Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHF NƯỚC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.02 KB, 36 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
----- -----

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TIỀN TỆ NGÂN HÀNG
Đề tài:
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 ĐẾN NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Giáo viên hướng dẫn
Nhóm

: Cô Nguyễn Thanh Nhàn
:


LỜI MỞ ĐẦU
Từ tháng 11/ 2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
tổ chức thương mại thế giới WTO.Những lợi thế về thu hút vốn đầu tư trực tiếp
và gián tiếp, thị trường tiêu thụ sản phầm và động lực cạnh tranh quốc tế cũng
như hoàn thiện các yêu cầu của lộ trình thị trường hóa nền kinh tế trong khuôn
khổ WTO đã tạo nên mức tăng trưởng kinh tế vượt trội năm 2007.Kèm theo
những lợi thế, những bất lợi của quá trình toàn cầu hóa đối với kinh tế Việt Nam
đã ngày càng bộc lộ.Là một nên kinh tế nhỏ phụ thuộc vào nông nghiệp và gia
công chế biến, hiệu quả đầu tư thấp, trình độ lực lượng lao động ở mọi cấp độ có
khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường lao động quốc tế , khả năng tham
gia vào quá trình phân công lao động quốc tế của Việt Nam là hết sức hạn
chế.Hệ thống quản lý vĩ mô chưa đủ năng lực xử lý các mối quan hệ vĩ mô khi
phải đối mặt với dòng vốn nước ngoài và những ảnh hưởng của thị trường quốc
tế tới những cân bằng nội, thiếu khả năng đưa ra các chính sách dài hạn dựa trên


cơ sở phân tích và dự báo môi trường vĩ mô.Mức độ và tính sẵn sàng phối hợp
giữa các cơ quan làm chính sách rất thấp.Vì thế các chính sách thường là giải
quyết tình thế không đủ sức đối phó với những diễn biến rất nhanh chóng và
thậm chí ngược chiều của thị trường tài chính.
Mặc dù đã có bước tiến dài trong điều hành chính sách tiền tệ nếu nhìn từ
những năm 90 của thế kỉ XX đến nay nhưng những nền tảng cốt lõi để Ngân
hàng nhà nước thực sự đóng vai trò là Ngân hàng trung ương có quyền lực điều
tiết tiền tệ của nền kinh tế chưa được thiết lập đầy đủ:Mức độ độc lập, khả năng
phân tích dự báo và tầm thiết lập các chính sách dài hạn trên cơ sở một hệ thống
công cụ và mục tiêu được phân tích và lựa chọn có căn cứ.Điều này thể hiện rất
rõ qua các phản ứng chậm và ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước đối phó với các
tình trạng giảm phát (từ 2004 – 2006) và lạm phát kèm theo dấu hiệu của suy
thoái kinh tế mang tính toàn cầu (từ cuối năm 2007)
Trong thời gian tới, Ngân hàng nhà nước cần phải có một vị trí độc lập và
được tạo điều kiện để thể hiện quyền lực điều tiết tiền tệ mà không có sự can
thiệp quá sâu của Chính phủ.Trước mắt, Ngân hàng nhà nước cần có chiến lược
hoàn thiện hệ thống các tổ chức tin dụng – kênh chuyển tải chủ yếu của những
tác động của chính sách tiền tệ.
2


NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận
1.Cơ sở của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong
đó Ngân hàng trung ương, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm
soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền
tệ của nền kinh tế, nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn
việc làm. Bằng việc khảo sát thực tế phát triển kinh tế Mỹ trong khoảng thời
gian gần một thế kỷ, Milton Friedman đã chỉ ra mối liên hệ rất rõ ràng giữa sản

lượng và thu nhập với sự biến động của lượng tiền cung ứng (xét theo khái niệm
khối tiền rộng).Ông cũng đã chứng minh được sự tồn tại hiển nhiên của của cơ
chế lan truyền ảnh hưởng từ cung ứng tiền – lãi suất – sản lượng – thu nhập –
nhu cầu tiền.
Như vậy bằng cách tạo ra sự biến động về tiền tệ : mở rộng hay thu hẹp,
các nhà quản lý có thể tác động gián tiếp tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô và
hướng dẫn nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế.Việc chủ động tạo ra các biến động về
tiền tệ với một mục đích xác định là bản chất của chính sách tiền tệ.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là điều chỉnh lượng tiền cung
ứng nhằm ổn định giá trị tiền tệ, trên cơ sở đó góp phần làm tăng trưởng kinh tế
và công ăn việc làm.Cụ thể:
+ Ổn định giá cả
Là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của chính sách tiền tệ.Ổn định giá trị tiền
tệ là ổn định sức mua của tiền tệ và ổn định giá cả.Các ngân hàng trung ương
thường lượng hóa mục tiêu này bằng tỷ lệ tăng của chỉ số giá tiêu dùng xã
hội.Ổn định giá cả có tầm quan trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế
của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường
kinh tế vĩ mô.
+ Tăng trưởng kinh tế

3


Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế.Đó là tỷ lệ
tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ.Tốc độ tăng trưởng
kinh tế ổn định là nền tảng cho mọi sự ổn định, vì một nền kinh tế tăng trưởng sẽ
đảm bảo các chính sách xã hội được thỏa mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong
nước, cải thiện tình trạng của cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của
nền kinh tế trên thị trường quốc tế.

+ Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ
Chính sách tiền tệ phải đảm bảo tạo công ăn việc làm, giảm áp lực xã hội
của thất nghiệp.
2.Công cụ của chính sách tiền tệ
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi
Ngân hàng ương nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới khối lượng tiền
trong lưu thông và lãi suất, từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
2.1 Công cụ tái cấp vốn
Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân
hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân
hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
2.2

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc

Là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi
huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các Ngân hàng
thương mại.Mức dự trữ bắt buộc được quy định khác nhau căn cứ vào thời hạn
tiền gửi, vào quy mô và tính chất hoạt động của Ngân hàng thương mại.
2.3

Nghiệp vụ thị trường mở

Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn
trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến
khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng
cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ.
2.4


Lãi suất tín dụng
4


Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi
vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công
cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương
chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất
trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
2.5

Hạn mức tín dụng

Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng
Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín
dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc
các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Công cụ này thường được sử dụng trong trường hợp lạm phát cao nhằm
khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung ứng.Tuy nhiên hiệu quả
điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính linh hoạt và đôi khi đi
ngược lại với chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất
lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
2.6

Tỷ giá hối đoái

Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu

ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập
khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút
vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của
chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy
nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ
giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
II.Thực trạng
1.

