảng 1. Mức độ bất bình đẳng về thu nhập ở Mỹ
Năm

5% giàu
nhất

1998
1990
1980
1970
1960
1950


20,7%
17,4
15,3
15,6
15,9
17,3

Phần năm Phần năm Phần năm Phần năm Phần năm
giàu nhất gần giàu trung bình gần nghèo nghèo nhất
nhất
nhất
47,3%
23,0%
15,7%
9,9%
4,2%
44,3
23,8
16,6
10,8
4,6
41,5
24,3
17,5
11,5
5,2
40,9
23,8
17,6

12,2
5,5
41,3
24,0
17,8
12,2
4,8
42,7
23,4
17,4
12,0
4,5
Nguồn: Cục Điều tra Dân số Mỹ (15)

Những con số trong Bảng 1 cho phép chúng ta đánh giá được phương
thức phân phối tổng thu nhập của nền kinh tế. Nếu thu nhập được phân phối
đều cho các gia đình, thì mỗi nhóm gia đình sẽ nhận được 20% thu nhập. Nếu
tất cả thu nhập chỉ tập trung vào một vài gia đình, thì hai mươi phần trăm gia
đình có thu nhập cao nhất sẽ nhận được tất cả thu nhập, và các nhóm gia đình
khác không nhận được gì. Tất nhiên, nền kinh tế thực tế nằm ở đâu đó giữa
hai thái cực này. Bảng 1 cho thấy ở Mỹ trong năm 1998, hai mươi phần trăm
gia đình có thu nhập thấp nhất chỉ nhận được 4,2% tổng thu nhập, trong khi
hai mươi phần trăm gia đình có thu nhập cao nhất nhận được tới 47,3% tổng
thu nhập. Nói cách khác, mặc dù số gia đình của hai nhóm này bằng nhau,
nhưng thu nhập của nhóm cao nhất gấp khoảng mười một lần thu nhập của
nhóm thấp nhất.
Cột đầu tiên trong Bảng 1 trình bày phần trăm tổng thu nhập mà 5% hộ
gia đình giàu nhất nhận được. Trong năm 1998, 5% gia đình giàu nhất ở Mỹ
nhận được 20,7% tổng thu nhập. Do vậy, tổng thu nhập của 5% gia đình giàu
nhất là lớn hơn tổng thu nhập của 40% những gia đình nghèo nhất.

Một áp dụng khá hiệu quả của cách định lượng này là tính chỉ tiêu Q5/Q1 - tỉ
lệ giữa thu nhập bình quân của nhóm 20% hộ gia đình giàu nhất với thu nhập


bình quân của nhóm 20% hộ gia đình nghèo nhất.
Một cách phổ biến khác để phân tích số liệu thống kê về thu nhập cá nhân
là xây dựng đường Lorenz trong đó trục hoành biểu thị phần trăm dân số có
thu nhập, còn trục tung biểu thị tỉ trọng thu nhập của các nhóm tương ứng.
Đường chéo được vẽ từ gốc tọa độ biểu thị tỉ lệ phần trăm thu nhập nhận
được đúng bằng tỉ lệ phần trăm của số người có thu nhập. Nói cách khác,
đường chéo đại diện cho sự “công bằng hoàn hảo” của phân phối thu nhập
theo qui mô: mọi người có mức thu nhập giống nhau. Còn đường Lorenz biểu
thị mối quan hệ định lượng thực tế giữa tỉ lệ phần trăm của số người có thu
nhập và tỉ lệ phần trăm thu nhập mà họ nhận được. Như vậy, đường cong
Lorenz mô phỏng một cách dễ hiểu tương quan giữa nhóm thu nhập cao nhất
với nhóm thu nhập thấp nhất. Đường Lorenz càng xa đường chéo thì thu nhập
được phân phối càng bất bình đẳng.
Trên cơ sở đường Lorenz các nhà thống kê kinh tế thường tính hệ số Gini,
một thước đo tổng hợp về sự bất bình đẳng. Nó được tính bằng tỉ số của phần
diện tích nằm giữa đường chéo và đường Loenz so với tổng diện tích của nửa
hình vuông chứa đường cong đó. Trong Hình 1 đó là tỉ lệ giữa phần diện tích
tích A so với tổng diện tích A+B. Hệ số Gini có thể dao động trong phạm vi 0
(công bằng hoàn hảo: mọi người có mức thu nhập giống nhau) và 1 (bất
công hoàn hảo: một số ít người nhận được tất cả, còn những người khác
không nhận được gì). Trong thực tế, hệ số Gini cho các nước có phân phối
thu nhập chênh lệch lớn nằm giữa 0,5 và 0,7, còn những nước có phân phối
tương đối công bằng thì hệ số Gini nằm trong phạm vi 0,2 đến 0,35.


