Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục lục
Trang
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2
1. Khái niệm 2
2. Phân loại 2
3. Những mục tiêu của chính sách tiền tệ 2
a. Mục tiêu về tiền tệ 2
b. Mục tiêu kinh tế 3
4. Các khó khăn của chính sách tiền tệ trên thực tế 4
II. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM 4
1. Năm 2007 4
a. Bối cảnh kinh tế năm 2007 4
b. Biện pháp điều hành của NHNN Việt Nam 5
c. Những kết quả đạt được 6
2. Năm 2008 7
a. Bối cảnh kinh tế năm 2008 7
b. Biện pháp điều hành của NHNN Việt Nam 7
c. Những kết quả đạt được 9
3. Năm 2009 10
a. Bối cảnh kinh tế năm 2009 10
b. Biện pháp điều hành của NHNN Việt Nam 10
c. Những kết quả đạt được 12
4. Năm 2010 13
a. Bối cảnh kinh tế năm 2010 13
b. Biện pháp điều hành của NHNN Việt Nam 13
c. Những kết quả đạt được 15
III. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHTW CÁC NƯỚC 16
1. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) 16
2. NHTW các nước châu Á 18
IV. ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH 20
V. DANH SÁCH NHÓM 7 22
I. TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Khái niệm
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng
tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như
kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng
trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất
định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức
dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
2. Phân loại
Chính sách mở rộng tiền tệ: áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất
nghiệp gia tăng. Trong tình hình này, chính sách nớ lỏng tiền tệ làm tăng lượng tiền cung
ứng cho nền kinh tế, mở rộng đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao
động.
Chính sách thắt chặt tiền tệ: áp dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá, đồng
thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ làm giảm lượng tiền lưu
thông trong nền kinh tế, nhằm để chống lạm phát.
3. Những mục tiêu của chính sách tiền tệ
a) Mục tiêu về tiền tệ
Điều hòa khối tiền tệ: là giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tiền và hàng. Nguyên tắc
chung để đạt được mục tiêu này là giữ nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ tùy theo tình
hình các nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái.
Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền: việc kiểm soát giá cả thiếu cơ sở vững chắc
vì ngoài yếu tố khối tiền tệ (M) còn có yếu tố tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tác động đến vật
giá. Bởi vậy cần thiết phải kiểm soát tổng số thanh toán hay tổng số lượng tiền tệ dùng để
chi trả trong các cuộc giao dịch và trong một khoảng thời gian nhất định.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền: Chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu ổn
định giá nói chung. Sự gia tăng hay sụt giảm quá mức của vật giá điều có tác hại đến sự ổn
định giá trị quốc nội của đồng tiền và là biểu hiện của sự thăng trầm kinh tế.
Ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền: Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến
sức mua của đông tiền, từ đó tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo
mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó.
b) Mục tiêu kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: lãi suất và số cầu
tổng quát. Khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng
quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản
lượng quốc gia, tức là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền
tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ
thích hợp.
Giảm thiểu những thăng trầm chu kỳ kinh tế:
Mở rộng khối tiền tệ trong giai đoạn suy.
Điều tiết khối tiền tệ đảm bảo vừa chống lạm phát vừa không ngưng trệ.
Sớm chuyển sang tăng trưởng kinh tế với tỷ lệ lạm phát chấp nhận được.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Giảm lạm phát và thất nghiệp.
Ổn định giá cả.
Điều chỉnh tỷ giá.
4. Các khó khăn của chính sách tiền tệ trên thực tế
Thứ nhất, cung ứng tiền bao gồm cả các khoản tiền gửi ngân hàng, mà nó được quyết
định một phần bởi hoạt động của ngân hàng trung ương, và một phần do quyết định của
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các hộ gia dình/doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó, sự thay đổi trong cung ứng tiền có thể
không chính xác như ngân hàng mong muốn.