Điều hành chính sách tiền tệ năm 2007

5


Từ sau đổi mới kinh tế đến nay, Việt Nam là một trong những nước có
nền kinh tế tiền mặt lớn nhất của thế giới và cũng là một đất nước có nền tiền tệ
lạc hậu của thế giới. Để đưa Việt Nam ra khỏi danh sách của những nước có nền
kinh tế tiền mặt lạc hậu, trong năm 2007 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã
triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010.Do việc
thanh toán và chi trả được thực hiện chủ yếu bằng tiền mặt làm cho việc quản lý
nhà nước đối với các khoản thu chi bằng tiền mặt trong khu vực nhà nước (đặc
biệt là các khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước) gặp rất nhiều khó khăn, việc
xác định lượng tiền cung ứng hàng năm cho phù hợp với lưu thông hàng hoá và
tiền tệ cũng gặp rất nhiều trở ngại. Để tồn tại tình trạng này là một trong những
mặt yếu kém của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ khi đất nước đi vào đổi
mới kinh tế đến nay.
Việc triển khai đề án thanh toán không dùng tiền mặt trong năm 2007 đã
đánh dấu một sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức đối với vai trò của thanh toán

không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Vì chưa nhận thức một cách đầy đủ và
sâu sắc việc tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, nên trong
nhiều năm qua Ngân hàng Nhà nước đã không kiểm soát được một cách đầy đủ
và có hiệu quả lưu thông tiền tệ. Thậm chí việc thanh toán bằng tiền mặt diễn ra
quá phổ biến đã làm vô hiệu việc thực hiện một số nguyên tắc trong chi tiêu của
các cơ quan sử dụng các nguồn kinh phí từ Ngân sách nhà nước. Việc sử dụng
tiền mặt không bị ràng buộc trong một quy định nào của Nhà nước đã tạo điều
kiện cho các hoạt động buôn bán lậu, trốn thuế, trốn tránh các nghĩa vụ đối với
Nhà nước có “đất” để tồn tại và phát triển.
Vì vậy, khi số lượng tiền mặt được sử dụng quá nhiều trong thanh toán và
chi trả, khối lượng tiền mở rộng M2, M3 (bao gồm: tiền mặt, séc du lịch, tiền
gửi không kỳ hạn, tiền gửi khác có thể phát hành séc-M1-, tiền gửi có kỳ hạn
lượng nhỏ, tiền gửi tiết kiệm, tài khoản gửi thị trường tiền tệ, cổ phần quỹ tương
trợ thị trường tiền tệ, hợp đồng mua lại qua đêm, đô la qua đêm, ...) rất khó được
xác định một cách chính xác.

6


Năm 2007, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng đã đưa ra đề án “Nâng
cao tính chuyển đổi của VND, khắc phục tình trạng đô-la hoá trong nền kinh tế”.
Vấn đề nâng cao tính chuyển đổi của VND đã được đặt ra từ những năm 80 của
thế kỷ trước, nhưng các điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam trong hơn 2 thập
kỷ qua chưa đủ để có thể đưa ra một lộ trình để cho VND sớm trở thành một
đồng tiền chuyển đổi được.Năm 2007, với việc trở thành thành viên chính thức
của WTO thì vị trí và vai trò của VND trên thị trường thế giới phải có những
thay đổi căn bản mới có thể hội nhập với kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả.
Đặc biệt là việc VND phải nhanh chóng trở thành một trong những đồng tiền tự
do chuyển đổi để tham gia vào thanh toán quốc tế.
Trước những đợt tăng giá liên tục của một số mặt hàng chiến lược trên thị

trường thế giới như xăng dầu vào những tháng cuối năm 2007, Ngân hàng Nhà
nước cũng đã kịp thời đưa ra giải pháp tổng thể nhằm kiềm chế tốc độ tăng giá
hàng tiêu dùng. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã có các giải pháp nhằm kiểm
soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán thông qua 2 biện pháp
chủ yếu là rút tiền từ lưu thông về và giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, giữ ổn
định lãi suất và tỷ giá hối đoái...
Để rút tiền từ lưu thông về, đến nay Ngân hàng Nhà nước vẫn sử dụng
các giải pháp truyền thống, đó là: tăng cường bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước
thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Tuy nhiên, trước một thực tế là, giá cả hàng
hoá tiêu dùng tiếp tục tăng mà chưa có cách nào để “kìm” nó lại thì việc các
Ngân hàng thương mại phải mua tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước với lãi suất
trung bình là 8% một năm để thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng Nhà nước, trong
khi các Ngân hàng thương mại phải trả lãi suất huy động vốn ngày càng tăng lên
thì việc các Ngân hàng thương mại đẩy lãi suất cho vay để bù đắp phần lỗ là một
điều tất yếu.
Việc rút tiền từ lưu thông về còn được thực hiện bằng cách tung tiền VND
để mua ngoại tệ chủ yếu vẫn là USD; thậm chí tiền đồng này được lấy từ nguồn
“phát hành”, không được đảm bảo bằng một quỹ vật tư-hàng hoá nào cả. Được
biết, năm 2007 kiều hối thu được qua con đường chính tắc tại thành phố Hồ Chí
7


Minh là 3,5 tỷ USD; cả nước là 5 tỷ ; còn nhiều tỷ USD kiều hối bằng rất nhiều
con đường khác nhau về Việt Nam phục vụ cho các hoạt động kinh doanh thì
Ngân hàng Nhà nước vẫn không có cách nào để kiểm soát. Có ngoại tệ, bắt buộc
là phải có VND đối ứng. Để có được sự đối ứng đó, không có cách nào khác là
Ngân hàng Nhà nước phải phát hành để đảm bảo nhu cầu lưu thông hàng hoádịch vụ được thực hiện một cách trôi chảy. Vấn đề đặt ra là, liệu cách rút tiền về
như thế này có tác dụng làm dịu cơn sốt giá cả ngày một tăng lên như hiện nay?
Tóm lại, những giải pháp mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra để góp phần
kiềm chế và đẩy lùi tốc độ tăng giá hàng vào dịp cuối năm 2007 vẫn chỉ là

những giải pháp mang tính truyền thống. Trong khi đó, sự vận động của hàng
hoá-tiền tệ tại Việt Nam có những đặc điểm riêng. Trong đó, việc sử dụng tiền
mặt rất lớn cho các thanh toán, chi trả, cũng như khối lượng ngoại tệ lưu thông
ngoài thị trường với đầy đủ các chức năng của tiền tệ là đặc điểm nổi bật nhất.
Bên cạnh đó là việc kiểm soát giá cả vẫn còn mang nặng tính hình thức theo
kiểu “cho có”; mà thực chất là đã có thời điểm trong năm 2007, Việt Nam đã
thả nổi giá đối với một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu; điều mà thực
trạng của kinh tế-xã hội của Việt Nam chưa có khả năng chịu đựng.Với những
đặc điểm này, việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ cần được xem xét
một cách kỹ lưỡng và thận trọng. Nếu không, mọi giải pháp mang tính truyền
thống của chính sách tiền tệ sẽ khó phát huy được tác dụng của chúng.
Trong năm 2007, một giải pháp cũng được dư luận chú ý, đó là giải pháp
“kiểm soát giá niêm yết”. Kiểm soát giá niêm yết có nghĩa là sử dụng “quyền”
của Nhà nước để điều hành giá cả. Tuy nhiên, giải pháp này cần được cân nhắc
một cách kỹ lưỡng.Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước trong điều
hành giá cả chỉ có thể xác lập được đối với giá cả của một vài mặt hàng có tính
chiến lược như xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, than, điện... Giá hàng hoádịch vụ thông thường được các nhà sản xuất kinh doanh xác định trên cơ sở chi
phí đầu vào, đầu ra cộng với các diễn biến trên thị trường, đặc biệt là các biến
động từ những diễn biến của quan hệ “Cung-Cầu” trên thị trường. Do vậy, nếu
đặt vấn đề xem “kiểm soát giá niêm yết” là một giải pháp để kiềm chế tốc độ
8


tăng giá thì không những hiệu quả do giải pháp này mang lại chắc chắn sẽ rất
thấp, mà có thể với giải pháp này mà người ta lại quá nhấn mạnh các giải pháp
có tính hành chính trong quản lý. Điều này khá xa lạ với kinh tế thị trường.
2.