Hình 1. Đường Lorenz và hệ số Gini

% thu nhập

A
A
B

% dân số

Một thước đo khác được sử dụng rất rộng rãi để đánh giá phân phối
thu nhập là tỉ lệ nghèo đói. Đó là là phần trăm dân số có thu nhập thấp hơn
một giá trị tuyệt đối nào đó được gọi là ngưỡng nghèo đói, mức thu nhập
tối thiểu cần thiết để đảm bảo những nhu cầu vật chất cơ bản như lương
thực, quần áo và nhà ở để đảm bảo cho người ta có thể tiếp tục tồn tại .
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng định nghĩa của Ngân hàng Thế giới
về nghèo, đó là sự “không có khả năng có được mức sống tối thiểu” để phân
biệt với bất bình đẳng, là khái niệm về so sánh mức sống giữa các thành viên
của xã hội (World Bank, 1990). Tiêu chuẩn Quốc tế về chuẩn nghèo dựa trên
mức tiêu dùng được dùng để xác định tỉ lệ nghèo bao gồm mức tiêu thụ lương
thực-thực phẩm tối thiểu (70%) và các chỉ tiêu phi thực phẩm (30%) và được
xác định bởi một trình tự gồm hai bước. Bước thứ nhất thiết lập mức giá của
một nhóm hàng hoá lương thực-thực phẩm đặc thù tại Việt Nam được coi như
là thiết yếu để thoả mãn các nhu cầu về dinh dưỡng. Giá trị tuyệt đối của
nhóm hàng hoá này dựa vào tiêu chuẩn quốc tế để đạt được 2100 calo bình
quân một ngày cho một thành viên của hộ. Mức chuẩn đói nghèo được thay
đổi theo thời gian cùng với thay đổi về giá sản phẩm trong nhóm hàng hoá


(giá trị tuyệt đối của mức nghèo). Nó cũng có thể thay đổi khi cơ cấu của rổ
hàng hoá trên có thay đổi. Ngưỡng nghèo đói được ấn định là 1,16 triệu đồng
vào năm 1993; 1,79 triệu đồng vào năm 1998.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự khác biệt về thu nhập
Các lao động là khác nhau. Các công việc cũng khác nhau về tiền lương
và về các đặc điểm phi tiền tệ. Những khác biệt này có ảnh hưởng đến cung,
cầu lao động và thu nhập của các cá nhân.
Sự khác biệt mang tính đền bù Một số công việc tương đối nhàn hạ,
vui vẻ và an toàn, trong khi đó lại có những công việc nặng nhọc, buồn tẻ và
nguy hiểm. Nếu tiền lương là như nhau thì hầu hết mọi người sẽ thích làm
những công việc nhàn hạ, vui vẻ và an toàn. Do vậy, người lao động cần có
một mức lương cao hơn để thực hiện những công việc nặng nhọc, buồn tẻ và
nguy hiểm. Sự khác biệt mang tính đền bù là khoản chênh lệch về tiền lương
phát sinh nhằm bù đắp cho các đặc điểm phi tiền tệ của các công việc khác
nhau. Ví dụ, những người làm việc trong các mỏ than hoặc vào ca đêm sẽ có
được khoản thu nhập bổ sung nhằm bù đắp cho sự không thú vị của công việc
mà họ thực hiện.
Vốn nhân lực Tư bản là một yếu tố do sản xuất tạo ra. Tư bản bao gồm
sự tích luỹ trang thiết bị, cơ sở hạ tầng, và cả ở dạng kém hữu hình hơn đó là
tư bản con người hay vốn nhân lực. Vốn nhân lực là sự tích luỹ đầu tư trong
mỗi con người, ví dụ như học vấn và kinh nghiệm làm việc. Các lao động với
nhiều vốn nhân lực sẽ kiếm được nhiều tiền hơn những lao động với ít vốn
nhân lực bởi những lý do sau: Ở góc độ cầu lao động, những lao động có trình
độ học vấn thường có sản phẩm biên cao hơn, do vậy các doanh nghiệp sẵn
lòng trả cho họ mức lương cao hơn. Ở góc độ cung lao động, người lao động
chỉ sẵn lòng đi học nếu họ nhận được phần thưởng cho việc làm như vậy.
Thực tế có sự khác biệt mang tính đền bù giữa những lao động có trình độ học


vấn và những lao động không có trình độ học vấn nhằm bù đắp cho chi phí
của việc đi học.
Năng lực, nỗ lực và cơ hội có thể giúp lý giải cho sự khác biệt về thu
nhập. Một số người này thông minh hơn và khỏe mạnh hơn những người khác

và họ được trả lương theo năng lực tự nhiên của họ. Một số lao động làm việc
vất vả hơn những người khác và họ được đền bù cho những cố gắng của họ.
Cơ hội cũng đóng một vai trò nhất định, trong đó trình độ học vấn và kinh
nghiệm của một cá nhân nào đó có thể trở nên vô nghĩa nếu sự thay đổi công
nghệ làm cho công việc của cá nhân đó không cần nữa. Sắc đẹp có thể là năng
lực tự nhiên bởi vì sự hấp dẫn về ngoại hình có thể làm cho một diễn viên
hoặc một người phục vụ nhà hàng trở nên có năng suất hơn. Nó cũng có thể là
một tín hiệu của người thông minh khi anh ta thành công trong việc tạo ra
ngoại hình hấp dẫn, và điều này có thể cho thấy cá nhân này cũng có thể
thành công trong những lĩnh vực khác. Trái lại, phần lương tăng thêm nhờ
ngoại hình có thể đơn giản chỉ là một loại phân biệt đối xử. Những người có
ngoại hình hấp dẫn có thể có thu nhập cao hơn những người có ngoại hình
kém hấp dẫn.
Quan điểm vốn nhân lực về trình độ học vấn cho rằng, những lao động
với trình độ học vấn cao hơn được trả lương cao hơn bởi vì học vấn làm cho
họ có năng suất cao hơn. Ngược lại, quan điểm phát tín hiệu về trình độ học
vấn lại cho rằng các doanh nghiệp sử dụng trình độ học vấn như một phương
tiện để sàng lọc những lao động có năng lực cao ra khỏi những lao động có
năng lực thấp. Trình độ học vấn phát đi tín hiệu về năng lực cao, bởi vì những
người có năng lực cao thường có được tấm bằng đại học dễ dàng hơn so với
những người năng lực thấp và các doanh nghiệp sẵn lòng trả cho họ mức
lương cao hơn. Theo quan điểm vốn nhân lực về trình độ học vấn, một chính
sách nhằm làm tăng trình độ học vấn của người lao động sẽ làm tăng tiền


