Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.33 KB, 40 trang )

Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA NGÂN HÀNG
------------------

BÀI THẢO LUẬN

SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TRONG
ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
NĂM 2008- 2010
Nhóm thực hiện: NHÓM 8
Giáo viên hướng dẫn: Lê Thị Tuấn Nghĩa

- Hà nội, 2010 -

1


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

LỜI NÓI ĐẦU
Là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước, chính sách tiền tệ đóng vai trò
hết sức quan trọng trong quá trình đạt tới những mục tiêu: ổn định giá cả, tăng trưởng
kinh tế và bảo đảm công ăn việc làm đầy đủ. Qua việc phối hợp sử dụng rất nhiều các
công cụ, từ lãi suất, tỷ giá đến dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, v.v…, mỗi
Nhà nước cần giải những bài toán phức tạp để thực hiện một chính sách tiền tệ thắt
chặt hay nới lỏng phù hợp và hiệu quả nhất với tình hình quốc gia mình.
Vai trò của chính sách tiền tệ càng trở nên đặc biệt quan trọng vào những giai đoạn
mà nền kinh tế xảy ra nhiều biến động như từ cuối năm 2007 đến nay, giai đoạn của


khủng hoảng tài chính toàn cầu và những hệ lụy của nó. Bài thảo luận này tập trung
tổng hợp và phân tích việc Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ để điều hành
chính sách tiền tệ trong các năm 2008- 2010 cùng những kết quả đạt được, đây cũng là
khoảng thời gian nền kinh tế nước ta xảy ra nhiều biến động nhất ở các chỉ tiêu lạm
phát, tăng trưởng GDP, tăng trưởng tín dụng, v.v… cũng như những chuyển biến trong
mục tiêu kinh tế đề ra của Chính phủ. Nội dung chính bài nghiên cứu về “Sử dụng các
công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam năm
2008- 2010” gồm những phần sau:
-

Các công cụ của chính sách tiền tệ

-

Việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam năm 2008- 2010

-

Những vấn đề đặt ra trong việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ
trong thời gian tới.

2


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

MỤC LỤC
1.


CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ..
………………………………6

1.1. Định nghĩa………………………………………………………………………….6
1.2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ…………………………………………..6
1.3. Chính sách mục tiêu lạm phát……………………………………………………...6
1.4. Các công cụ của chính sách tiền tệ……………………………………………… . 7
2. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NHNN VIỆT NAM NĂM 2008- 2010………...……..…………………..……..9
2.1. NĂM 2008…………………………………………………………………….…...9
2.1.1. Giai đoạn một: Chính sách tiền tệ thắt chặt nửa đầu năm 2008………………...10
2.1.1.1. Bối cảnh kinh tế……………………………………………………………….10
2.1.1.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ.……………...……………………..11
a/ Công cụ lãi suất………………...………………………………………………..12
b/ Công cụ dự trữ bắt buộc………………………………………………………...13
c/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở……………………………………………….13
d/ Công cụ tỷ giá…………………………………………………………………...14
2.1.1.3. Kết quả đạt được …….……………………………………………………….15
2.1.2. Giai đoạn hai: Chính sách tiền tệ nới lỏng cuối năm 2008….………………….16
2.1.2.1. Bối cảnh kinh tế.………………………………………………………………16
2.1.2.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ.……………...……………………..17
a/ Công cụ lãi suất....................…………………………………………………….17
b/ Công cụ dự trữ bắt buộc………………………………………………………...18
c/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở……………………………………………….19
d/ Công cụ tỷ giá…………………………………………………………………...20
2.2.3. Kết quả đạt được………………………………………………………………..20
2.3. Một số hạn chế của chính sách tiền tệ năm 2008…………………………………21
2.2. NĂM 2009………………………………………………………………..………23
2.2.1. Tình hình kinh tế năm 2009….…………………………………………………23


3


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

2.2.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2009….……..…………………25
a/ Công cụ lãi suất.....................................................................................................25
b/ Công cụ dự trữ bắt buộc.......................................................................................26
c/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.........................................................................27
d/ Công cụ tỷ giá.......................................................................................................27
2.2.3. Kết quả đạt được.……………………………………………………………….29
2.2.4. Một số hạn chế của chính sách tiền tệ năm 2009….……………………………30
2.3. NĂM 2010………………………………………………………………………..31
2.3.1. Tình hình kinh tế năm 2010…………………………………………………….31
2.3.2. Một số điểm nổi bật của việc sử dụng các công cụ trong điều hành chính sách
tiền tệ năm 2010……………………………………………………………………….33
a/ Công cụ lãi suất………………………………………………………………….33
b/ Công cụ tỷ giá…………………………………………………………………...34
2.3.3. Nhận xét về chính sách tiền tệ năm 2010……………………………………….35
3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CSTT
TRONG THỜI GIAN TỚI…………………………………………………………..37

