ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------
ĐẶNG ANH DŨNG
XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------
ĐẶNG ANH DŨNG
XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Chuyên ngành:
Chính trị học
Mã số:
60.31.20
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo
HÀ NỘI – 2011
2
Lời cảm ơn
Quá trình thực hiện Luận văn, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình của Ban Chủ nhiệm Khoa Khoa học Chính
trị, các nhà khoa học, các Thầy Cô và anh chị em đồng nghiệp trong Khoa.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Chủ nhiệm Khoa Khoa
học Chính trị, các Thầy Cô giáo, anh chị em đồng nghiệp. Tôi cũng bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ quý báu của thầy hướng dẫn khoa học,
PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo, đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn
này.
Xây dựng sự đồng thuận xã hội ở Việt Nam là vấn đề khó và khá mới
mẻ, chưa có nhiều kết quả cũng như kinh nghiệm nghiên cứu về vấn đề này.
Tác giả hy vọng đây mới chỉ là bước khởi đầu trong quá trình nghiên cứu
của mình. Rất mong sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các Thầy Cô,
các nhà khoa học và anh, chị em đồng nghiệp để tôi có thể tiếp tục đi sâu
nghiên cứu vấn rất thiết thực này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Đặng Anh Dũng
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................. 6
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 6
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................... 7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn .................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................... 11
6. Ý nghĩa của luận văn .......................................................................... 12
7. Kết cấu của luận văn .......................................................................... 12
NỘI DUNG .............................................................................................. 13
Chương I. ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. 13
1.1. Quan niệm đồng thuận xã hội ........................................................ 13
1.1.1. Lược khảo quan niệm về đồng thuận xã hội trong lịch sử tư tưởng...... 13
1.1.2. Khái niệm đồng thuận xã hội ....................................................... 13
1.2. Mối quan hệ giữa đồng thuận xã hội với đoàn kết và dân chủ ... 26
1.2.1. Mối quan hệ giữa đồng thuận xã hội với đoàn kết ...................... 26
1.2.2. Mối quan hệ giữa đồng thuận xã hội với dân chủ ....................... 30
1.3. Vai trò của đồng thuận xã hội ......................................................... 34
Chương II. XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ..................................... 38
2.1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng sự
đồng thuận xã hội ................................................................................... 38
2.1.1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơ sở xây dựng sự
đồng thuận xã hội .................................................................................... 38
2.1.2. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về những nội
dung cơ bản của việc xây dựng sự đồng thuận xã hội trong quá trình đổi
mới đất nước ............................................................................................ 41
4
2.2. Những kết quả đạt được trong xây dựng sự đồng thuận xã hội ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới đất nước ....................................................... 51
2.2.1. Sự đồng thuận trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp,
các tầng lớp trong xã hội và các dân tộc, tôn giáo với Đảng, Nhà nước
trong công cuộc đổi mới đất nước .......................................................... 52
2.2.2. Sự đồng thuận xã hội về nhận thức trong các tầng lớp nhân dân
đối với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ...... 60
2.2.3. Sự đồng thuận xã hội thông qua việc phát động và thực hiện các
phong trào thi đua yêu nước và cuộc vận động thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa ....................................................................... 62
2.2.4. Sự đồng thuận xã hội trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài ......................................................................................................... 68
2.3. Một số bài học kinh nghiệm và những giải tiếp tục xây dựng sự
đồng thuận xã hội ở Việt Nam ............................................................... 71
2.3.1. Một số bài học kinh nghiệm .......................................................... 71
2.3.2. Một số giải pháp góp phần tăng cường sự đồng thuận xã hội ở
Việt Nam ............................................................................................... 72
KẾT LUẬN ............................................................................................. 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................. 87
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đã bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh những cơ hội lớn,
chúng ta cũng đang và sẽ phải đối mặt với không ít những nguy cơ, thách
thức. Muốn vượt qua những thách thức cam go đó, chúng ta phải phát huy
cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, biến ngoại lực trở
thành nội lực cho sự phát triển đất nước; đồng thời, toàn bộ sức mạnh của
dân tộc phải được quy thành một mối dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự thống
nhất trong tư tưởng và hành động của toàn bộ cộng đồng dân tộc Việt Nam,
dù trong hay ngoài nước, dù có quá khứ lịch sử khác nhau, thậm chí đối lập
nhau, dù ngày nay còn có những khác biệt nhất định trong nhận thức và lý
tưởng chính trị - sẽ là chìa khóa của thành công. Nói cách khác xây dựng
sự đồng thuận xã hội là một vấn đề lớn, có ý nghĩa quan trọng nhằm đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới để đạt được mục tiêu như Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) đã đề ra: đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa [34, 71].