Diễn biến của chính sách tiền tệ năm 2008


Năm 2008 là năm khủng hoảng tài chính Mỹ.Dấu hiệu đầu tiên của hoảng
loạn hệ thống tài chính là Lehman Brother Holdings, ngân hàng đầu tư hàng đầu
trên thế giới với 158 năm lịch sử và 26.000 nhân viên tuyên bố phá sản vào ngày
15/9/2008.Tiếp đến là tập đoàn tài chính lớn số 3 nước Mỹ là Merrill Lunch bị
bán cho tập đoàn Bank of America và công ty bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ AIG
cầu cứu trợ giúp đã làm cho hệ thống tài chính Mỹ thêm chao đảo.Nền kinh tế
tài chính lớn nhất thế giới bị khủng hoảng tất nhiên có ảnh hưởng lớn đến kinh
tế các quốc gia lân cận và có ảnh hưởng ít nhiều tới Việt Nam.Năm 2008, thị
trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi
suất, tỷ giá.Ngân hàng Trung ương đã thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu
quả, lúc thắt chặt, lúc nới lỏng, để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
đảm bảo an sinh, tạo đà cho năm 2009.
Trước bối cảnh phức tạp của nền kinh tế thế giới và trong nước sáu tháng
đầu năm, áp lực lạm phát gia tăng mang tính toàn cầu, CPI của Việt Nam trong 6
tháng tăng bình quân là 15,03%, mức thâm hụt cán cân thương mại ở mức kỷ
lục (hơn 14% GDP),trong tháng 2 và tháng 3, Ngân hàng Nhà nước đã tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc và mở rộng diện tiền gửi phải dự trữ bắt buộc ở tất cả các kỳ hạn
(trước đây chỉ có tiền gửi dưới 24 tháng phải dự trữ bắt buộc), phát hành tín
phiếu bắt buộc 20300 tỷ đồng cho các ngân hàng thương mại.Hạn chế tăng
trưởng tín dụng nóng bằng việc khống chế ở mức 30%,hàng loạt các chính sách
hỗ trợ chứng khoán hạn chế cho vay đối với bất động sản
Tuy nhiên, trên thực tế các Ngân hàng thương mại đã không phản ứng kịp
thời trước việc thắt chặt chính sách tiền tệ nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh tín dụng,
cùng với việc quản lý thanh khoản của các Ngân hàng thương mại còn bất cập
đã gây nên tình trạng thiếu khả năng thanh khoản tại nhiều ngân hàng.Để bù đắp
9


thiếu hụt thanh khoản, các ngân hàng thương mại đua nhau tăng lãi suất huy
động vốn trên thị trường, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian

này có thời điểm lên đến 35%/năm, nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, khả
năng đổ vỡ hệ thống ngân hàng có thể xảy ra.
Trước diễn biến thị trường như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời tăng
tính thanh khoản cho thị trường bằng cách bơm mạnh tiền qua nghiệp vụ thị
trường mở (OMO), chuyển từ đấu thầu lãi suất sang đầu thầu khối lượng, tăng
cường thanh tra, giám sát hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại,
thắt chặt điều kiện mở chi nhánh...
Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng lãi
suất huy động và mở rộng tín dụng của các Ngân hàng thương mại, do vậy buộc
Ngân hàng Nhà nước phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các Ngân
hàng thương mại không được vượt quá 12%. Giải pháp trên đã có tác động
nhanh chóng, tích cực “giảm đà tăng lãi suất huy động của các Ngân hàng
thương

mại”

chỉ

trong

vài

ngày.

Bước tiếp theo để tiếp tục tạo sự bình ổn thị trường bền vững qua cú “sốc” tháng
3, tháng 5, Ngân hàng Nhà nước thực hiện cơ chế điều hành lãi suất mới, theo
đó quy định các Ngân hàng thương mại cho vay nền kinh tế không vượt quá
150% lãi suất cơ bản và mức lãi suất cơ bản được điều chỉnh từ mức 12%/năm
lên


14%/năm.

Quy định này phù hợp với Bộ luật Dân sự hiện nay, đó như là một liệu pháp
mạnh mang tính tình thế đã có tác động ổn định lãi suất và tăng trưởng tín dụng
đã chậm lại từ tháng 5 cho đến hết năm.
Một diễn biến bất lợi khác trên thị trường ngoại hối trong tháng 5/2008 là
với mức thâm hụt thương mại lớn, lạm phát tăng cao, cộng với những thông tin
thất thiệt đánh giá về khả năng thanh toán ngoại tệ quốc gia đã làm thay đổi
hành vi của các nhà đầu tư trên thị trường làm cho tỷ giá đảo chiều.Vào thời
điểm cuối tháng 5 và những ngày đầu tháng 6, trên thị trường ngoại hối tỷ giá
tăng hàng ngày, có những ngày tỷ giá VND/USD lên mức 19.400 đồng /USD.

10


Để bình ổn thị trường ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện hàng
loạt biện pháp, như nới rộng biên độ tỷ giá từ ±1% lên mức ±2% tạo sự linh hoạt
tỷ giá sát với cung - cầu thị trường; thực hiện mở rộng đối tượng bán ngoại tệ
cho các Ngân hàng thương mại, việc can thiệp dựa vào trạng thái ngoại tệ của
các Ngân hàng thương mại trong ngày, thực hiện minh bạch các thông tin về dự
trữ ngoại hối. Các biện pháp này đã đáp ứng được các kỳ vọng của thị trường,
trên cơ sở đó tạo dựng lòng tin của thị trường với Ngân hàng Nhà nước.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động
kinh doanh ngoại tệ, cấm các tổ chức tín dụng không được mua - bán USD
thông qua ngoại tệ khác, phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra
và xử lý các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ trái pháp luật trên thị trường
và thiết lập đường dây nóng. Hành động này đã có tác động nâng cao kỷ luật thị
trường, góp phần tích cực tạo bình ổn thị trường.
Bước sang tháng 7, tình hình kinh tế thế giới diễn ra theo chiều hướng bất
ổn rõ nét: Từ khủng hoảng thị trường nhà đất của Mỹ chuyển sang khủng hoảng

tài chính mang tính toàn cầu, suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết nền kinh tế
chủ chốt, như Nhật, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc khu vực Euro Zone...; giá dầu
và giá lương thực giảm mạnh kéo theo giá các mặt hàng tiêu dùng khác giảm
theo...
Kinh tế thế giới đang từ xu hướng suy thoái kinh tế gắn lạm phát sang suy thoái
kinh tế gắn với giảm phát đang là nỗi lo của các quốc gia hiện nay. Để cứu nguy
cho tình hình này, hầu hết các nền kinh tế chủ chốt đã thực hiện chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa nới lỏng nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường,
khuyến khích các Ngân hàng thương mại mở rộng cho vay, kích thích đầu tư...
Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, để ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái
kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng
9, Ngân hàng Nhà nước đã phải tiếp tục áp dụng một số biện pháp hỗ trợ thị
trường như nâng lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc
bằng