4


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

1. CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. Định nghĩa
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó Ngân

hàng trung ương, thông qua các công cụ của mình, thực hiện việc kiểm soát và điều tiết
khối lượng tiền cung ứng ( hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế,
nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm
1.2. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ luôn hướng đến 3 mục tiêu cuối cùng:
 Thứ nhất, Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài hạn của chính
sách tiền tệ. Các NHTW thường lượng hóa mục tiêu này bằng tỷ lệ tăng của chỉ
số giá tiêu dùng xã hội
 Mục tiêu thứ hai là chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế.
 Đồng thời, chính sách tiền tệ phải quan tâm đến khả năng tạo công ăn việc làm,
giảm áp lực xã hội của thật nghiệp.
Bằng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương
không thể tác động trực tiếp và ngay lập tức đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh
tế, mà phải đợi từ 6 tháng đến 2 năm. Để khắc phục hạn chế này, Ngân hàng trung
ương của tất cả các nước thường xác định các mục tiêu trung gian trước khi đạt được
mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải đáp ứng được những tiêu chuẩn: có thể
đo lường được, NHTW có thể kiểm soát được, có mối liên hệ chặt chẽ với mục tiêu
cuối cùng. Các mục tiêu thường được sử dụng đó là tăng khối lượng tiền cung ứng
( M1, M2, M3) hoặc mức lãi suất thị trường ( ngắn và dài hạn)
Chỉ tiêu hoạt động là các chỉ tiêu có phản ứng tức thời với sự điều chỉnh của công
cụ chính sách tiền tệ, thông thường bao gồm: Lãi suất liên ngân hàng, dự trữ không vay
và dự trữ đi vay.

5


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

1.3. Chính sách mục tiêu lạm phát
Chính sách này xuất phát từ lý luận cho rằng tỷ lệ làm phát thấp và ổn định sẽ góp

phần quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. và giảm thất nghiệp,
đồng thời tránh được mâu thuẫn trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Lạm phát mục tiêu là một cơ chế CSTT, trong đó NHTW cam kết một cách công
khai về việc giữ tỷ lệ lạm phát trong một vùng mục tiêu nhất định với 5 nội dung:
 Thứ nhất, công bố rộng rãi những mục tiêu lạm phát trung hạn bằng những con
số cụ thể.
 Thứ hai, cam kết mục tiêu bình ổn giá cả là mục tiêu duy nhất hay hàng đầu của
chính sách tiền tệ.
 Thứ ba, có chiến lược tập trung thông tin, tổng hợp phân tích nhiều biến số để
quyết định sử dụng các công cụ chính sách.
 Thứ tư, tăng cường tính minh bạch của chính sách tiền tệ thông qua đối thoại với
công chúng và thị trường.
 Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương để hướng tới các
mục tiêu lạm phát đề ra.
1.4. Các công cụ của chính sách tiền tệ
Là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh hưởng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó mà đạt được các
mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.4.1. Công cụ trực tiếp: là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu
thông. Hiện nay thường được sử dụng phổ biến là hạn mức tín dụng.
- Hạn mức tín dụng là mức dự nợ tối đa mà NHTW buộc các tổ chức tín dụng phải
tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Công cụ này thường được sử dụng trong
trường hợp lạm phát cao nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng cung
ứng. Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và

6


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)


đôi khi ngược lại với chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất
lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
- Bên cạnh hạn mức tín dụng, NHTW có thể điều tiết trực tiếp các mục tiêu trung
gian thông qua ấn định lãi suất hoặc tỷ giá.
1.4.2. Công cụ gián tiếp: Các công cụ này tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động
của chính sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này truyền đến mục
tiêu trung gian là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm công cụ này bao gồm dự
trữ bắt buộc, chính sách tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở.
- Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NHTM buộc phải duy trì trên một tài khoản
tiền gửi không hưởng lãi tại NHTW, được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định
trên tổng số dư tiền gửi tại một khoảng thời gian nào đó. Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc và dó đó mức dự trữ bắt buộc ảnh hường đến lượng cung tiền theo 3 cách:
 Thứ nhất, Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm khả năng cho vay của NHTM
 Thứ hai, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm hệ số tạo tiền và khả năng mở rộng
tiền gửi của hệ thống NHTM
 Thứ ba, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc làm giảm mức cung vống của NHTW trên thị
trường lien ngân hàng. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không đổi, sự
giảm sút này làm tăng lãi suất lien ngân hàng, ảnh hưởng mức lãi suất dài hạn
và khối lượng tiền cung ứng.
- Chính sách tái chiết khấu: bao gồm các quy định và điều kiện cho vay của
NHTW đối với các NHTM. Trong công cụ này, NHTW ấn định hạn mức tái chiết khấu,
lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu. Qua đó, khối lượng vốn khả dụng
được bổ sung từ NHTW có thể bị giới hạn or nới rộng , ảnh hưởng khả năng tạo tiền
của NHTM, làm quan hệ cung cầu vồng và lãi suất thị trường lien ngân hàng thay đổi.
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào giá đầu vào của NHTM,
vì thế các ngân hàng này dần tăng ( hoặc giảm) lãi suất cho vay, do đó làm giảm (hoặc