lương của họ. Theo quan điểm phát tín hiệu về học vấn, trình độ học vấn cao
hơn không có ảnh hưởng gì đến năng suất hay tiền lương. Có bằng chứng cho
thấy rằng học vấn không làm tăng năng suất và tiền lương, do vậy trình độ
học vấn có thể chỉ là một tín hiệu phản ánh năng lực của người lao động.
Những lợi ích đem lại từ việc đi học có lẽ là một sự kết hợp giữa các hiệu ứng

phát tín hiệu và hiệu ứng tư bản con người.
Ngoài ra, thu nhập có thể khác nhau do sự phân biệt đối xử. Sự phân biệt đối
xử là việc tạo ra các cơ hội khác nhau cho các cá nhân tương tự nhau chỉ khác
nhau về chủng tộc, sắc tộc, giới tính, tuổi tác hoặc các đặc điểm cá nhân khác.
II. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: ĐO LƯỜNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

Phúc lợi vật chất được đo lường bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà nền
kinh tế sản xuất ra. Nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là nghiên cứu về khả năng
của các nền kinh tế trong việc sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Những câu hỏi
thường được đặt ra như: Vì sao một số nền kinh tế giàu có về vật chất trong
khi các nền kinh tế khác lại nghèo? Vì sao một số nền kinh tế lại nhanh chóng
giàu lên theo thời gian còn một số nền kinh tế khác vẫn cứ nghèo. Chẳng hạn
những người dân trung lưu ở các nước giàu như Mỹ hay Nhật có mức thu
nhập cao hơn 10 lần người dân trung lưu ở những nước nghèo. Mức chênh
lệch lớn như thế được phản ánh trong sự chênh lệch đáng kể về chất lượng
cuộc sống. Người dân ở những nước giàu có nhiều tiện nghi cho cuộc sống
của họ hơn, được chăm sóc y tế tốt hơn và có tuổi thọ cao hơn.
Xét theo thời gian, ngay cả trong một nước, mức sống cũng thay đổi rất
nhiều. Trong suốt thế kỷ qua, thu nhập bình quân đầu người của Mỹ tăng
khoảng 2% mỗi năm. Với tỉ lệ tăng trưởng như thế thì có nghĩa là cứ sau 35
năm, thu nhập bình quân đầu người lại tăng lên gấp đôi. Với mức tăng trưởng
đó, thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Mỹ đã tăng lên gấp 8 lần so
với 100 năm trước.


Tốc độ tăng trưởng nhanh có thể làm cho một quốc gia nghèo đuổi kịp và
vượt qua quốc gia giầu hơn mình. Những nước tăng trưởng nhanh, thu nhập
bình quân đầu người được nâng cao sẽ tạo điều kiện cho xã hội phát triển, đời
sống vật chất và văn hoá của công chúng có cơ được tăng lên. Ngược lại, một
nước tăng trưởng chậm, thu nhập thấp thì sẽ phải đương đầu với những mâu

thuẫn liên miên trong quá trình chọn lựa các mục tiêu. Điều đó lý giải vì sao
tất cả các quốc gia đều quan tâm đến vấn đề tăng trưởng.
1. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Nhìn chung tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của
mức sản lượng quốc dân.
Y t − Y t −1
g =
× 100%
Y t −1
t

trong đó:
gt là tốc độ tăng trưởng của thời kỳ t.
Y là GDP thực tế của thời kỳ t.
Như chúng ta đã biết GDP là thước đo được chấp nhận rộng rãi về mức
sản lượng của một nền kinh tế. Tất nhiên ở đây chúng ta nói đến GDP thực tế
chứ không phải GDP danh nghĩa, tức là đã loại bỏ sự biến động của giá cả
theo thời gian.
Thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong
khi GDP thực tế lại tăng trưởng chậm. Một định nghĩa khác có thể thích hợp
hơn về tăng trưởng kinh tế tính theo mức sản lượng bình quân đầu người được
tính bằng tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trong năm chia cho
dân số. Chính vì vậy chỉ tiêu ý nghĩa hơn về tăng trưởng kinh tế được tính
bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ
nghiên cứu so với thời kỳ trước - thông thường tính cho một năm.


t

g pc =


y t − y t −1
× 100%
y t −1

trong đó:
gpct là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ t.
y là GDP thực tế bình quân đầu người.
Mặc dù vậy, không phải quốc gia nào cũng khuyến khích tăng trưởng
bằng mọi giá. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia đã phải trả giá cho sự tăng
trưởng nhanh bằng những hy sinh mà suy cho cùng thì chúng ảnh hưởng đến
hàng loạt các mục tiêu: Phúc lợi kinh tế chung của xã hội, sự ô nhiễm môi
trường, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, làm cho thế hệ mai sau phải trả giá
đắt cho sự thụ hưởng của thế hệ hiện tại. Hơn nữa, một số nhà kinh tế còn bi
quan cho rằng chúng ta đứng trước nguồn tài nguyên có hạn, tăng trưởng
nhanh cũng có nghĩa là đang tiêu tốn nguồn tài nguyên đó, cho đến lúc không
còn gì để khai thác được nữa. Với những tác động có hại, chúng ta cũng cần
nhận thức lại rằng: tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải trả cho nó một cái giá nào
đó. Tất nhiên, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta hạn chế tăng trưởng mà
vấn đề là phải tìm cách để cho cái giá phải trả càng thấp càng tốt.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu gợi ra bốn nhân tố quan trọng nhất
quyết định tăng trưởng kinh tế của một quốc gia bao gồm:
o