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối đổi mới, vấn đề đồng
thuận xã hội, xây dựng sự đồng thuận xã hội đã luôn giành được sự quan
tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước nhằm thông qua đó củng cố, phát
huy vai trò của khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên trên thực tế, hiện nay
việc nhận thức về “đồng thuận xã hội” và hành động nhằm xây dựng sự
đồng thuận xã hội chưa được nghiên cứu một các cơ bản, có hệ thống. Để
thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trước hết đòi hỏi phải có sự thống nhất
trong nhận thức về “đồng thuận xã hội”, từ đó mới có thể đạt được sự thống
6
nhất trong hành động. Có như vậy mới tạo điều kiện cho phát triển mọi lĩnh
vực của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một yêu cầu
khách quan và cấp thiết.
Từ lý do trên, việc nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống vấn đề
đồng thuận xã hội và xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta là việc làm
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy để góp phần vào việc nhận
thức vấn đề đồng thuận xã hội, xây dựng sự đồng thuận xã hội của đất nước
trong giai đoạn hiện nay, chúng tôi lựa chọn vấn đề Xây dựng sự đồng
thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành Chính
trị học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chúng ta đều biết, đồng thuận xã hội là một hiện tượng đa chiều,
nhưng trước hết, đó là một hiện tượng chính trị, có tác động trực tiếp đến
đời sống chính trị của đất nước. Chính vì thế, mọi nghiên cứu về vấn đề
này cần được triển khai với sự chú ý đúng mức quan điểm của lực lượng
lãnh đạo chính trị, mà cụ thể ở đây là quan điểm của Đảng và Nhà nước
Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát cụ thể các văn kiện của Đảng và
Nhà nước về đồng thuận xã hội trong chương II của luận văn này. Ở đây,
chúng tôi muốn khẳng định rằng: Quan điểm của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước là cơ sở chính trị và pháp lý cho việc triển khai những
nghiên cứu về vấn đề đồng thuận xã hội ở Việt Nam, trong đó có nghiên
cứu của luận văn này.
Trong lĩnh vực khoa học, có thể khẳng định ngay rằng, ở Việt Nam,
những nghiên cứu về đồng thuận xã hội và xây dựng đồng thuận xã hội mới
ở giai đoạn khai phá. Số lượng những công trình đi sâu nghiên cứu, giải
quyết hệ vấn đề về đồng thuận xã hội còn ít, dù rằng, những ý tưởng khoa
học được đề xuất trong những công trình có tính tiên phong ấy rất có ý
nghĩa và đáng trân trọng. Có thể nêu lên ở đây một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu:
7
Thứ nhất, những công trình tập trung nghiên cứu và trình bày khung
lý thuyết về đồng thuận xã hội còn rất ít ở Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm
“đồng thuận xã hội” - khái niệm trung tâm trong khung lý thuyết về đồng
thuận xã hội - đã xuất hiện trong một số công trình, đặc biệt là trong một số
bộ từ điển xuất bản ở Việt Nam. Chẳng hạn, trong Từ điển Chính trị học
hiện đại, Nhà xuất bản Nôtaben, Matxcơva, 2000 do V.I. Đa-nhi-en-cô biên
soạn, đồng thuận được hiểu là sự đồng tình, đồng ý giữa các thành viên,
giữa các đơn vị xã hội nào đó về những mục tiêu, giá trị, chuẩn mực chung.