7



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

tăng) nhu cầu tín dụng. Từ đó, giảm bớt (hoặc mở rộng) khả năng cung ứng tín dụng để
phúc hồi dự trữ.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động của NHTW trên thị trường mở thông qua
việc mua bán các chứng khoán. Các hoạt động này ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ
NHTM và gián tiếp đến mức lãi suất.
Khi NHTW mua (bán) chứng khoán, nó làm tăng (giảm) ngau lập tức dự trữ
NHTM, vì thế khả năng tạo tiền gửi thông của cung ứng tín dụng của NHTM giảm
xuống, ảnh hưởng lượng tiền cung ứng.
Khi vốn khả dụng của từng NHTM giảm (tăng) do tác động của hoạt động thị
trường mở, mức cung vốn trên thi trường tiền tệ liên ngân hàng giảm (tăng). Trong
điều kiện yếu tố khác không đổi, lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên (giảm
xuống). Kết quả chi phí cơ hội với người có vốn dư thừa và giá vống đầu tư đối với
người thiếu hụt vốn tăng (giảm) , làm giảm nhu cầu đàu tư và nhu cầu tiêu dùng, do đó
giảm sản lượng, giá cả và công ăn việc làm.
Hoạt động thị trường mở ảnh hưởng cung cầu, do đó giá các chứng khoán thuộc
phạm vi can thiệp, chủ yếu là tín phiếu kho bạc. Trường hợp NHTW bán chứng khoán,
làm giá cả chứng khoán giảm, mức sinh lời của chúng tăng, buộc các tổ chức nhận tiền
gửi tăng lãi suất để hạn chế tình trạng “ phi trung gian hóa”. Lãi suất chứng khoán mới
phát hành tăng tương ứng. Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả
nhất vì nó linh hoạt và chủ động.
*****
2. SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NHNN VIỆT NAM NĂM 2008- 2010
2.1. NĂM 2008

8



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

Trong năm 2008, kinh tế nước ta có nhiều biến động khiến Chính phủ phải hai lần
chuyển đổi mục tiêu ưu tiên với các nhóm giải pháp phù hợp. CSTT của NHNN cũng
được điều chỉnh thay đổi linh hoạt nhằm hỗ trợ thực hiện các mục tiêu đó. Trong 6
tháng đầu năm, với mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, NHNN đã kịp thời sử dụng
đồng bộ và quyết liệt các giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát một cách
có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Sau đó, trước tín hiệu khả quan của tình hình lạm
phát, 6 tháng cuối năm 2008 cho đến đầu 2009, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT
bằng các giải pháp linh hoạt để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động
ngăn ngừa nguy cơ suy giảm kinh tế. Các công cụ được NHNN sử dụng để điều hành
CSTT trong giai đoạn này cùng những tác động của nó đến các kênh truyền dẫn (lãi
suất, giá tài sản, tín dụng, …) được phân tích cụ thể dưới đây.
2.1.1. Giai đoạn một: Chính sách tiền tệ thắt chặt nửa đầu năm 2008
2.1.1.1. Bối cảnh kinh tế:
Cuối năm 2007 và nửa đầu năm 2008, có thể nói lạm phát là vấn đề số một của nền
kinh tế Việt Nam. Giá lương thực thực phẩm năm 2007 tăng tới 18,9%, mức lạm phát
cả năm là 12,63%. Tốc độ tăng giá tiêu dùng tiếp tục tăng 2% qua mỗi tháng với đỉnh
điểm là tháng 2 và tháng 5/2008 (tăng 3,19% so với tháng trước đó). Nguyên nhân của
lạm phát được xác định là do cả 3 nhân tổ: chi phí đẩy, cầu kéo và tăng cung tiền.
Thứ nhất, tổng kết cho thấy trong 7 tháng đầu năm giá nguyên nhiên vật liệu trên
thế giới tăng 39,85% so với cuối năm 2007. Thứ hai, đầu tư toàn xã hội tăng cao với
bội chi ngân sách lớn (tổng chi ngân sách năm 2007 vượt 12% so với kế hoạch năm),
nguồn FDI và ODA tiếp nhận lớn trong khi hệ số ICOR tăng (cho thấy chi phí đầu tư
cao). Thứ ba, cung tiền năm 2007 tăng tới 46,7% so với năm 2006. Dòng vốn từ nước
ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam gây ra tình trạng tín dụng tăng trưởng nóng, do Ngân hàng
nhà nước phải tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỷ USD lên 21,7 tỷ USD để mua lượng
ngoại tệ dư thừa. Đến cuối quý I/2008 mức tăng tín dụng lên đến đỉnh điểm 63%.
Những nhân tố trên khiến cho tình hình kinh tế nước ta đầu năm 2008 bất ổn định cùng


9


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

nguy cơ lạm phát bùng phát. Chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục từ giữa năm 2007 và đạt
kỉ lục trong 8 tháng đầu năm 2008 với mức tăng 21,65% so với tháng 12/2007, trong
đó lương thực thực phẩm tăng 57,1% gây nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống.
Đồ thị 1: Chỉ số lạm phát năm 2006- 2008

Để ổn định kinh tế vĩ mô, tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững 6 tháng đầu năm,
Chính phủ đã điều chỉnh từ mục tiêu tăng trưởng cao sang mục tiêu kiềm chế lạm phát
là ưu tiên hàng đầu và tăng trưởng duy trì ở mức hợp lý. Về phía NHNN, chính sách
tiền tệ thắt chặt được áp dụng nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, điều hành tỷ giá theo
tín hiệu thị trường.
2.1.1.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ:
Trong CSTT của NHNN, công cụ lãi suất luôn luôn được thực hiện đồng bộ cùng
các công cụ khác như dự trữ bắt buộc, thị trường mở… nhằm phối hợp nhanh chóng
đạt được mục tiêu chung của CSTT quốc gia. Do đó, dưới đây, chúng ta sẽ cùng đi làm
rõ sự phối hợp của “bộ công cụ” này trong CSTT năm 2008 của NHNN.
Đầu năm 2008, ngay từ trước khi có gói giải pháp 8 điểm, dưới ảnh hưởng của tăng
trưởng tín dụng nóng năm 2007, Ngân hàng nhà nước chủ trương điều hành CSTT theo
hướng thắt chặt, đồng thời khống chế tăng trưởng tín dụng ở mức tổng dư nợ tín dụng
của hệ thống ngân hàng không vượt quá 20%. Những giải pháp và biện pháp cụ thể đã
được NHNN thực hiện là:

10


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)


 Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như
đầu tư kinh doanh chứng khoán, bất động sản thông qua việc:
 Siết chặt lại các điều kiện được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết
khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán không được vượt quá 20%
vốn điều lệ của TCTD.
 Yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay bất
động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay.
 Ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ
hơn nhằm hạn chế cho vay với những nhu cầu không nhất thiết phải sử dụng vốn
ngoại tệ.
Ba công cụ lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng
những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… nhằm rút
bớt tiền trong lưu thông về. Cụ thể:
a/ Công cụ lãi suất
- Lãi suất: ba lần điều chỉnh tăng các loại lãi suất. Đồng thời, NHNN quy định trần lãi
suất huy động ở mức 12% từ ngày 16/2/2008. Điều này được thực hiện nhằm tạo hành
lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và
từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, cụ thể:
Ngày 30/1/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng ổn định ở mức 8,25% đã được tăng
0.5% lên mức 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng 1% lên 7,5%/năm; lãi suất chiết
khấu tăng 1,5% lên 6%/năm (quyết định 305/QĐ – NHNN)
Ngày 19/05/2008: tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu lên
12%/- 13%- 11%/năm.
Ngày 11/06/2008: tiếp tục tăng ba lãi suất trên lên mức mới 14%- 15%- 13%/năm.
b/ Công cụ dự trữ bắt buộc

11



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: ngày 16/01/2008 tăng 1%: từ 10% lên 11% (quyết định
187/QĐ – NHNN)
c/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
- Phát hành tín phiếu bắt buộc: Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín
phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3 với tổng giá trị lên tới 20.300 tỷ đồng, kì hạn
364 ngày, lãi suất 7,8%/năm (quyết định 346/QĐ – NHNN). Ba NHTM Nhà nước có
quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai NHTM cổ phần thuộc
tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các NHTM cổ phần thuộc
nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9
chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải
mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ vậy, các ngân hàng phải mua 20.300 tỷ đồng
trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín
phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. Điều đặc biệt là, nếu như các loại tín phiếu
trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN để được vay tái cấp vốn thì
trong quyết định lần này, NHNN quy định rõ không được vay tái cấp vốn. Do đó các
NHTM khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở
hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại NHNN.
Tuy nhiên, một tình huống không lường trước là các NHTM đã không phản ứng kịp
thời trước việc thắt chặt CSTT nên vẫn tiếp tục đẩy mạnh tín dụng, cùng với việc quản
lý thanh khoản của các NHTM còn bất cập đã gây nên tình trạng thiếu khả năng thanh
khoản tại nhiều ngân hàng. Để bù đắp thiếu hụt thanh khoản, các NHTM đã đua nhau
tăng lãi suất huy động vốn trên thị trường, gây ra một cuộc chạy đua lãi suất, lãi suất
trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian này có thời điểm lên đến 35%/năm, nếu
tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, khả năng đổ vỡ hệ thống ngân hàng có thể xảy ra.
Trước diễn biến thị trường như vậy, chỉ trong vòng 1 tuần Ngân hàng Nhà nước
lại bơm ra 33.000 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị trường mở nhằm cứu nguy cho

12



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

tình trạng thiếu thanh k hoản của các ngân hàng thương mại do bị sốc bởi những
động thái bất ngờ thắt chặt tiền tệ quá mức của NHNN trước đó.
Tuy nhiên, các biện pháp chính sách trên chưa ngăn chặn được đà tăng lãi suất huy
động và mở rộng tín dụng của các NHTM, do vậy ngày 19/05/2008 NHNN đã công bố
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam. Theo đó, lãi suất huy động và cho vay tối đa sẽ bằng 150% lãi suất cơ bản. Việc
trả lại vai trò định hướng thị trường của lãi suất cơ bản như vậy đã có tác động nhanh
chóng, tích cực “giảm đà tăng lãi suất huy động của các NHTM” chỉ trong vài ngày.
d/ Công cụ tỷ giá
Năm 2008 được coi là "năm bất ổn của tỷ giá" vì những biến động tỷ giá rất phức
tạp với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và cả tin đồn. Chỉ
trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được NHNN điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng
có trong lịch sử. Diễn biến điều chỉnh tỷ giá trong 7 tháng đầu năm như sau:
Đồ thị 1: Biến động tỷ giá USD/VND năm 2008
(Nguồn: Reuters, CEIC)

- 3 tháng đầu năm, tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt
giảm từ mức 16.112 cuối năm 2007 xuống mức thấp nhất là 15.560. Trên thị trường tự