VND…

Để kích thích kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát, bắt đầu từ tháng 10, các loại
11


lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp. Lãi suất
cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất tái chiết
khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, biên độ dao động tỷ giá được
nâng từ từ +/-2% lên +/- 3%... Hành động này nhằm tạo sự hợp lý giữa các công
cụ chính sách tiền tệ, giảm một phần chi phí hoạt động cho các Ngân hàng
thương mại, để các Ngân hàng thương mại có điều kiện hạ lãi suất cho vay hỗ
trợ cho các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu
trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái.
Các chỉ số thị trường tiền tệ (tốc độ tăng M2, tín dụng và lãi suất) và các

chỉ số kinh tế đạt được trong những tháng cuối năm cho thấy việc thực thi Chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước năm 2008, mặc dù có những bất cập nhất
định, nhưng thực sự đã có những tác động rất rõ nét đến việc ổn định thị trường
tiền tệ, ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng rất cao, tạo thế chủ động cho Ngân
hàng Nhà nước trong thực thi Chính sách tiền tệ, thiết lập được kỷ luật trên thị
trường tiền tệ mà trước đây rất lỏng lẻo, làm thay đổi thái độ và hành vi ứng xử
của các thành viên thị trường theo chiều hướng tích cực.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực thi các giải pháp điều
hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước có thời điểm còn thiếu đồng bộ, thị trường
ngoại hối trong những tháng đầu năm còn có những biến động gây khó khăn
nhất định cho hoạt động của các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, chất lượng
dịch vụ ngân hàng còn có những bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của xã
hội.Thắt chặt Chính sách tiền tệ cũng có những ảnh hưởng đến sản xuất của các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đó là cái giá phải trả trong
ngắn hạn để ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng, tạo sự tăng trưởng bền vững
trong tương lai.
3.Điều hành chính sách tiền tệ năm 2009
Năm 2009 , kinh tế thế giới và trong nước tiếp tục trải qua 1 năm đầy biến
động phức tạp, khiến việc điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền
tệ nói riêng gặp nhiều khó khăn thách thức. Để đạt được muc tiêu ngăn chặn suy
giảm kinh tế, chính sách tiền tệ đã được điều hành một cách linh hoạt, thận trọng
12


góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, kinh tế vĩ
mô vẫn chưa bền vững đòi hỏi phải nhận diện những khó khăn để có giải pháp
điều hành phù hợp.
Năm 2009,mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ đã được chính phủ
xác định chuyển từ ưu tiên kiềm chế lạm phát,ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an

sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng kinh tế sang ưu tiên ngăn chặn suy
giảm tăng trưởng, coi trọng ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội.
Để thực hiện mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra các biện pháp:
1.Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt và hiệu quả, điều chỉnh tỷ giá linh
hoạt theo tín hiệu thị trường, khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn
định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tiến hành cán cân thanh toán không để thâm hụt.
2.Có biện pháp cụ thể để tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng của các doanh nghiệp, tiếp tục xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, giảm lãi suất cơ bản phù hợp để hỗ trợ sản xuất kinh doanh
3.Nghiên cứu hướng dẫn các ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
theo lãi suất thỏa thuận
4.Các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất đối với các khoản vay cũ
theo lãi suất hiện hành để hỗ trợ các doanh nghiệp, không phạt nợ quá hạn đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn, thực hiện cơ cấu lại thời hạn nợ
và áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp với pháp luật đối với các hộ nông dân bị
thiệt hại do thiên tai và các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
5.Phối hợp với bộ Tài chính hướng dẫn ngân hàng phát triển Việt Nam
thực hiện nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Với các biện pháp như trên, tổng giá trị kinh tế gói kích cầu đã đưa ra lên
tới 146.000 tỷ đồng bao gồm các chương trình kích thích kinh tế như: Hỗ trợ lãi
suất vốn vay ngân hàng 17.000 tỷ đồng; Vốn đầu tư phát triển của nước ta là
90.800 tỷ đồng; Miễn giảm, giãn thuế 28.000 tỷ đồng; Các khoản chi khác nhằm
ngăn chặn kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội 9.800 tỷ đồng.

13


Trên cơ sở mục tiêu và chỉ đạo của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã
điều hành chính sách tiền tệ năm 2009 trên cơ sở áp dụng mô hình kiểm soát
khối lượng tiền, kết hợp với kiểm soát giá cả tiền tệ, để hỗ trợ tăng trưởng kinh

tế và kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý.Theo đó Ngân hàng Nhà nước coi việc
triển khai hỗ trợ lãi suất là công việc hàng đầu; các công cụ chính sách tiền tệ
được Ngân hàng Nhà nước điều hành chủ động, linh hoạt và thận trọng trên cơ
sở dự báo tốt và diễn biến kinh tế vĩ mô, diễn biến tiền tệ, tín dụng.
Cụ thể:
1.Triển khai cơ chế hỗ trợ lãi suất: sau khi Chính Phủ ban hành các quyết
định hỗ trợ lãi suất, Ngân hàng Nhà nước khẩn trương phối hợp với các bộ
ngành ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể việc triển khai. Các biện pháp tín
dụng tỏ ra là một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực cùng với việc sử dụng các
công cụ Chính sách tiền tệ, góp phần điều hành chính sách tiền tệ nhằm tạo điều
kiện cho các Tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, chia sẻ khó
khăn với các doanh nghiệp trong khó khăn của suy thoái nền kinh tế toàn cầu.


Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng

chính phủ ban hành quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của Ngân hàng
thương mại

Ban hành quy chế cho vay ưu đãi lãi suất theo chương trình hỗ trợ
62 huyện nghèo và các đối tượng chính sách

Chỉ đạo các Tổ chức tín dụng kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng
trưởng, dư nợ tín dụng, không hạ thấp các điều kiện tín dụng

Thực hiện chủ trương ngăn chặn suy giảm kinh tế , các Tổ chức tín
dụng đã thực hiện biện pháp về lãi suất, cơ cấu thời hạn trả nợ, chuyển đổi cơ
cấu tín dụng; các Ngân hàng thương mại nhà nước đi đầu trong việc giảm lãi
suất cho vay trước đây về mức cho vay lãi suất hiện hành
2.Về điều hành các công cụ Chính sách tiền tệ:

- Tiếp tục thực hiện cơ chế điều hành lãi suất đối với VND theo đó
các Tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất kinh doanh không vượt quá 150% lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.Riêng đối với cho vay các nhu cầu