Sự tăng trưởng của lực lượng lao động xuất hiện do tăng dân số hay

tăng tỉ lệ tham gia lực lượng lao động.
o


Đầu tư vào tư bản con người thông qua đào tạo hay tích luỹ kinh

nghiệm từ thực tiễn công tác.
o

Đầu tư vào tư bản hiện vật như xây dựng nhà máy mới, mua sắm máy

móc thiết bị mới cũng như các phương tiện vận tải và viễn thông mới.


o

Sự đổi mới công nghệ tạo ra những sản phẩm mới, các phương pháp

sản xuất mới, và hình thức tổ chức kinh doanh mới.
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÂN PHỐI THU NHẬP VÀ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ

Tăng trưởng và phân phối thu nhập luôn là một chủ đề gây tranh cãi, bắt
đầu từ giả thuyết hình chữ U ngược của Kuznets (14) về bất bình đẳng trong
phân phối thu nhập gắn với quá trình tăng trưởng. Theo Kurznets, bất bình
đẳng có thể là một hệ quả của quá trình tăng trưởng. Thế nhưng một khi xã
hội đã phát triển tới một mức cao nhất định, mức độ bất bình đẳng sẽ giảm đi,
lúc đó thu nhập và phúc lợi có xu hướng được phân phối công bằng hơn.
Tuy vậy, nhiều kiểm định thực tế đã không nghiêng về giả thuyết này:
bất bình đẳng về phân phối thu nhập không những không giảm đi mà còn
tăng lên hoặc giữ ở mức cao ngay cả ở nhiều nền kinh tế phát triển như
Mỹ, Anh. Để giải quyết vấn đề này, các nước phát triển đã áp dụng nhiều
biện pháp khác nhau, trực tiếp (qua chính sách tái phân phối) và gián tiếp
(như thông qua tái phân phối cơ hội). Các nước có nền kinh tế thị trường tự

do như Mỹ, Anh có phần thiên về áp dụng các biện pháp trực tiếp, trong
khi tại các nước công nghiệp Châu Âu cả hai loại biện pháp trực tiếp (như
thông qua thuế thu nhập cá nhân, trợ cấp) và gián tiếp (cung cấp các dịch
vụ giáo dục, y tế nhằm tạo cơ hội cho người có thu nhập thấp tham gia vào
quá trình tăng trưởng) đều được thực hiện.
1. Tác động của tăng trưởng đến phân phối thu nhập
Trong quá trình phát triển kinh tế luôn xuất hiện hai xu hướng: làm tăng
sự bất bình đẳng và làm giảm sự bất bình đẳng. Hai xu hướng này có sự
thayđổi cùng với sự phát triển kinh tế.
Tăng trưởng làm tăng sự bất bình đẳng về thu nhập
Công nghiệp hoá làm xuất hiện sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông


thôn sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Theo Casten A. Holz (6), do có sự
chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp trong quá trình công
nghiệp hoá mà tỉ lệ lao động nông nghiệp của Hàn Quốc giảm từ 46% năm
1963 xuống còn 9% năm 2003, các con số này ở Đài Loan là 46% năm 1965
và 7% năm 2003 và ở Trung Quốc là 71% năm 1978 và 49% năm 2003. Năng
suất lao động ở khu vực công nghiệp cao gấp 7 lần và khu vực dịch vụ cao
hơn 3 lần so với nông nghiệp và theo đó thu nhập của người lao động trong
khu vực công nghiệp và dịch vụ cũng tăng gấp 2 đến 3 lần so với người làm
nông nghiệp. Mặt khác trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, tỉ lệ tăng dân số ở
khu vực nông thôn thường cao hơn ở đô thị. Vì vậy, sự phát triển kinh tế
trong giai đoạn này làm tăng sự bất bình đẳng.
Quá trình công nghiệp hoá kéo theo việc ứng dụng công nghệ mới và cách
thức trong tổ chức sản xuất. Chỉ những người lao động được dào tạo và có tay
nghề mới đáp ứng những công việc phức tạp và trong thời gian này số lượng
lao động có chất lượng chưa nhiều. Do có việc làm mới, số người này có thu
nhập cao hơn nhiều so với số đông lao động giản đơn và vì thế sự bất bình
đẳng tăng lên.