13


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

do, tỷ giá dao động từ 15.700- 16.000 đồng/USD. Nguyên nhân chủ yếu là do lượng
kiều hối chuyển về nước lớn vào dịp Tết quá lớn cùng luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ

vào Việt Nam, ngoài ra còn do đồng đôla Mỹ thời điểm này đang mất giá trên thị
trường thế giới, khiến tỷ giá giảm mạnh. NHNN đã không thực hiện mua ngoại tệ vào
để hạn chế bơm tiền ra lưu thông, mà tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ +/- 0,75% lên
mức 1% vào ngày 10/03/2008.
- Từ sau 10/03/2008 đến tháng 07/2008: Sau quyết định tăng biên độ tỷ giá, VND
trở nên mất giá so với USD, tỷ giá liên ngân hàng có thời điểm lên tới 19.400 trong
tháng 6 và cao hơn 2.600 đồng so với giá trần quy định. Nhu cầu vay USD để nhập
khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và thế giới; tâm lý lo ngại của
nhà đầu tư trước những dấu hiệu bất ổn và lạm phát cao của nền kinh tế khiến họ bắt
đầu rút vốn khỏi Việt Nam, làm giảm cung ngoại tệ, là những nguyên nhân chính của
tỷ giá tăng mạnh thời gian này. Để thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, hạn chế lạm
phát, ổn định tỷ giá cũng như tâm lý nhà đầu tư, ngày 27/06/2008 NHNN quyết định
tăng biên độ tỷ giá lên +/- 2%.
Đặc biệt, khi tình trạng sốt USD đã đến mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử,
ngày 19/06/2008 NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD
khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm. Đây là một
trong những hành động của NHNN đem lại hiệu quả tức thì.
2.1.1.3. Kết quả đạt được
Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành lãi suất cơ bản vào những tháng đầu năm
2008 đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán
của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, nhất là đối với NHTM cổ phần quy
mô nhỏ chuyển đổi mô hình từ nông thôn lên, giúp cho an toàn hệ thống ngân hàng
được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với
hệ thống ngân hàng. Việc tăng mức lãi suất cơ bản lên tới 14%, đồng thời đầy trần lãi
suất huy động và cho vay lên tới 21% của NHNN đã phần nào giải toả đựơc cơn khát

14


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)


vốn của các NHTM, cứu nguy cho khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Cơ chế
mới cũng là cơ sở thực hiện được định hướng lãi suất thực dương, tạo thuận lợi để các
ngân hàng tăng cường khả năng huy động thay vì phải chịu lãi suất quá cao trên thị
trường liên ngân hàng trước đó.
Việc khống chế trần lãi suất tạo nên một hành lang lãi suất huy động và cho vay đã
giúp nhanh chóng bình ổn lãi suất thị trường, khắc phục được tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao.
Sự can thiệp quyết liệt của NHNN đã cho thấy quyết tâm của toàn bộ hệ thống ngân
hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên các NHTM đã phải trải qua 1 thời kì
thực sự khó khăn (đặc biệt là tháng 2 và tháng 3) về thanh khoản. Chỉ trong vòng vài
ngày, các ngân hàng đã phải tăng lãi suất tiền gửi từ 15 đến 19%/năm, lãi suất cho vay
được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm với hầu hết các ngân hàng.
Việc áp dụng đồng bộ, linh hoạt các giải pháp trên đã góp phần đưa các chỉ tiêu tiền
tệ biến động theo định hướng đề ra: Tổng phương tiện thanh toán được kiểm soát ở
mức thấp; Tốc độ tăng trưởng đầu tư cho nền kinh tế chậm dần, từ đó tác động kiềm
chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một
lực hút mạnh thu hút tiền từ lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các
NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm
3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong
quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Lạm phát năm 2008 chỉ còn 19,89%.
2.1.2. Giai đoạn hai: Chính sách tiền tệ nới lỏng cuối năm 2008.
2.1.2.1. Bối cảnh kinh tế
Cuộc khủng hoảng địa ốc cho vay dưới chuẩn bùng phát tại Mỹ đã nhanh chóng lan
tỏa tới các lĩnh vực kinh tế khác, dẫn tới suy thoái kinh tế toàn cầu. Việc cắt giảm đầu
tư và tiêu dùng trên thế giới dẫn tới một sự giảm đột ngột về cầu khiến cho giá nhiều

15



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

mặt hàng giảm mạnh. Tính trong 4 tháng từ tháng 8 đến tháng 11/2008, giá nguyên liệu
thế giới giảm 58% với đà giảm gia tăng. Tại Việt Nam tuy mức độ tác động chưa rõ rệt
vì có độ trễ 2 tháng so với nước ngoài, nhưng nước ta đã gia nhập nền kinh tế toàn cầu
được 2 năm kể từ 2006, lại vừa trải qua lạm phát và nhập siêu cao, nên trong những
tháng cuối năm 2008, nền kinh tế nước ta tiềm ẩn rõ rệt nguy cơ suy giảm. Chỉ số CPI
liên tục đi ngược hẳn so với những tháng đầu năm, giảm từ 14% trong tháng 10 xuống
tháng 11 còn 11.5% và tháng 12 là 8%. Cùng với đó là sự suy giảm về tín dụng và thị
trường chứng khoán do tâm lý lo ngại của nhà đầu tư trước sự khủng hoảng của kinh tế
toàn cầu.
Trong tình hình đó, với việc lạm phát đã được đẩy lùi, Chính phủ nước ta đã chuyển
hướng mục tiêu sang ưu tiên ngăn chặn khủng hoảng và giảm phát, kích thích tăng
trưởng kinh tế. NHNN đồng thời đưa ra chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy phát
triển sản xuất kinh doanh, phù hợp với mục tiêu mới của Chính phủ.
2.1.2.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ
a/ Công cụ lãi suất
- Lãi suất: Bắt đầu từ tháng 10/2008, các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ
xuống theo một lộ trình thích hợp để vừa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, vừa tăng
cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế. Cụ
thể:
Lãi suất cơ bản bằng VND được điều chỉnh giảm mạnh trong 5 lần, từ 14% - 13% 11% - 8,5% - 7%/năm; lãi suất tái cấp vốn từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm;
lãi suất tái chiết khấu từ 13% - 11% - 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm; lãi suất nghiệp vụ
thị trường mở từ 15% - 14,3% - 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm; lãi suất tiền
gửi dự trữ bắt buộc đối với VND giảm từ 10%/năm xuống 1,2%/năm; lãi suất tiền gửi
vượt dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ và lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của Kho bạc Nhà
nước tại Ngân hàng Nhà nước giảm từ 1% xuống 0,1%/năm.