Đồng thuận là tiền đề tồn tại của mỗi hệ thống xã hội, đặc biệt là của hệ
thống chính trị dân chủ đa chủ thể lợi ích. Trong thực thi quyền lực, đồng
thuận phản ánh trước hết mối quan hệ giữa người cầm quyền, người quản
lý và người bị quản lý. Đồng thuận xã hội làm giảm bớt đi sự áp đặt, cưỡng
chế và làm tăng sự liên kết giữa các lực lượng xã hội, các nhóm dân cư
theo tinh thần tự nguyện. Từ điển xã hội học Oxford do nhóm dịch giả Bùi
Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2010 quan niệm: ... đồng thuận là nền tảng
của trật tự xã hội ... xã hội có thể được coi là biểu hiện của hệ thống các giá
trị và chuẩn mực được chính các thành viên của nó phát triển và thể chế
hóa qua thời gian.
Thứ hai là những công trình nghiên cứu đồng thuận xã hội ở Việt
Nam theo hướng gắn đồng thuận xã hội với những vấn đề chính trị - xã hội
quan trọng khác của đất nước.
Trong số những công trình này, trước hết cần phải nhắc đến những
sản phẩm khoa học của đề tài Quan điểm, định hướng giải pháp thực hành
dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội do do GS.TS. Phạm Ngọc Quang
chủ trì (2008). Đề tài này đã nghiên cứu một cách hệ thống các quan điểm,
định hướng và giải pháp thực hành dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội
ở Việt Nam. Tuy không trực tiếp nghiên cứu về xây dựng sự đồng thuận xã
hội ở Việt Nam nhưng công trình cũng là nguồn tài liệu tham khảo rất bổ
ích cho tác giả luận văn.
8
Trong bài viết “Đồng thuận dân tộc để phát triển đất nước” đăng tải
trên trang website l tháng 12/2000, tác giả
Phạm Bích Hợp, Giám đốc trung tâm nghiên cứu tâm lý dân tộc, dưới góc
độ của tâm lý học đã coi đồng thuận xã hội là một trạng thái tâm lý tinh
thần bao trùm nên mọi khác biệt về chính kiến, tôn giáo, sắc tộc, giai cấp,
tầng lớp.
Trong bài viết “Đồng thuận xã hội và tinh thần khoan dung Hồ Chí
Minh” (Tạp chí Mặt trận, số 10 - 2003), tác giả Song Thành đã chỉ ra việc
xây dựng sự đồng thuận là một nội dung mới của đại đoàn kết dân tộc. Tác
giả cũng cho rằng, để xây dựng sự đồng thuận xã hội, cần phát triển tinh
thần khoan dung Hồ Chí Minh (tác giả nhấn mạnh).
Tác giả Đỗ Quang Tuấn trong bài viết “Bước phát trỉển mới trong
quan điểm nhận thức về đại đoàn kết dân tộc” (Tạp Chí Mặt trận, số 10 2003) khẳng định: trong bối cảnh hiện nay, để phát huy vai trò của nhân
dân cần phải xây dựng sự đồng thuận xã hội, nhằm tạo nên sự quan tâm về
lợi ích của mọi thành viên trong xã hội.
Giáo sư Tương Lai qua bài viết “Đồng thuận xã hội” (Tạp chí Tia
sáng, ngày 05/11/2005) đã khẳng định chủ trương xây dựng sự đồng thuận
xã hội là sự thể hiện một tầm nhìn mới, vượt qua những ràng buộc hạn hẹp
trong quan điểm “ai thắng ai”. Đồng thời tác giả cũng cho rằng, hiện nay,
đồng thuận xã hội chính là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Tác giả cũng khẳng định cơ sở của sự đồng thuận xã hội chính là nguyên lý
“Tinh thần dân tộc (Chủ nghĩa dân tộc) là động lực lớn nhất của đất nước”
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra.
Trong một bài viết có tên “Vấn đề ý thức hệ và sự đồng thuận xã
hội” GS. Tương Lai còn cho rằng: cơ sở của đồng thuận xã hội là dân trí và
dân khí được nâng cao, là tôn trọng quyền làm chủ của mỗi người dân
trong mọi sinh hoạt xã hội, công khai và minh bạch trong việc đề đạt ý kiến
và tranh luận nhằm đạt tới sự tương đồng để loại dần những dị biệt với thái
9
độ tôn trọng những ý kiến khác nhau nhưng đều hướng về mục tiêu chung
là lợi ích và sự nghiệp chung của dân tộc.