Thứ hai, có một loạt độ trễ trong việc thực thi chính sách tiền tệ, điều này có nghĩa là
có thể mất đến 18 tháng để áp dụng được chính sách tiền tệ cho toàn bộ nền kinh tế - điều
này có thể đến quá trễ! Ví dụ, ngân hàng trung ương có thể giảm lãi suất, nhưng các dự án
đầu tư cần thời gian để xây dựng và thực hiện, và các nhà máy có thể không hình thành và
hoạt động trong khoảng thời gian mong muốn.
Thứ ba, chính sách tiền tệ sẽ tác động đến giá cả, và điều này có thể có tác động cản
trở đến chính sách tiền tệ. Ví dụ, nếu chúng ta đạt đến mức có đầy đủ việc làm, một chính
sách tiền tệ tăng lên sẽ làm tăng mức giá cả, và có ảnh hưởng nhỏ đến GDP thực tế và mức
giá.
II. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA
NHNN VIỆT NAM
1. Năm 2007
a) Bối cảnh kinh tế năm 2007
Sau một năm gia nhập WTO, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành công.
Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng
khoảng 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ 2001 – 2007.
Nguồn vốn huy động của năm 2007 qua hệ thống ngân hàng tăng 39,6% so với cuối
năm 2006 và là năm có tốc độ tăng huy động vốn cao nhất so với nhiều năm trước đây.
Tốc độ tăng GDP của Việt nam là 8,44% đứng thứ 3 châu Á (sau Trung Quốc: 11,3%
và Ấn Độ khoảng: 9%)
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, vẫn còn những vấn đề đang làm nhiều
người quan tâm, lo lắng đó là nhập siêu và tỷ lệ lạm phát cao: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là
12,63%.
b) Biện pháp điều hành của NHNN Việt Nam
Trong năm 2007, mục tiêu duy trì mức giảm giá đồng tiền một vài phần trăm, tạo
điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu trở nên khó khăn hơn khi mà lượng ngoại tệ chảy vào
Việt Nam gia tăng mạnh mẽ do sự bùng nổ của thị trường chứng khoán và các dòng vốn
khác được khai thông tốt hơn.
Đồng Việt Nam không những không giảm mà còn có dấu hiệu tăng giá so với đồng
Đôla, gây bất lợi cho xuất khẩu. Thêm vào đó, nhập khẩu trong quí 1 lại tăng đột biến đã
làm cho thâm hụt cán cân ngoại thương trở nên trầm trọng hơn.
Đứng trước áp lực nêu trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tung tiền đồng để mua
vào một lượng lớn ngoại tệ. Chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3
tỉ Đôla, tương đương với gần 50.000 tỉ đồng được đưa vào lưu thông. Do đó những ngày
đầu tháng 6/2007, tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng Đôla đã tăng trở lại lên mức trên
16.100. Việc bơm thêm một lượng lớn tiền đồng vào nền kinh tế làm áp lực lạm phát gia
tăng, khi mà mới năm tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng trong nước đã tăng 7,3% so với
cùng kỳ năm 2006
Điều này làm cho mục tiêu khống chế mức tăng giá trong năm 2007 ở con số 6,5%
trở nên khó khăn hơn. Để giảm bớt áp lực gia tăng của chỉ số giá NHNN đã tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10%.
Như vậy, với hai biện pháp can thiệp được đưa ra, ít nhất ba mục tiêu đã đạt được
gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng
lại không gây áp lực lạm phát.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thực hiện Quyết định số 597/QĐ-TTg ngày 11/5/2007 NHNN đã duy trì hạn mức
Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng bằng 30% tổng dự trữ ngoại hối nhà nướcb(xác định theo
quý) với biên độ +/- 10%
Việc xác định hạn mức như vậy cho phép NHNN tăng cường tính linh hoạt trong điều
hành tỷ giá, kịp thời ứng phó với các rủi ro đảo chiều của các nguồn vốn, đặc biệt là các
nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài.