16



Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

Đồ thị 2: Các mốc thời gian điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và
lãi suất chiết khấu năm 2008 của NHNN
(Nguồn: ECC Report 2008)

Lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc lần lượt tăng lên, sau đó giảm với tốc độ chậm.
Ngày thực hiện

Lãi suất DTBB

1/9/2008

3,5%/năm

1/10/2008

5%/năm

21/10/2008

10%/năm

5/12/2008

9%/năm

22/12/2008


8,5%/năm

b/ Công cụ dự trữ bắt buộc
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Giảm từ 10%/năm xuống còn 8%- 6%- 5%/năm. Các tín hiệu
cho vay, kinh doanh chứng khoán, bất động sản cũng được phát ra
Quyết định

Tỷ lệ DTBB

Ngày thực hiện

2811/QĐ-NHNN

8%

20/11/2008

2951/QĐ-NHNN

6%

03/12/2008

3158/QĐ-NHNN

5%

19/12/2008


17


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

c/ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
- Nghiệp vụ thị trường mở: Điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và hoán đổi
ngoại tệ để hỗ trợ thanh khoản cho NHTM.
Tín phiếu bắt buộc được cho phép thanh toán trước hạn. Ngày 1/7/2008, NHNN đã
điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc từ 7.8%/năm lên 13%/năm nhằm tạo điều
kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay với khách hàng để thúc đẩy sản xuất kinh
doanh. Ngày 22/12/2008, lãi suất tín phiếu NHNN được điều chỉnh giảm từ mức
13%/năm xuống 4.5%/năm để phù hợp với các mức lãi suất khác do NHNN công bố
Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 09/10/2008, theo
đó yêu cầu các TCTD áp dụng các biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh
doanh, trong đó chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của
khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định
về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh; đáp ứng vốn tín dụng cho
nền kinh tế trên cơ sở khả năng huy động vốn trong và ngoài nước, đi đôi với kiểm soát
chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn
cho các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu,
lĩnh vực nông nghiệp nông thôn…
Đồ thị 3: Lãi suất danh nghĩa kỳ hạn 12 tháng của các NHTM; chỉ số CPI năm 2008
(Nguồn: ECC Report 2008)

18


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)


Tất cả các quyết định trên đều hướng tới mục tiêu làm tăng khả năng cho vay của
các NHTM với nền kinh tế và ngăn chặn đà suy giảm kinh tế có thể xảy ra trong năm
2009. Ngay sau đó mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi
suất. Tháng 12 năm 2008, mức lãi suất cho vay phổ biến ở mức 13 – 14%/năm. Động
thái giảm lãi suất của các ngân hàng là một dấu hiệu tích cực cho các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư, sản
xuất.
d/ Công cụ tỷ giá:
- 2 tháng cuối năm: Sau khi biên độ được điều chỉnh tăng, tỷ giá USD/VND ổn định
trong một thời gian ngắn quanh mức 16.600 đồng nhưng sau đó lại tăng trở lại: tỷ giá
liên ngân hàng thường xuyên duy trì ở mức trần, tỷ giá giao dịch trên thị trường không
chính thức là 17.200- 17.450 đồng. Trước những thông tin lo ngại về tình hình kinh tế
và xuất khẩu, đồng thời kết hợp thực hiện Nghị quyết của Chính phủ về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo
an sinh xã hội, ngày 24/12 NHNN đã công bố việc điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng
tăng 3% (hay VND trượt giá 3%) từ mức 16.494 đồng lên 16.989 đồng.