14


vốn phục vụ đời sống,cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín
dụng thực hiện theo lãi suất thỏa thuận.
Cụ thể ngày 23/1/2009:Ngân hàng Nhà nước đã qui định mức lãi suất cơ
bản là 7%/năm và duy trì mức lãi suất này đến 25/11 là 8%/năm.
-Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu được điều
chỉnh giảm trong 2 tháng đầu năm nhưng được giữ ổn định cho tới tận 11/2009
trước khi điều chỉnh tăng 1% áp dụng từ 1/12/2009.
Cụ thể:

Lãi suất cơ bản 7%/năm

Lãi suất tái cấp vốn:8%/năm
Lãi suất tái chiết khấu: 6%/năm
-Dự trữ bắt buộc sau khi được điều chỉnh 1 lần đối với tiền gửi VND
không kì hạn và có kì hạn dưới 12 tháng trở lên từ 6% xuống 3%, tiền gửi VND
có kì hạn từ 12 tháng trở lên từ 2% xuống 1% , được giữ nguyên cho đến hết
năm.
- Thực hiện việc cung ứng tiền chủ yếu là bơm vốn qua kênh nghiệp
vụ thị trường mở(OMO).Thị trường mở được điều hành khá linh hoạt phù hợp
với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường chủ yếu là chào mua các giấy tờ có
giá; lãi suất được Ngân hàng Nhà nước công bố và thông qua đấu thầu kì hạn từ
1-2 tuần
- Tỷ giá được điều hành linh hoạt, kết hợp việc điều hành tăng tỷ giá

bình quân liên ngân hàng và điều chỉnh biên độ tăng tỷ giá vào tháng 3/2009 từ
±3% đến ±5% và lại giảm xuống ±3% vào cuối tháng 11/2009. Đặc biệt,
26/11/2009 Ngân hàng Nhà nước có sự điều chỉnh mạnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng lên 17.691VND/USD tăng 5,44% so với mức 17.034VND/USD của
ngày 25/11/2009.Việc làm này của Ngân hàng Nhà nước nhằm bình ổn thị
trường ngoại hối và hạn chế tình trạng kinh doanh ngoại hối trái pháp luật trong
bối cảnh thị trường ngoại hối phức tạp.Để ổn định việc điều hành linh hoạt tỷ
giá, Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai quyết liệt các biện pháp quản lý ngoại
hối như việc đẩy mạnh bán trên thị trường ngoại tệ với khối lượng lớn để đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu.Đồng thời, kiểm tra, giám sát
15


hoạt động của Tổ chức tín dụng và thị trường đặc biệt chú trọng (kết hợp cả
thanh tra tại chỗ và tăng cường giám sát từ xa), nhờ vậy hoạt động của các Tổ
chức tín dụng vẫn trụ vững trong bối cảnh nhiều tổ chức tài chính có uy tín trên
thế giới bị đổ vỡ.
- Ngoài ra Ngân hàng Nhà nước còn thực hiện nghiệp vụ hoán đổi
ngoại tệ, đây là một sự linh hoạt trong điều hành các Tổ chức tín dụng dư thừa
ngoại tệ trong khi thiếu hụt VND để đẩy mạnh tín dụng VND theo chương trình
hỗ trợ lãi suất
Nhờ việc thực hiện đồng bộ các giải pháp điều hành Chính sách tiền tệ và
hoạt động ngân hàng cùng với việc triển khai quyết liệt các biện pháp kích thích
kinh tế của các bộ ngành, có thể nói năm 2009 là năm Việt Nam khá thành công
trong chống khủng hoảng so với nhiều quốc gia trên thế giới.Điều này được
phản ánh qua các thành tựu:
1.

Tăng trưởng kinh tế tuy chậm lại nhưng Việt Nam vẫn là một trong


số ít các nước đạt tăng trưởng dương trong bối cảnh kinh tế thế giới và nhiều
nước lâm vào suy thoái.
2.
Lạm phát được kiểm soát ở mức 6,88% thấp hơn nhiều so với mức
19,89% của năm 2008 và thấp hơn so với chỉ tiêu của Quốc hội đặt ra và đạt chỉ
tiêu của chính phủ dưới 7%.
3.
Hệ thống các Tổ chức tín dụng vẫn hoạt động an toàn, tiếp tục phát
huy vai trò trung gian tài chính trong nền kinh tế, tăng khả năng cung ứng vốn
tín dụng và dịch vụ tiện ích cho nền kinh tế.
4.
An sinh xã hội được đảm bảo.
5.
Các nhà tài trợ quốc tế tiếp tục tin tưởng vào tiềm năng phát triển
kinh tế của Việt Nam và cam kết tài trợ 8,063 tỷ USD, là con số cao kỷ lục mà
các nhà tài trợ dành cho Việt Nam từ trước tới nay (bằng 1/6 con số cam kết trị
giá 47,452 tỷ USD trong giai đoạn 1993-2008)
4.Điều hành chính sách tiền tệ năm 2010
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm
2010 được đặt ra là 6,5%, lạm phát kiềm chế ở mức dưới 8%.Ngân hàng Nhà
nước đang làm mọi cách để thực hiện được điều này cùng với các cơ quan ban
16


ngành. Từ việc bình ổn giá cả thị trường cho đến điều hành chính sách tiền tệ
nhằm giảm mặt bằng lãi suất theo chỉ đạo của Chính phủ xuống 10% và 12%
(huy động và cho vay). Tỷ giá được duy trì ổn định ở mức 18.544 VND/USD,
trên thị trường tự do, giá USD đang có lúc xuống dưới 19.000.
Diễn biến CPI tháng 12/2009 tăng 1.38%, tháng 01/2010 tăng 1.36% và
tháng 02/2010 tăng 1.96% đã tác động đến tâm lý thị trường nên mặt bằng lãi

suất huy động VND trong quý I/2010 có xu hướng tăng, lãi suất cho vay VND
thực tế ở mức khá cao.
Với tình hình diễn biến thị trường như trên, Ngân hàng Nhà nước xem xét
trên cơ sở thắt chặt dần chính sách tiền tệ để phòng ngừa khả năng lạm phát cao
trở lại, nhưng cũng tránh việc thắt chặt đột ngột có thể gây “sốc” đối với nền
kinh tế cũng như đối với các hoạt động của các doanh nghiệp.Tại hội nghị toàn
ngành tổ chức vào ngày 23/12, Ngân hàng Nhà nước đã công bố mức tăng
trưởng tín dụng định hướng là 25%, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% của năm
2009, chỉ cao hơn một chút so với năm 2008, một năm điển hình cho chính sách
tiền tệ thắt chặt.Cũng tại hội nghị trên, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục khẳng định
quan điểm sẽ tập trung tín dụng và tạo điều kiện hỗ trợ cho các nhu cầu vay vốn
trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạn
chế tín dụng đối với các nhu cầu vốn ở các lĩnh vực phi sản xuất.Hướng dòng
vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức.Khi dòng vốn ngân
hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành,
lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay.Đặc biệt khi dòng vốn được
định hướng đúng đắn, tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất,... vàng) sẽ
giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định.
Chính phủ cần giảm bớt (hoặc kiểm soát chặt) tình trạng đầu cơ thái quá trong
nền kinh tế (như sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên Thị trường
chứng khoán, tiền tệ; các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu
vực sản xuất vật chất,...).Khi đó thị trường tiền tệ và ngoại hối sẽ ổn định.
Trước những biện pháp đồng bộ và quyết liệt của Ngân hàng Nhà
nước,mặt bằng lãi suất đã được bình ổn.Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế
17


của 4 ngân hàng thương mại nhà nước và 7 ngân hàng cổ phần có quy mô lớn
khoảng 13.3%.Lãi suất cho vay ngắn hạn phục vụ sản xuất nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu ở mức 12,5% đến 13%/năm, cho vay trung và dài hạn khoảng