Trong một bài viết khác có tên “Đồng thuận xã hội và phản biện xã
hội” ( ngày 18/01/2009), GS. Tương Lai cho
rằng chất lượng của khối đại đoàn kết dân tộc thể hiện trong tính đồng
thuận xã hội.
Tác giả Nguyễn Trần Bạt trong bài viết “Đồng thuận xã hội”
(, ngày 19/9/2009) cho rằng sự đồng thuận ở mức cao
nhất, rộng lớn nhất sẽ tạo ra sự thống nhất về chính trị, kinh tế, văn hoá của
xã hội. Tác giả còn nhấn mạnh những điều kiện và cơ chế đảm bảo sự đồng
thuận xã hội ở các quốc gia đang phát triển.
Tác giả Nguyễn Thị Lan với công trình Vai trò của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội. Trong công trình này tác
giả đã đề cập tới những vấn đề cơ bản về đồng thuận xã hội; đặc biệt là tác
giả đã chỉ ra vai trò quan trọng, khả năng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
với việc xây dựng sự đồng thuận xã hội.
Như vậy, có thể thấy từ nhiều góc tiếp cận khác nhau, các tác giả đã
đề cập tới nhiều khía cạnh của vấn đề đồng thuận xã hội, đã khẳng định
tầm quan trọng, tính tất yếu của việc xây dựng sự đồng thuận xã hội ở Việt
Nam như một phương thức chấn hưng, phát triển đất nước. Đối với vấn đề
đồng thuận xã hội - một vấn đề mới, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, thì
những thành quả nghiên cứu đã đạt được qua các công trình nói trên là rất
có ý nghĩa. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng cần thiết và đã đến lúc phải có
những công trình nghiên cứu trực diện vấn đề đồng thuận xã hội, để xác lập
khung lý thuyết khoa học, từ đó khảo sát cụ thể thực trạng vấn đề đồng
thuận xã hội ở Việt Nam, đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng và phát
huy hơn nữa vai trò của đồng thuận xã hội, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Luận văn của chúng tôi được thực hiện từ góc tiếp cận
10
Chính trị học với mong muốn góp phần giải quyết hệ vấn đề tuy khó khăn,
song rất có ý nghĩa nói trên.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục tiêu: Làm rõ và vận dụng lý luận về đồng thuận xã hội để
nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp xây dựng và củng cố đồng thuận
xã hội ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của đồng thuận xã hội.
- Vận dụng lý luận về đồng thuận xã hội để khảo sát, đánh giá những
thành tựu và hạn chế, rút ra một số bài học kinh nghiệm của việc xây dựng
đồng thuận xã hội ở Việt Nam từ đổi mới đến nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng, củng cố đồng
thuận xã hội ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng đồng
thuận xã hội ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi:
- Luận văn tiếp cận nghiên cứu vấn đề xây dựng đồng thuận xã hội ở
Việt Nam từ góc tiếp cận Chính trị học.
- Trong hệ vấn đề lý luận về đồng thuận xã hội, luận văn tập trung
làm rõ khái niệm “đồng thuận xã hội” và những vấn đề lý luận về mối quan
hệ giữa đồng thuận xã hội với đoàn kết và dân chủ, vai trò của đồng thuận
xã hội trong xây dựng và phát triển đất nước trên cơ sở chủ nghĩa MácLênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Luận văn khảo sát thực trạng xây dựng đồng thuận xã hội ở Việt
Nam từ Đổi mới đến nay qua các tư liệu đã được công bố chính thức ở Việt
Nam, và những giải pháp xây dựng và củng cố đồng thuận xã hội ở Việt
Nam được đề xuất với tầm nhìn đến năm 2020.