19


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

Đây cũng là lần điều chỉnh cuối cùng biên độ tỷ giá trong năm 2008. Nhờ những
can thiệp khá kịp thời và linh động, tỷ giá ngoại tệ dần trở lại ổn định, nhu cầu ngoại tệ
trong thanh toán các mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
2.1.2.3. Kết quả đạt được:
Theo ý kiến nhiều chuyên gia, chính sách tiền tệ năm 2008 là một thành công lớn
của NHNN. Thứ nhất là tình hình lạm phát cao đầu năm đã được giải quyết. Và thứ hai
là mặc dù kinh tế thế giới có rất nhiều biến động xấu và nước ta cũng đã chịu tác động
một phần vào giai đoạn giữa năm, nhưng đến tháng 12/2008, nền kinh tế đã có dấu

hiệu khả quan hơn, hoạt động của các ngân hàng khởi sắc trở lại, hoạt động huy động
vốn và cho vay trở lại với nhịp độ bình thường.
Việc giảm lãi suất cơ bản giúp tăng thêm khả năng mở rộng cho vay của các NHTM
đối với nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vay với lãi suất thấp. Việc cấp bù lãi suất đem
đến hai tác dụng: chi phí tài chính của doanh nghiệp sẽ hạ xuống, hạ giá thành sản
phẩm, tránh rủi ro ngưng trệ sản xuất,… đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội
cho một bộ phận không nhỏ người lao động. Tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng
cũng được nâng cao thông qua thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạn, sử dụng tín
phiếu để tiếp cận trên thị trường mở… Về tỷ giá, can thiệp kịp thời tăng tỷ giá liên
ngân hàng của NHNN trong giai đoạn cuối năm giúp tỷ giá ngoại tệ giảm dần, trở lại
ổn định hơn, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán các mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ
bản đầy đủ.
2.1.3. Một số hạn chế của chính sách tiền tệ năm 2008
Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách tiền tệ 2008 cũng tồn tại nhiều hạn
chế. Thanh khoản của nhiều ngân hàng bị đặt trong tình trạng căng thẳng, luồng di
chuyển tiền tệ có dấu hiệu chậm lại, tiến độ cho vay cũng như khả năng tiếp cận vốn
của các doanh nghiệp tuy đã sáng sủa hơn song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín
dụng ở tình trạng cầm chừng, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 19,6% (chỉ đạt 65% so với

20


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

mục tiêu đặt ra là 30%). Có thể tổng quát những mặt hạn chế, những tác động không
mong muốn của CSTT đối với thị trường ở những nội dung sau:
- NHTM gặp khó khăn khi điều chỉnh lãi suất cho vay: các chính sách thắt chặt của
NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc trong
những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, thắt chặt tín
dụng. Đây là nguyên nhân gây ra cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng trong

những tháng đầu năm.
- NHTM cũng gặp khó khăn khi muốn tăng cường cho vay: Cho đến cuối tháng
10/2008, kế hoạch mở rộng quy mô cho vay của một số ngân hàng chỉ thực hiện được
khoảng 10% - 20%. Có nhiều nguyên nhân khác nhau cả từ phía ngân hàng và doanh
nghiệp, nhưng trong đó lãi suất chính là một nguyên nhân cơ bản làm giảm khả năng
vay vốn của các doanh nghiệp. Theo thống kê gần đây của Hiệp hội các doanh nghiệp
nhỏ và vừa thì có tới 60% doanh nghiệp khó khăn do lãi suất tăng. Kể cả trong thời
gian này, khi ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì doanh nghiệp vẫn khó có thể vay vốn
bởi lãi suất vẫn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận có thể đạt được.
- Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm: cũng là một hệ lụy do việc vận
dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Hoạt động trong cùng một hệ thống tài
chính, giữa các ngân hàng luôn có mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn
tại và phát triển. Tuy nhiên trong năm 2008 đặc biệt là những tháng đầu năm, yêu cầu
dự trữ bắt buộc tăng khiến nhiều ngân hàng phải đối diện với vấn đề thanh khoản, do
đó buộc phải đưa ra những những phương án xử lí vấn đề thanh khoản một cách quyết
liệt như chạy đua tăng lãi suất để lôi kéo khách hàng, thậm chí áp dụng lãi suất cho vay
giữa các ngân hàng lên đến 43%/năm.
- Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên: Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật
liệu đầu vào tăng vọt... là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Điều đó khiến
cho các dự án đầu tư đang hoặc sẽ hoạt động gặp khó khăn trong việc thi hành, làm
tăng rủi ro tiềm ẩn đối với các khoản cho vay, đầu tư của ngân hàng.

21


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

- Đối với khối doanh nghiệp: chịu tác động rõ rệt và nhiều nhất của biến động lãi suất
và tỷ giá. Tại thời điểm lãi suất tăng quá cao, trong khi thị trường chứng khoán đình trệ
do tác động của thị trường chứng khoán toàn cầu, các doanh nghiệp gặp khó khăn khi

muốn tiếp cận vốn ngân hàng để duy trì hoạt động hay mở rộng sản suất. Các đối tượng
chịu ảnh hưởng nhiều nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nông thủy sản, dệt
may, … và đặc biệt là ngành điện. Việc thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng giá điện cùng giá
những mặt hàng khác trên thị trường để kiềm chế lạm phát khiến nhiều dự án của
ngành này bị đình trệ. Sự mất giá của VND cũng khiến các doanh nghiệp xuất khẩu
chịu một khoản lỗ khá nặng. Tuy nhiên theo nhận định, các biện pháp của NHNN vào
cuối năm đem lại nhiều lợi ích cho khối doanh nghiệp, khi lãi suất được cắt giảm và tỷ
giá hối đoái được giữ ổn định với mức dao động tương đối hợp lý.
- Những nguy cơ tiềm ẩn đối với nền kinh tế: Việc NHNN áp dụng chính sách tiền tệ
nới lỏng cuối năm 2008 sẽ giúp nước ta đối phó được với nguy cơ giảm phát, hỗ trợ
doanh nghiệp tăng cường sản xuất và đảm bảo tính thanh khoản hơn cho khối ngân
hàng, vì vậy là phù hợp với tình hình kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu
đang diễn ra trên thế giới. Tuy nhiên duy trì CSTT nới lỏng cũng cần phải được tính
toán trong một khoảng thời gian vừa đủ. Nếu lãi suất luôn bị hạn chế ở mức trần, dự
trữ bắt buộc quá thấp thì hệ thống ngân hàng khó phát triển an toàn và ổn định, còn nếu
NHNN tiếp tục hỗ trợ sản xuất kinh doanh với các gói hỗ trợ thì đến một lúc nào đó
lượng tiền trong lưu thông dư thừa, vốn không được sử dụng đúng mục tiêu và nước ta
sẽ phải đối mặt với nguy cơ tín dụng tăng trưởng nóng và lạm phát cao trở lại.