Sự ra đời của lớp doanh nhân trực tiếp bỏ vốn ra kinh doanh nhằm mưu
cầu lợi nhuận. Họ là những người nhìn thấy cơ hội kinh doanh, chấp nhận rủi
ro và biết huy động nguồn lực. Khi công việc kinh doanh thành đạt, những
doanh nhân này lại tích luỹ được nhiều vốn hơn và có cơ hội vay ngân hàng
(do có tài sản thế chấp) để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Kết quả là những
doanh nhân thành đạt có thu nhập cao hơn những người khác trong xã hội và
theo đó chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư doãng ra.
Kinh tế ngày càng phát triển thì cơ hội kinh doanh cũng được mở ra nhiều
hơn. Các nguồn lực quốc gia như đất đai, tài nguyên cũng được trao đổi, mua
bán trên thị trường dễ dàng hơn, tạo ra cơ hội cho những người nắm nguồn


lực quốc gia tham nhũng, mưu lợi cá nhân. Những người tham nhũng có thu
nhập bất chính cao hơn nhiều, nhanh hơn, nhiều so với những người bình
thường, thậm chí cả những doanh nhân thành đạt. Tham nhũng nghiêm trọng
ở những nước mà hiệu lực và hiệu quả thực thi pháp luật yếu kém và Chính
phủ chưa tạo điều kiện cho quảng đại quần chúng nhân dân tham gia phòng
chống tham nhũng.
Phát triển làm giảm sự bất bình đẳng.
Kuznets nhấn mạnh rằng, trong quá trình phát triển, bên cạnh việc xuất
hiện những xung lực làm gia tăng sự bất bình đẳng thì lại có những nhân tố
nổi lên tác động giảm sự bất bình đẳng.
Sau một khoảng thời gian phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng
lên. Do đó, người dân bắt đầu có tích luỹ. Mức sống tăng lên, người dân đóng
góp cho ngân sách quốc gia nhiều hơn, tạo điều kiện cho quốc gia đó dành
nhiều nguồn lực hơn cho việc tổ chức và thực thi pháp luật. Sự phát triển của
công nghệ thông tin, thông tin liên tục thông suốt hơn giúp người dân giám
sát được tốt việc quản lý và sử dụng nguồn lực quốc gia, tạo sức ép buộc quản
lý phải công khai, minh bạch hơn. Những nhân tố trên sẽ tác động làm giảm
bớt sự tham nhũng.

Động lực nội tại của sự phát triển sẽ làm đảo ngược sự bất bình đẳng của
thời kỳ đầu thực hiện công nghiệp hoá. Số công nhân được đào tạo và có kỹ
năng cần thiết để thực hiện những công việc phức tạp ngày càng nhiều hơn.
Các công ty đưa ra những công nghệ mới giúp giảm bớt chi phí sử dụng lao
động lành nghề, quá đắt đó.
Công nghệ ngày càng đổi mới và lực lượng sản xuất ngày càng phát triển
mạnh, đòi hòi sự mở rộng thị trường trên phạm vi toàn cầu. Toàn cầu hoá và
hội nhập kinh tế quốc tế được hình thành và phát triển mạnh cả chiều rộng và


chiều sâu. Nhờ đó, những nước tham gia toàn cầu hoá có cơ hội tiếp nhận đầu
tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho
người lao động với tỉ lệ dáng kể trong tổng lực lượng lao động xã hội. Sự phát
triển kinh tế xã hội sẽ hình thành những thể chế tài chính mới và thị trường tài
chính, tiền tệ hoạt động có hiệu quả hơn. Nhờ đó, những người có ý tưởng và
khát vọng kinh doanh có điều kiện huy động vốn từ thị trường tài chính, tiền
tệ để gia nhập thị trường với số lượng ngày càng tăng.
Bất bình đẳng tăng, giảm trong quá trình phát triển, nhưng càng phát triển
thì bất bình đảng càng giảm
Knznets cho rằng trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, bất bình đẳng trong
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư ngày một doãng ra, sau đó chậm lại và sẽ
giảm dần khi nền kinh tế phát triển hơn.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh, thu nhập trở nên bất bình đẳng
hơn từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX. Sự gia tăng bất bình đẳng
tương tự cũng xảy ra ở Mỹ trong suốt thế kỷ XIX và thậm chí trong một vài
năm đầu của thế kỷ XX. Sau những năm giữa thế kỷ XIX ở Anh và sau này
mấy năm đầu của thế kỷ XX ở Mỹ, bất bình đẳng đã giảm dần.
Nhưng, sau khi xuất hiện những công nghệ mới thì nó lại đòi hỏi phải có
những công nhân, chuyên gia có kỹ năng phù hợp. Và thế là những người đáp
ứng được yêu cầu của công nghệ mới sẽ có thu nhập cao hơn. Vì thế xu

hướng bất bình đẳng giảm khi kinh tế ngày càng phát triển theo thời gian
cùng với sự ra đời của các làn sóng công nhệ tiên tiến không còn đúng nữa.
Bất bình đẳng tăng ở Mỹ và nhiều nước Tây Âu kể từ giữa thập niên 1970
phần nào phản ánh sự gia tăng trở lại sự chênh lệch thu nhập, cũng như sự
thay đổi mạnh mẽ từ sản xuất công nghiệp sang các dịch vụ cao cấp có ứng
dụng công nghệ thông tin khi mà trên thị trường lao động không đáp ứng
được nhu cầu lao động có kỹ năng về sử dụng máy vi tính.