14%/năm.Lãi suất tiền gửi USD của tổ chức tín dụng giảm 1,3 – 3,5%/năm và
duy trì ở mức 0,2 – 1%/năm.
Đặc biệt, trong năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các TCTD, có hiệu lực thi hành từ 1/10/2010 với một số điều
chỉnh so với các quy định trước đó nhằm phù hợp với hoạt động của các TCTD
trong giai đoạn mới.Thống đốc Nguyễn Văn Giàu khẳng định, vấn đề đảm bảo
an toàn hệ thống ngân hàng luôn được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đặc biệt
quan tâm.Từ thực tế của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu vừa qua, việc nâng cao tính an toàn của hệ thống ngân hàng càng trở nên
quan trọng hơn do hoạt động ngân hàng mang tính chất nhạy cảm và có tác động
rất mạnh mẽ đến sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Việc ban hành Thông tư
13 đã được NHNN tính toán kỹ lưỡng, thận trọng, trên cơ sở nắm rõ đặc điểm hệ
thống ngân hàng Việt Nam, kết hợp tham khảo các nước trên thế giới và xin ý
kiến Hiệp hội ngân hàng, các chuyên gia, các tổ chức tài chính trong nước và
nước ngoài. Thời gian hiệu lực của Thông tư kể từ ngày ký là trên 4 tháng cũng
đã được xem xét một cách phù hợp với thực tế, đủ để cho các TCTD có điều
kiện chuẩn bị thực hiện. Thông tư 13 là một thông tư dài và nhiều nội dung, chủ
yếu liên quan tới Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD.Trong đó, có một số nét chính:
• Nâng hệ số an toàn vốn CAR từ 8% lên 9%
• Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động (Đáng chú ý vốn huy
động theo quy định mới này sẽ không còn bao gồm: Vốn tiền gửi không kỳ hạn
của tổ chức, vốn tự có của Ngân hàng thương mại, vốn đầu tư của tổ chức)
Đây là một chủ trương đúng đắn trong việc đảm bảo an toàn hoạt động
của hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng và hệ thống tài chính tiền tệ nói
chung theo tiêu chuẩn quốc tế.Tuy nhiên, trong ngắn hạn, việc thực hiện quy
18



định của Thông tư 13 sẽ gây nên những tác động theo chiều hướng không thuận
lợi trong ngắn hạn.Lộ trình thực hiện các quy định của thông tư này đồng thời
với quá trình tăng vốn lên 3000 tỷ đồng đang tạo ra những khó khăn nhất định
cho các Ngân hàng thương mại cũng như tác động đến tâm lý đầu tư trên thị
trường chứng khoán.Đó là:
1.Thông tư ban hành là một trong những nguyên nhân chính cản đà giảm
của lãi suất
• Tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động trong đó nguồn vốn để
cung ứng tín dụng tín dụng không bao gồm tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức,
vốn tự có của Ngân hàng thương mại, đầu tư của tổ chức sẽ càng làm giảm khả
năng mở rộng tín dụng. Chưa tính đến việc các khoản này chiếm khoảng 15%
vốn huy động, khiến cho quy định này thực chất đã giảm tỷ lệ cho vay so với
vốn huy động tổng thể xuống còn khoảng 60-65%, mà chỉ nói đến quy định tỷ
lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động, thì riêng điều này đã tạo thêm
một cái khóa nữa cho ngân hàng trong nỗ lực tăng trưởng tín dụng.
• Cùng lúc với việc thực hiện thông tư 13/TT-NHNN, các ngân hàng lại bị
điều chỉnh bởi quy định chỉ được huy động trên thị trường 2 tối đa 20% số vốn
huy động thị trường 1.Các Ngân hàng buộc phải tăng huy động từ dân nếu muốn
tăng vay trên thị trường 2, điều này khiến các ngân hàng phải cạnh tranh gay gắt
trong việc lấy thị phần và nguồn huy động từ các chi nhánh mới.
2.Khó khăn cho việc tăng khả năng tạo tiền
• Quy định tỷ lệ cho vay không vượt quá 80% vốn huy động là quy định
chưa có thông lệ trên thế giới. Có thể chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc
biệt trong các giai đoạn mất an toàn. Quy định này làm giảm khả năng tạo tiền
và số nhân tiền tệ của hệ thống ngân hàng, vì một khoản tiền lớn huy động được
sẽ không dành để cho vay mà có thể nằm “chết” tại các Ngân hàng thương mại.
• Đồng thời làm giảm hiệu quả can thiệp giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước qua thị trường mở, cho vay liên ngân hàng theo định hướng của Ngân hàng
Nhà nước.Thực chất, sự cạnh tranh tăng lãi suất tiết kiệm vẫn lấn át định hướng
giảm của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và OMO nên sự hạ nhiệt chưa

19


truyền tải tới lãi suất tín dụng doanh nghiệp. Vì vậy, mặt bằng lãi suất chưa thể
hạ ngay và khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng thương mại đối với các
doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng bị hạn chế.
3.Có khả năng gây những tác động không tích cực đến khả năng hồi phục
của thị trường chứng khoán
• Thời điểm thực hiện chưa hợp lý: Mặc dù chủ trương đúng đắn, song
trong bối cảnh các điều kiện vĩ mô và hệ thống ngân hàng đang ở mức tốt: lạm
phát thấp, vấn đề nợ xấu ngân hàng không quá biến động, các Ngân hàng
thương mại không gặp vấn đề về thanh khoản hay thiếu vốn… , vấn đề thắt chặt
các quy định an toàn trong thời điểm đang gây nên những bất hợp lý. Với thời
điểm hiệu lực là 1/10/2010, bắt đầu quý cuối cùng của năm, vì lý do an toàn
hoặc làm đẹp bảng cân đối, sẽ có một làn sóng các ngân hàng nỗ lực tăng vốn và
bán chứng khoán (giảm tài sản rủi ro tăng tiền mặt). Điều này sẽ tác động tiêu
cực lên thị trường nhất là tại thời điểm khá nhạy cảm hiện tại khi khả năng hồi
phục của thị trường chưa chắc chắn.
• Việc nâng hệ số an toàn vốn CAR từ 8-9% là chủ trương đúng về dài
hạn. Tuy nhiên tác động chính trong ngắn hạn là khiến lãi suất khó có thể hạ và
tác động tiêu cực lên Thị trường chứng khoán – Điều mà các nhà đầu tư và thị
trường đang mong đợi để khích lệ niềm tin và thanh khoản
• Áp lực rất lớn cho Thị trường chứng khoán: Cùng với áp lực tăng vốn
lên 3000 tỷ của các Ngân hàng thương mại, lượng tiền lớn bị hút mạnh vào các
Ngân hàng thương mại trong khi nguồn cung niêm yết trên thị trường cũng tăng
mạnh và hút thêm vốn từ Thị trường chứng khoán.
Như vậy, việc triển khai các quy định của thông tư 13 xuất hiện một số
vấn đề bất cập mà điều kiện kinh tế vĩ mô chưa cho phép thực hiện.Bên cạnh đó,
đặc điểm của hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với các
nước trên thế giới, những năm gần đây, hệ thống ngân hàng phát triển rất nhanh

nhưng chưa đồng đều giữa các ngân hàng.Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã
ban hành Thông tư 19 sửa đổi một số điều của Thông tư 13 để sát với thực tế
hơn.
20