2.2. NĂM 2009
2.2.1. Tình hình kinh tế năm 2009
Quý I/2009, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng
trưởng GDP của nước ta chỉ đạt 3,1% so với cùng kì năm trước, đây là kết quả xấu

22


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

nhất trong vòng nhiều năm phát triển trước đó. Tuy nhiên từ quý II/2009, những dấu

hiệu phục hồi đã bắt đầu xuất hiện cùng với kết quả tăng trưởng kinh tế 4,5% và đến
quý III, những tín hiệu khả quan của nền kinh tế tiếp tục được khẳng định với GDP
tăng 5,8%. Kinh tế phục hồi nhanh chóng phản ánh phần nào những nỗ lực hỗ trợ hoạt
động kinh tế của Chính phủ thông qua gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất 4%, cũng như chính
sách giảm, giãn thuế đối với doanh nghiệp, và đặc biệt là chính sách tiền tệ và tài khóa
nới lỏng kịp thời từ cuối 2008.
Đồ thị 4 : Tăng trưởng GDP và ba ngành chính năm 2007- 2009
(Nguồn: GSO&WSS)

Mặc dù có nhiều khả quan như vậy nhưng năm 2009, dòng vốn ngoại tệ vào Việt
nam vẫn tiếp tục giảm sút so với cùng kì năm 2008. Thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài từ đầu năm đến hết tháng 11 đạt 19,7 tỷ USD, giảm 72% so với cùng kì 2008,.
Tổng lượng kiều hối chuyển về nước liên tục giảm sút từ đầu năm đến cuối năm.
Đồ thị 5: Huy động và giải ngân vốn FDI năm 2009
Nguồn: Vietcombank

23


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

Về tình hình lạm phát: Mức lạm phát tính trung bình cả năm 2009 là 6,88%, đã nằm
trong tầm kiểm soát của Chính phủ, nhưng vẫn thuộc loại cao so với khu vực. Thêm
vào đó, những chính sách kích thích kinh tế trong năm của Chính phủ dù đã có thành
quả tích cực là đưa nền kinh tế thoát khỏi đà suy giảm, nhưng lại gây ra tình trạng tăng
trưởng tín dụng quá cao (tới 38%, vượt ngưỡng 30% đặt ra đầu năm). Tăng trưởng tín
dụng mạnh trong khi chất lượng tăng trưởng kinh tế còn thấp, lượng tiền kích thích
kinh tế lại đã được tung hết ra lưu thông, nhập khẩu lạm phát do giá cả thế giới tăng
theo đà phục hồi kinh tế, đó là những nguyên nhân khiến cho cuối năm 2009 tiềm ẩn
nguy cơ lạm phát cao cho năm tiếp theo.

Đồ thị 6: Tăng trưởng chỉ số giá tiêu dùng năm 2009
(Nguồn: GSO&WSS)

2.2.2. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ năm 2009

24


Sử dụng các công cụ trong điều hành CSTT của NHNN Việt Nam năm 2008- 2010 (Nhóm 8)

Trong suốt 3 quý đầu năm, NHNN chủ trương duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng
với các biện pháp duy trì mặt bằng lãi suất thấp, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế
trần lãi suất cho vay, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung ứng thanh
khoản cho các ngân hàng gặp khó khăn, kiểm soát tỷ giá nhằm giảm tình trạng căng
thẳng ngoại tệ, … nhờ đó góp phần phục hồi kinh tế và tăng trưởng tín dụng. Cuối năm
2009, trước nguy cơ lạm phát cao cho năm 2010, NHNN đã điều chỉnh CSTT theo
hướng thắt chặt. Diễn biến cụ thể các công cụ của CSTT năm 2009 như sau:
a/ Lãi suất, cho vay tái chiết khấu
Đồ thị 7: 3 loại lãi suất chủ đạo theo điều hành của NHNN năm 2008- 2009
(Nguồn: GSO&WSS)

- Lãi suất cơ bản và cho vay tái chiết khấu: Năm 2009 NHNN có 2 lần điều chỉnh lãi
suất cơ bản và 3 lần điều chỉnh các mức lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn:
Lần 1: Ngày 1/2/2009, lãi suất cơ bản 8,5% hạ xuống còn 7%. Lãi suất tái chiết
khấu và tái cấp vốn giảm tương ứng còn 6% và 8%. NHNN cho biết việc điều chỉnh
giảm lãi suất nêu trên nhằm triển khai các giải pháp cấp bách của Chính phủ, ngăn
chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất, kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động,
trong điều kiện nền kinh tế bị tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới.

25



×