11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, đoàn kết và đồng
thuận xã hội. Đồng thời dựa trên quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và xây dựng sự đồng thuận xã
hội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng tổng hợp những phương pháp nghiên cứu của
Chính trị học để nghiên cứu đề tài, trong đó chú ý nhất tới các phương pháp
phân tích và tổng hợp, hệ thống hóa, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phân
tích tài liệu có liên quan
Comment [MSOffice1]:
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp thêm một cách tiếp cận để nhận thức về vấn đề đồng
thuận xã hội, xây dựng sự đồng thuận xã hội ở Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập Chính trị học; làm tài
liệu tham khảo cho các cơ quan lãnh đạo, quản lý và các cơ quan chức năng
trong quá trình hoạch định chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội nói
chung, chính sách đại đoàn kết dân tộc và xây dựng sự đồng thuận xã hội ở
nước ta nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phục
lục có liên quan, luận văn được kết cấu gồm 2 chương 6 tiết.
12
NỘI DUNG
Chương I. ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Quan niệm đồng thuận xã hội
1.1.1. Lược khảo quan niệm về đồng thuận xã hội trong lịch sử tư
tưởng
Đồng thuận xã hội là chủ đề lớn của nhân loại, cũng như trong quá
trình vận động và phát triển của mỗi quốc gia. Vấn đề này từ lâu đã trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: Triết
học, Xã hội học, Khoa học quản lý, Tâm lý học, Chính trị học...
Triết học nghiên cứu đồng thuận xã hội từ lý luận về mâu thuẫn biện
chứng. Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, sự
vật được tạo nên từ nhiều yếu tố, bộ phận. Những yếu tố, bộ phận đó không
những khác nhau mà còn có thể đối lập. Các mặt đối lập liên hệ, tác động
lẫn nhau, làm tiền đề, điều kiện cho nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Hai mặt đối lập của sự vật tồn tại trong sự thống nhất và đấu tranh với
nhau. Sự vật còn mâu thuẫn thì còn phải giải quyết. Đồng thuận chính là
một cách thức giải quyết nhằm làm cho sự vật phát triển. Lênin viết “Sự
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”[51, tr. 397]. Đồng
thuận xã hội không có nghĩa là không còn đấu tranh mà là đấu tranh trên cơ
sở tôn trọng quyền tự do, dân chủ để đi đến sự thống nhất tự nguyện.
Dưới góc độ của Xã hội học, đồng thuận xã hội là khái niệm dùng để
trạng thái xã hội dựa trên sự nhất trí rộng rãi của các thành viên trong xã
hội. Lý thuyết đồng thuận chủ yếu quan tâm đến việc duy trì trật tự xã hội,
đến các tiêu chuẩn, các giá trị, các nguyên tắc và quy định xã hội đã được
thừa nhận. Lý thuyết này được hình thành từ xã hội học về trật tự xã hội, về
ổn định xã hội và điều tiết xã hội. Như vậy, xã hội học nghiên cứu về đồng
thuận xã hội như là một lý thuyết nhằm đưa lại sự ổn định xã hội. Nó tập
13
Comment [MSOffice2]: [50, tr. 397] Sửa lại
toàn bộ chú thích nguồn.
trung chủ yếu vào việc giải quyết mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp,
các lực lượng xã hội nhằm tạo nên sự ổn định để phát triển.
Chính trị học nghiên cứu về đồng thuận xã hội cũng đề cập tới mối
quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp, các lực lượng xã hội để tạo nên sự
đồng tình, nhất trí trên cơ sở những điểm tương đồng. Xuất phát từ góc
nhìn là xây dựng một chế độ chính trị, chính trị học tập trung nghiên cứu
mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước với các tầng lớp nhân
dân và quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, trong đời sống cộng đồng.
Chính trị học cũng nghiên cứu sự đồng thuận giữa các tổ chức trong hệ
thống chính trị, trong đó nhà nước là trung tâm. Mọi chủ trương, quyết sách
đưa ra muốn thực thi có hiệu quả phải được sự đồng tình nhất trí ở mức độ
nhất định của các tổ chức khác. Đặc biệt trong hệ thống chính trị nước ta
hiện nay, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã
hội có vai trò, vị trí, chức năng riêng nhưng giữa chúng cần có sự phối hợp
chặt chẽ, đồng bộ trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách. Trong
lĩnh vực chính trị, đồng thuận phản ánh quan hệ giữa những người cầm
quyền, người quản lý và người bị quản lý.