Điểm sửa đầu tiên của Thông tư 19 tại Khoản 2 Điều 1 là “Tỷ lệ

cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động” (Thông tư 13) được sửa thành “Tỷ lệ
cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”. Như vậy, ngoài phần vốn tự có, các Tổ
chức tín dụng được sử dụng phần còn lại vào hoạt động tín dụng theo Luật.


Điểm thứ hai, các Tổ chức tín dụng được tính tiền gửi Kho bạc vào

nguồn vốn huy động khi xác định “Tỷ lệ cấp tín dụng từ nguồn vốn huy động”.
Về vấn đề này, năm 2010, lượng tiền gửi Kho bạc tại các Ngân hàng thương mại
là rất lớn (khoảng 57.000 tỷ VND). Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước cho phép
các Tổ chức tín dụng được tính tiền gửi Kho bạc vào nguồn vốn huy động sẽ
không làm tăng tín dụng; theo lộ trình mới, tiền gửi Kho bạc tại các Tổ chức tín
dụng sẽ được giảm dần và không gây biến động lớn.


Điểm thứ ba, Thông tư 19 bỏ quy định tính toán phần “bảo lãnh”

vào tỉ lệ an toàn; do xét thấy thực tế nghiệp vụ bảo lãnh ở Việt Nam chưa phát
sinh nhiều và các khoản bảo lãnh của ngân hàng hầu hết giá trị không cao.



Điểm sửa đổi thứ tư, Thông tư 19 cho phép Tổ chức tín dụng cơ

cấu “25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế (trừ Tổ chức tín dụng)” vào
nguồn vốn huy động. Hiện nay, các tổ chức kinh tế có tiền gửi không kỳ hạn khá
lớn, nếu có biến động nhỏ có thể khiến hệ thống ngân hàng gặp khó khăn về
nguồn vốn. Theo khảo sát của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, biến động của
nguồn tiền gửi không kỳ hạn có thể lên đến 80%. Như vậy, lượng tiền còn tồn
lại khoảng 20%-30% tương đối ổn định. Chính vì thế, Thông tư 19 cho phép Tổ
chức tín dụng được sử dụng 25% tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức kinh tế để
cấp tín dụng.Tuy nhiên, Thống đốc cũng lưu ý đây là một tỉ lệ nhạy cảm, Ngân
hàng Nhà nước sẽ theo dõi sát sao việc thực hiện để tránh xảy ra đột biến.


Điểm thứ năm, Thông tư 19 cho phép các Tổ chức tín dụng có thể

sử dụng nguồn vốn từ “tiền vay của các Tổ chức tín dụng khác có kỳ hạn từ 3
tháng trở lên”. Việc cho vay này đòi hỏi các ngân hàng phải tính toán rất chặt
chẽ trên cơ sở thực tế và khả năng bảo đảm về quản trị rủi ro, hiện nay, phần
vốn này trên thị trường liên ngân hàng cũng chỉ vào khoảng 11.000 tỷ đồng
(chiếm 4,4%). Do đó, tác động tăng tín dụng cao từ quy định này là không có
21


khả năng xảy ra.Tiếp tục hài hòa hai mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và góp phần
tăng trưởng kinh tế.Tính đến ngày 27/9/2010, tăng trưởng tín dụng đạt 19,27%,
đến cuối tháng 9/2010 tăng khoảng 19,5%. Như vậy, chỉ tiêu tăng trưởng tín
dụng 25% cho cả năm sẽ thực hiện được. Những tháng cuối năm 2010, NHNN
theo dõi chặt chẽ diễn biến kinh tế vĩ mô và tình hình thị trường để có biện pháp
điều hành linh hoạt đảm bảo đúng mục tiêu đề ra.

III.Những vấn đề đặt ra trong điều hành chính sách tiền tệ năm 2010
1.Đối với công cụ lãi suất
Từ tháng 6/2002, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép áp dụng cơ chế lãi
suất thỏa thuận trong cả huy động và cho vay vốn.Song, từ năm 2008, khi kinh
tế trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, Ngân hàng nhà nước đã
khống chế trần lãi suất cho vay và sau đó khống chế cả trần lãi suất huy
động.Những vướng mắc trong việc áp dụng cơ chế trần lãi suất đã xuất hiện.Đó
là hiện tượng các ngân hàng thương mại rất e ngại trong việc cho vay trung và
dài hạn vì các khoản vay này được thực hiện trong thời gian dài, chi phí đầu vào
cao mà lãi suất cũng không thể cao hơn lãi suất các khoản vay ngắn hạn( cao
nhất chỉ bằng 150% lãi suất cơ bản). Do hạn chế về lãi suất đầu ra nên các ngân
hàng hoặc là đã cộng thêm các loại phí để nâng lãi suất của các món vay trung
dài hạn, hoặc là hạn chế cho vay. Để giải quyết vấn đề này, ngày 26/2/2010,
Ngân hàng nhà nước đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN, chính thức quy
định về cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng đối
với khách hàng. Theo đó, các tổ chức tín dụng được cho vay bằng VND theo lãi
suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật về cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và trên cơ sở cung – cầu vốn thị
trường, mức độ tín nhiệm của khách hàng vay. Quy định này áp dụng cho vay
trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và đầu tư phát triển. Như vậy, hiện nay, việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi
suất thỏa thuận đã giải quyết được những vướng mắc của ngân hàng về cơ chế
trần lãi suất, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn nhanh hơn. Cho vay
theo lãi suất thỏa thuận đồng nghĩa với việc ngân hàng có thể thỏa thuận với
22


khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần. Đây cũng là một quyết
định cần thiết trong việc tiến tới tự do hóa lãi suất. Tự do hóa lãi suất sẽ giúp cân
bằng cung – cầu vốn ở một mức lãi suất hợp lý và phản ánh đúng diễn biến của