Sau một thời gian, những người công nhân thiếu kỹ năng ý thức được sự
cần thiết phải nâng cao tay nghề và kỹ năng cần thiết đáp ứng đòi hòi của
công nghệ mới nên họ bỏ tiền ra để được đào tạo. Mặt khác, do kinh tế phát
triển mạnh, Nhà nước có điều kiện để tăng chi phí cho giáo dục thực hiện phổ
cập giáo dục phổ thông trung học (ở những nước phát triển). Và thế là tầng
lớp công nhân “áo trắng” với số lượng đông đảo thay thế công nhân “áo
xanh” và sự chênh lệch thu nhập lại được thu hẹp lại.
Sự phát triển kinh tế đã mang đến những thay đổi tích cực trong giáo
dục. Các quốc gia đang phát triển có tốc độ tăng giáo dục nhanh hơn tăng
trưởng kinh tế và ngày càng thu hẹp khoảng cách giáo dục so với các nước
phát triển. Ở Trung Quốc tỉ lệ tổng số người đi học đã tăng từ 44% lên 56%
trong vòng 30 năm qua và tỉ lệ đó cấp tiểu học và trung học cơ sở là 87%. Tại
Ấn Độ tỉ lệ này đã tăng từ 38% lên 52% ở cấp tiểu học và trung học cơ sở là
72%. Phát triển kinh tế tạo ra khả năng cho mỗi quốc gia phát triển sâu rộng
hệ thống giáo dục cho người dân, nó không chỉ giúp giảm bớt đói nghèo mà
còn phá bỏ vòng luẩn quẩn do đói nghèo vì thiếu giáo dục và qua đó ít cơ hội
thoát nghèo, lập nghiệp, làm giàu.
2. Ảnh hưởng của phân phối thu nhập đến tăng trưởng kinh tế
Theo lý thuyết truyền thống, thực hiện mục tiêu công bằng xã hội, đặc
biệt là hướng tới phân phối thu nhập bình đẳng hơn có thể mâu thuẫn với mục
tiêu đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn để có tăng trưởng nhanh

hơn. Lý do cơ bản là để lấy thu nhập của người giàu chuyển cho người nghèo,
Chính phủ phải thực hiện các chính sách tái phân phối thu nhập, ví dụ như
thông qua hệ thống thuế thu nhập luỹ tiến và các chương trình phúc lợi. Với
các chính sách này, những người có thu nhập cao phải nộp một phần lớn hơn
trong thu nhập của họ cho chính phủ, và những người nghèo nhận được các
khoản trợ cấp từ chính phủ. Điều này sẽ làm giảm động lực lao động và gây


ra tổn thất cho xã hội. Nếu Chính phủ lấy đi phần thu nhập tăng thêm mà một
cá nhân nào đó có thể kiếm được thông qua việc tăng thuế để tăng trợ cấp, thì
cả người giàu và người nghèo sẽ có ít động lực lao động chăm chỉ hơn: người
giàu sẽ không nỗ lực làm việc tốt hơn và có hiệu quả hơn, còn người nghèo
có thể có tư tưởng ỷ lại, trông chờ đặc biệt khi thuế suất quá cao và các
chương trình phúc lợi quá hào phóng. Khi họ lao động ít hơn, tổng thu nhập
của toàn xã hội sẽ giảm, và phần thu nhập dành cho mỗi người cũng giảm. Do
vậy, Nhà nước phải cân đối giữa những lợi ích thu được từ sự bình đẳng hơn
và những thiệt hại do việc bóp méo các động cơ khuyến khích.
Đi xa hơn, một số nhà kinh tế và hoạch định chính sách còn tin rằng bất
bình đẳng trong phân phối thu nhập là điều kiện cần thiết để tăng tiết kiệm,
đầu tư và do đó có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Theo họ người giàu thường
dành một tỉ lệ lớn hơn trong thu nhập tạo ra cho tiết kiệm so với người nghèo.
Do đó, một nền kinh tế có phân phối thu nhập ít bình đẳng hơn sẽ tiết kiệm
được nhiều hơn (qua đó đầu tư nhiều hơn) và tăng trưởng nhanh hơn nền kinh
tế có phân phối thu nhập bình đẳng hơn.
Tuy nhiên, quan điểm trên đây của các nhà kinh tế về việc Chính phủ có
thể chủ động chấp nhận bất bình đẳng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không
phải được tất cả các nhà kinh tế ủng hộ. Ở một thái cực khác, nhiều nhà kinh
tế cho rằng bất bình đẳng có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, đặc
biệt trong bối cảnh các nước đang phát triển. Họ đưa ra một số luận cứ cơ bản
sau đây (24):

Thứ nhất, khác với kinh nghiệm thu được từ các nước phát triển, nhiều
nghiên cứu gần đây cho rằng người giàu ở các nước đang phát triển chưa
thực sự muốn tiết kiệm để đầu tư vào nền kinh tế trong nước. Nhiều bằng
chứng cho thấy là người giàu thường tiêu dùng hàng xa xỉ nhập khẩu, mua
những biệt thự đắt tiền hay đi du lịch nước ngoài và tích trữ vàng bạc, đồ


trang sức, hay gửi tiền ở các ngân hàng nước ngoài... Loại chi tiêu và đầu tư
đó không đóng góp nhiều vào tăng tiềm lực sản xuất của quốc gia, thậm
chí là một sự lãng phí nguồn lực vốn đã ít ỏi ở các nước này. Với hành vi
tiêu dùng đó, nếu chiến lược phát triển mà dẫn đến gia tăng nhanh bất bình
đẳng về phân phối thu nhập sẽ tạo cơ hội để duy trì vị thế của nhóm người
giàu, đồng thời gây tổn thất cho cả nền kinh tế do lãng phí nguồn lực. Trong
dài hạn, một chiến lược như vậy thường có tác dụng "phản tăng trưởng và
phát triển".
Thứ hai, về phía người nghèo, do thu nhập và mức sống thấp nên chế độ
dinh dưỡng, tình trạng sức khoẻ và giáo dục kém. Điều này làm giảm cơ
hội tham gia hoạt động kinh tế và năng suất lao động của họ, và vì thế trực
tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng xấu tới quá trình tăng trưởng. Do vậy, đầu tư
vào giáo dục và y tế, đảm bảo người nghèo được tiếp cận các dịch vụ giáo
dục và y tế công được coi là những biện pháp cần thiết giúp người nghèo có
cơ hội tìm việc làm với năng suất cao hơn và có thu nhập tốt hơn. Trình
độ lao động cũng ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tăng trưởng thông qua
sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên tốt hơn. Bên cạnh đầu tư vào con
người, chính sách đầu tư công và giảm trợ cấp đối với các dịch vụ xã hội
cao cấp có lợi cho người giàu cũng có tác động giảm chênh lệch về thu nhập
và có lợi cho tăng trưởng.
Thứ ba, thu nhập của người nghèo tăng sẽ kích thích tăng nhu cầu về
hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước, trong khi người giàu có xu hướng
dành phần thu nhập tăng thêm của họ để mua hàng nhập khẩu xa xỉ nhiều