Ban hành Chỉ thị số 06/2007/CT-NHNN ngày 02/11/2007 về yêu cầu các tổ chức tín
dụng và các đơn vị trực thuộc NHNN thực hiện các giải pháp đảm bảo khả năng thanh toán
và kiểm soát tổng phương tiện thanh toán.
c) Những kết quả đạt được
Với việc thực thi CSTT như trên về cơ bản đạt được mục tiêu đề ra là ổn định tiền tệ,
kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ vốn tạo môi trường thuận lợi
cho tăng trưởng kinh tế.
Lãi suất huy động và cho vay vẫn giữ được ổn định và có xu hướng giảm nhẹ. Tính
đến cuối tháng 9/2007, huy động vốn của các TCTD tăng 31,2%, ước cả năm tăng 39,6%,
cao hơn tốc độ tăng 33,1% của năm 2006; tín dụng đến cuối tháng 9 tháng tăng 30,9%, ước
cả năm tăng 37,8%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng 22,8% của năm 2006.
Tỷ giá danh nghĩa giao động nhẹ và có xu hướng giảm, trong bối cảnh lạm phát gia
tăng đã góp phần tích cực trong việc ổn định lãi suất VND và ổn định thị trường tiền tệ.
Mặt khác, tỷ giá thực thấp hơn tỷ giá hối đoái danh nghĩa trên thị trường, cho nên tác động
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, hỗ trợ ổn định lãi suất VND.
Tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 19,3% năm 2006 xuống
mức 17,8% năm 2007.
Tỷ lệ ngoại tệ trên tổng tiền gửi từ mức 25,9% năm 2007 xuống còn 22,6% năm 2007
- giảm mức độ đô la hoá của nền kinh tế.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chất lượng tín dụng được cải thiện: Tỷ lệ nợ xấu tháng 9/2006 là 2,2%, có xu hướng
giảm so với tháng 12/2006 (2,64%), trong đó tỷ lệ nợ xấu của các nhóm TCTD đều giảm.
Cụ thể là: tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nhà nước là 2,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các
NHTM cổ phần là 1,26% (giảm 0,34%); tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng liên doanh và chi
nhánh nước ngoài là 0,8% (giảm 0,4%); tỷ lệ nợ xấu của các TCTD khác là 2,4% (giảm
0,5%).
2. Năm 2008
a) Bối cảnh nền kinh tế năm 2008
Thị trường BDS chỉ trong vài tháng đã gia tăng chóng mặt, giá tăng từ 2 đến 3 lần so
với năm 2007 đã tạo thành những bong bóng BDS đe dọa nhà đầu tư.
Thị truờng chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi xuống với
tốc độ 30%.
Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ yếu
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng.
Vô tình chúng ta đã vướng vào một vòng tròn mang tên "Tín dụng".
b) Chính sách điều hành của NHNN
Ngay từ đầu năm, NHNN đã điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc
độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm
bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. Để thực
hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể
Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như đầu
tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua việc:
Siết chặt các điều kiện cho vay, khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ
có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bất
động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ hơn
nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn ngoại tệ.
Sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, thị trường mở để
điều tiết lượng vốn khả dụng của các NHTM và từ đó tác động lên khả năng cung vốn
ngân hàng ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể:
Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và
các TCTD hoạt động trên địa bàn nông thôn).
Tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20300 tỷ
đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1000
tỷ đồng (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương).
6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với kiểm
soát tăng trưởng dư nợ tín dụng và đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền:
Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi suất
chiết khấu lên 11%/năm.
Tăng lần 2: Lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi suất
chiết khấu lên 13%/năm.
Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/4/2008 về việc thu hẹp đối tượng cho vay
vốn bằng ngoại tệ (nhằm hạn chế nhập siêu, nhu cầu vay vốn của khách hàng không sử
dụng vốn vay bằng ngoại tệ nhưng vẫn xin nhận nợ bằng ngoại tệ để hưởng lợi từ chênh
lệch lãi suất giữa VND và USD tại thời điểm đó).
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất theo trần mà theo đó,
lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản.
8