thị trường tiền tệ.
Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế này một cách đầy đủ và linh hoạt đòi hỏi
Việt Nam phải có một nền tảng về kinh tế vĩ mô ổn định và cơ chế quản lý –
giám sát hiệu quả. Nếu không làm được điều này, tình trạng cho vay “nặng lãi”
ngay trong hệ thống ngân hàng rất dễ xảy ra và các rủi ro liên quan đến vấn đề
tín dụng có thể sẽ tăng lên đáng kể.Bởi lẽ việc cho vay theo thỏa thuận sẽ không
tránh khỏi trường hợp doanh nghiệp phải vay với lãi suất cao và mỗi doanh
nghiệp có mức lãi suất khác nhau do ngân hàng sẽ dựa trên mối quan hệ của
doanh nghiệp với ngân hàng thế nào và tiềm năng phát triển ra sao để đưa ra
mức lãi suất phù hợp. Ngoài ra, đối tượng thực hiện lãi suất cho vay mở rộng thì
việc kiểm soát mục đích các khoản vay phải hết sức nghiêm ngặt để tránh
trường hợp dòng vốn chảy ồ ạt vào các thị trường bất động sản, thị trường chứng
khoán chứ không được đưa vào sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, quyết định trên của Ngân hàng trung ương cũng làm giảm vai
trò của lãi suất cơ bản. Những diễn biến thực tế trên thị trường tiền tệ thời gian
qua cho thấy công cụ lãi suất cơ bản chưa phát huy hiệu quả cao trong điều hành
chính sách tiền tệ: Lãi suất cơ bản vừa qua không phản ánh được quan hệ cung cầu trên thị trường vốn, việc điều hành chính sách tiền tệ qua công cụ này còn
mang tính hành chính. Những tháng đầu năm, thực tế lãi suất huy động và cho
vay của các ngân hàng thương mại không còn neo vào lãi suất cơ bản, mà đã
biến tướng vượt biên độ quy định, trong khi Ngân hàng Nhà nước không thể
điều chỉnh biên độ quá 150% lãi suất cơ bản (do quy định của Điều 476 Bộ luật
Dân sự). Hơn nữa, việc cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận đối với các khoản
vay trung và dài hạn càng làm giảm đi vai trò của lãi suất cơ bản.
Trong khi lãi suất cho vay đã từng bước được tự do hóa thì trần lãi suất
huy động vẫn chưa được tháo gỡ. Theo Ngân hàng nhà nước, 2 tháng đầu năm
2010, tín dụng đối với nền kinh tế của toàn hệ thống tăng 1,4% trong khi đó vốn
23


huy động giảm 0,17% (chủ yếu do tiền gửi của tổ chức kinh tế giảm -5,94%,

trong khi tiền gửi của dân cư tăng 5,57%). Hệ thống Ngân hàng thương mại
đang khó khăn trong việc huy động nguồn vốn, đặc biệt là các nguồn vốn trung
và dài hạn. Nguyên nhân là do tâm lý lo lắng lạm phát của người gửi tiền nên
tập trung vốn vào các kênh đầu tư khác. Ngoài ra, để giải quyết các nhu cầu
thanh khoản của một số Ngân hàng thương mại trong ngắn hạn nên các Ngân
hàng thương mại cũng tập trung vào thu hút các nguồn vốn ngắn hạn. Việc huy
động vốn của các Ngân hàng thương mại hiện nay khá ì ạch do vướng trần huy
động 10,5%/năm.
Vì vậy, việc tăng trưởng tín dụng chỉ mạnh ở một vài ngân hàng lớn, có
vốn huy động dồi dào và vốn khả dụng lớn. Với tốc độ huy động hiện nay, theo
tính toán quý I/2010 tín dụng tăng dưới 1%/tháng, cả năm chỉ tăng khoảng 1920%. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải sớm xóa bỏ quy định về trần lãi suất
huy động 10,5%/năm để khơi thông và điều hòa dòng chảy về vốn. Đặc biệt,
đưa đường cong lãi suất trở về đúng quy luật, tăng huy động vốn trung-dài hạn
(hiện chỉ khoảng 10%) để tăng cho vay trung-dài hạn theo chủ trương kích cầu
của Chính phủ.
2.Đối với công cụ tỷ giá
Từ tháng 2/2010, Ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh hạ tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ nhằm nới lỏng nguồn cung ngoại tệ cho các ngân hàng. Cụ
thể là: các ngân hàng chỉ phải trích 4% tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng để dự
trữ bắt buộc, thay vì mức 7% hiện hành. Với kỳ hạn trên 12 tháng, các ngân
hàng phải dự trữ bắt buộc với mức 2% thay vì 3% hiện hành và áp dụng đối với
tất cả các Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần,
ngân hàng 100% vốn nhà nước, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, liên doanh và
chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc với các khoản tiền gửi dưới 12 tháng là 3% và trên 12 tháng là 1%.
Không chỉ hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng nhà nước còn quyết định
điều chỉnh tăng mạnh tỷ giá liên ngân hàng từ mức 17.941 đồng/USD lên mức
24



18.544 đồng/USD vào ngày 10/2/2010, theo đó các Ngân hàng thương mại có
quyền ấn định giá mua bán ở mức tối đa 19.100 đồng/USD, tăng hơn 3%.
Tổng cộng sau 2 lần tăng, tỷ giá đã tăng gần 9%. Đồng thời, quyết định ấn
định lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở
mức 1% nhằm ngăn chặn tình trạng găm giữ USD của các tổ chức quốc tế, giảm
mạnh so với mức 2-4,5% trước đó. Quyết định này của Ngân hàng nhà nước đã
chấm dứt cơ chế thỏa thuận lãi suất tiền gửi USD kéo dài 3 năm qua của các
Ngân hàng thương mại.
Tác dụng của việc điều chỉnh tỷ giá: Khuyến khích các doanh nghiệp xuất
khẩu đồng thời buộc các doanh nghiệp nhập khẩu phải cân nhắc việc sử dụng
ngoại tệ, qua đó hỗ trợ kiểm soát nhập siêu; Sau khi Ngân hàng nhà nước điều
chỉnh tỷ giá sát với kỳ vọng tỷ giá của thị trường và quy định trần lãi suất tiền
gửi bằng ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, lợi ích của việc nắm giữ USD đã
giảm, do vậy, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã phần nào được giải tỏa, thúc đẩy các tổ
chức, cá nhân bán ngoại tệ ra thị trường, qua đó giúp các doanh nghiệp có nhu
cầu nhập khẩu dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với ngoại tệ, tăng cường tính
thanh khoản trên thị trường ngoại hối; Thị trường ngoại hối đang có những
chuyển biến tích cực hơn, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu bán ngoại tệ, thanh
khoản thị trường được cải thiện. Tỷ giá trên thị trường tự do giảm nhẹ so với
thời điểm trước khi điều chỉnh tỷ giá, khiến chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và
tự do được thu hẹp từ mức trên 1.000 đ/USD hiện chỉ còn khoảng 300 – 400
VNĐ/USD. Điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam là quyết định đúng đắn và kịp thời
của Ngân hàng nhà nước để giải quyết những bất cập trên thị trường, nhằm kích
thích nguồn cung ngoại tệ phục vụ cho xuất khẩu và cải thiện nguồn dự trữ
ngoại hối.
Tuy nhiên,cùng với tình trạng đô-la hóa nền kinh tế, luôn xuất hiện tình
trạng hai giá trên thị trường ngoại hối (trong ngân hàng và ngoài thị trường tự
do), và mỗi khi nền kinh tế gặp khó khăn thì chênh lệch giá giữa hai thị trường
này ở mức rất cao, gây khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ. Thực tế,

người dân Việt Nam đã quen với việc tìm đến thị trường tự do để giải quyết nhu
25


×