hơn. Qua đó kích thích đầu tư, sản xuất và tạo việc làm trong nước, đồng
thời tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội tham gia và hưởng lợi nhiều
hơn từ tăng trưởng kinh tế.


Thứ tư, chênh lệch thu nhập lớn và nghèo đói tuyệt đối phổ biến có thể
dẫn đến bất ổn về xã hội. Hầu hết các lập luận cho rằng bất bình đẳng là
nguyên nhân của xung đột trong xã hội, có thể dẫn đến bất ổn định xã hội và
chính trị và rốt cuộc là có hại cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, thực tế tăng trưởng ngoạn mục và phân phối công bằng hơn ở
các nền kinh tế Đông Á tương phản với bức tranh ảm đạm của các nước Mỹ
Latinh với tăng trưởng thấp và tình trạng bất bình đẳng gia tăng là một bằng
chứng sinh động ủng hộ chiến lược phát triển bền vững trong đó tăng trưởng
cao một cách bền vững cần đi đôi với thực hiện công bằng xã hội.
Các chính sách tăng trưởng mà không tính đến khía cạnh phân phối
thu nhập và phân phối cơ hội cũng như không gắn với xoá đói nghèo bền
vững sẽ khó duy trì được tăng trưởng trong dài hạn. Một khi chú trọng tới
chất lượng tăng trưởng thì khía cạnh phân phối và xóa đói nghèo không thể
giải quyết chỉ bằng chính sách tái phân phối thu nhập trực tiếp. Các biện
pháp gián tiếp nhằm tạo cơ hội cho người nghèo có thể tham gia nhiều hơn
vào quá trình tăng trưởng mới là cần thiết. Do đó, đầu tư cho giáo dục, y tế
và bảo vệ môi trường có tác động tích cực tới hình thành vốn con người và
vốn tài nguyên- được coi là hai yếu tố có ảnh hưởng lớn tới hoạt động sản
xuất và thu nhập của người nghèo. Tuy vậy, nếu chính sách đầu tư công chỉ
tập trung vào số lượng mà không coi trọng chất lượng và cách thức phân
phối thì sẽ không đạt được kết quả mong muốn. Việc thực hiện chính này đã
và đang gặp khó khăn tại nhiều nước dẫn đến tình trạng người giàu được tiếp
cận các nguồn lực dễ dàng hơn và hưởng lợi nhiều hơn so với người nghèo.
Một số nước đang phát triển có tỉ trọng chi cho các lĩnh vực xã hội khá cao
nhưng lại không cải thiện được kết quả giáo dục và thu nhập của người

nghèo. Chẳng hạn, một số nước ở Châu Mỹ La tinh có tỉ lệ nhập học của học
sinh nghèo khá cao, nhưng phần lớn chỉ có thể theo học tại các trường


công lập. Do chất lượng dịch vụ của các trường công lập thấp nên kết quả giáo
dục của học sinh nghèo kém so với học sinh giàu và vì vậy làm giảm cơ hội
tìm được việc làm có thu nhập cao của nhóm nghèo. Đây là một nguyên nhân
dẫn đến chênh lệch về thu nhập của các nước này khá cao. Như vậy, ở nhiều
trường hợp, vấn đề chưa hẳn là tăng chi ngân sách mà là phân phối lại nguồn
lực và cải thiện chất lượng của hàng hoá và dịch vụ công sao có lợi cho nhóm
người có thu nhập thấp.
Bên cạnh chính sách đầu tư công, các chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp
cận nguồn vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên và các biện pháp phổ biến kiến thức,
chuyển giao công nghệ cũng có ảnh hưởng tích cực tới mở rộng cơ hội tạo việc
làm có thu nhập cao hơn cho người nghèo. Cơ sở để thực hiện loại chính sách
(mang tính xã hội) này là các thị trường nhân tố, nhất là thị trường vốn trong các
nước đang phát triển thường không hoàn hảo. Vì vậy, người nghèo khó tiếp cận
các nguồn vốn đầu tư hơn người giàu và mất đi cơ hội đầu tư lẽ ra có thể mang
lại lợi suất cao hơn. Chi phí giao dịch cao cũng làm nản lòng và không tạo kích
thích cho người nghèo đầu tư, kể cả đầu tư vào vốn con người. Hệ quả là bất
bình đẳng về phân phối thu nhập không giảm, mà về dài hạn còn bất lợi cho tăng
trưởng1. Thực tế về mối quan hệ giữa nghèo đói, khía cạnh phân phối và tăng
trưởng đã làm cho vai trò của chính sách xã hội đối với quá trình tăng trưởng
ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Tóm lại, các lý thuyết kinh tế và bằng chứng thực nghiệm cho thấy mối
quan hệ giữa phân phối thu nhập và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ đa
chiều, hết sức phức tạp. Có quá nhiều khác biệt giữa các quốc gia đến mức
chúng ta không thể khái quát hóa tác động của tăng trưởng đến phân phối và
tác động của phân phối đến tăng trưởng cho tất cả các quốc gia. Điều này chỉ
ra rằng chúng ta cần hết sức cẩn trọng trong quá trình phân tích và rút ra các

hàm ý chính sách.
1

Có thể xem thêm Barro (1999) và nhiều tác giả khác.


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHẬP VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM

Trong những năm 1980, có rất nhiều người Việt Nam sống trong nghèo
khó. Cho đến nay, mặc dù những người nghèo thường rất nỗ lực, song thoát
khỏi đói nghèo vẫn còn là ước mơ đối với hàng triệu người dân, đặc biệt là ở
những vùng nông thôn của Việt nam. Giảm nghèo vì thế là một sứ mệnh
chính trị và xã hội rất quan trọng trong quá khứ cũng như trong giai đoạn hiện
nay. Cùng với nhiệm vụ giảm nghèo, việc duy trì sự bình đẳng cũng là một sứ
mệnh không kém phần quan trọng của công cuộc phát triển. Với nhận thức
được như vậy, Chính phủ Việt Nam tập trung vào cả ba mục tiêu là thúc đẩy
tăng trưởng nhanh một cách bền vững, đạt được thành công về giảm nghèo,
đồng thời vẫn duy trì một xã hội tương đối công bằng trong suốt công cuộc
đổi mới cho đến nay.
I. THỰC TRẠNG PHÂN PHỐI THU NHẬP

1. Đánh giá chung
Số liệu thống kê của bốn cuộc điều tra mức sống các hộ gia đình Việt
Nam ĐTMSDC 1993, ĐTMSDC 1998, ĐTMSDC 2002 và ĐTMSDC 2004
cho thấy Việt Nam đã đạt được những thành tích rất ấn tượng về giảm nghèo
trong thời gian qua. Tỉ lệ nghèo tính theo tiêu dùng đã giảm từ 58,1% năm
1993 xuống chỉ còn 19,5% năm 2004, một sự cắt giảm 39 điểm phần trăm
trong vòng mười một năm. Tỉ lệ nghèo năm 2004 chỉ là một phần ba của năm

1993. Đây là một thành tựu nổi bật nếu đem so sánh với Mục tiêu Thiên niên
kỷ đầu tiên của Liên hợp quốc là giảm một nửa tỉ lệ người cực nghèo trong
khoảng thời gian 15 năm từ năm 1990 đến năm 2015. Gần đây, Việt Nam đã


giảm một nửa tỉ lệ nghèo trong một thời gian ngắn hơn nhiều: sau 6 năm từ
1998 đến 2004 tỉ lệ nghèo giảm từ 37,4% xuống còn 19,5%. Như vậy đã có
khoảng 24 triệu người đã thoát khỏi đói nghèo trong khoảng thời gian 11
năm, trong đó có một nửa con số đó thoát khỏi đói nghèo trong giai đoạn
1993-1998 và nửa còn lại trong giai đoạn 1998-2004.
Hình 2. Tỉ lệ nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 1993-2004

Hình 3 cho thấy đối với bất cứ chuẩn nghèo nào được áp dụng, thì tỉ lệ
dân số sống dưới ngưỡng đó đều giảm theo thời gian tiến hành các cuộc điều
tra mức sống dân cư. Hình này cũng cho thấy điều kiện sống của các hộ gia
đình được cải thiện qua các lần điều tra như được thấy thông qua sự gia tăng
của chi tiêu diễn ra ở tất cả các nhóm dân cư.


Hình 3. Phân phối tích luỹ chi tiêu bình quân đầu người
(Tính theo giá 1-1993 )

Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1993 đến 2004
Cùng với việc cải thiện đáng kể về mức sống được thể hiện qua chi tiêu
các hộ gia đình gia tăng, các chỉ tiêu phi thu nhập phản ánh các khía cạnh về
mặt xã hội của cuộc sống trong mỗi hộ gia đình cũng được cải thiện đáng kể
trong những năm qua. Về mặt giáo dục, tỉ lệ nhập học ròng đã tăng lên đối với
tất cả các cấp. Đặc biệt là tỉ lệ nhập học ở cấp trung học phổ thông đã tăng
mạnh, từ 7,2% năm 1993 lên đến 63% trong năm 2004, tức là tăng gần 9 lần.
Tỉ lệ này đối với cấp trung học cơ sở cũng được cải thiện một cách đáng kể,

tăng 3 lần trong khoảng thời gian 11 năm. Tỉ lệ nhập học ở cấp tiểu học cũng
đã đạt được tỉ lệ cao trong năm 1993, nhưng tiếp tục tăng lên đạt đến tỉ lệ
94,6% trong năm 2004. Tuy nhiên các số liệu này không thể phản ánh chất
lượng của giáo dục hiện nay còn đang là luận văn gây tranh luận thường
xuyên trong dư luận công chúng. Về dịch vụ y tế, tỉ lệ các hộ gia đình có bảo
hiểm y tế và có thẻ bảo hiểm y tế tăng lên nhanh chóng trong những năm gần
đây: nếu năm 1998 chỉ có 16% số dân được bảo hiểm y tế thì con số này tăng
lên 38%, tức là tăng gấp 2,5 lần.


×