Trong hệ thống chính trị hiện đại ở nhiều nước, các đảng chính trị
đều cố gắng hợp pháp hóa và xây dựng quyền lực của mình trên các giá trị
mà các giá trị này được chia sẻ một cách rộng rãi. Chính những giá trị đó
kết nối và duy trì sự đồng thuận xã hội. Đồng thuận xã hội góp phần làm
cho sự áp đặt, cưỡng bức, cưỡng chế giảm đi và làm tăng thêm sự liên kết
tự nhiên giữa các lực lượng xã hội, các nhóm dân cư nói chung và các tổ
chức chính trị - xã hội nói riêng.
Trong chính học hiện đại, đồng thuận xã hội ngày càng được chú
trọng. Xã hội phát triển ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp thì càng
cần phải có sự thống nhất trong chừng mực nhất định. Đồng thuận xã hội
không chỉ dừng lại ở mô hình lý thuyết mà còn được biểu hiện dưới một
mô hình cụ thể: Mô hình dân chủ đồng thuận. Nhà chính trị học người Mỹ,
Arend Lịphart đã so sánh hai mô hình dân chủ: dân chủ đa số và dân chủ
14
Comment [MSOffice3]: ???
đồng thuận. Theo ông, trong các xã hội đa nguyên - những xã hội thường bị
chia rẽ sâu sắc theo tôn giáo, địa lý, ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc hay chủng
tộc và hầu như trở thành tiểu xã hội với chính đảng riêng của mình, thì mô
hình dân chủ đa số sẽ không phù hợp. Dưới những điều kiện này, sự cai trị
của đa số không chỉ phi dân chủ mà còn nguy hiểm, bởi vì các nhóm thiểu
số thường xuyên bị từ chối tham gia nắm quyền sẽ cảm thấy bị gạt ra, bị
phân biệt đối xử và do đó sẽ mất lòng trung thành với chế độ. Vì thế các xã
hội này cần một chế độ dân chủ, ở đó nhấn mạnh sự đồng thuận thay vì sự
đối lập, sự hòa hợp thay vì loại trừ. Ở đó mỗi quyết định đưa ra đều được
sự thống nhất giữa nhóm đa số và nhóm thiểu số, chứ không phải chỉ là
thiểu số phục tùng đa số. Đó là mô hình dân chủ đồng thuận [48, tr. 17].
Trong lý luận của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chủ trương xây
dựng một xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn áp bức bóc lột,
bất công. Trong xã hội đó, con người được tôn trọng, được tự do phát triển
toàn diện, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác,
tương trợ lẫn nhau. Với xã hội đó, đồng thuận đạt được ở mức độ cao sẽ tạo
nên một sự ổn định để phát triển.
C. Mác, Ph. Ăngghen chỉ ra nguyên nhân của sự bất đồng trong xã
hội chính là do sự đối lập về lợi ích kinh tế. Một khi không có sự thống
nhất, thiếu công bằng thì không thể nói tới đồng thuận. Sự đồng ý, nhất trí
giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội chỉ đạt được khi lợi ích được phân
phối công bằng, hợp lý. Các ông cho rằng xóa bỏ chế độ tư hữu chính là
xóa bỏ nguồn gốc gây nên sự bất công, bất bình đẳng, bất đồng thuận trong
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Trong lý luận của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh vấn đề
đấu tranh giai cấp giữa vô sản - tư sản, cuộc đấu tranh đó nhằm phá bỏ
những quan hệ sản xuất cũ với tư cách là cơ sở tồn tại của sự đối kháng giai
cấp. Hai ông cũng chỉ ra rằng, thay cho một xã hội tư sản cũ, với những
giai cấp đối kháng của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi
15
người. Như vậy, xét đến cùng, lý tưởng mà các ông hướng tới là xây dựng
một xã hội có sự đồng thuận cao, mọi người được tôn trọng, được tự do
biểu đạt ý kiến của mình. Đó là xã hội cộng sản chủ nghĩa - mục tiêu vươn
tới của xã hội loài người.
V.I. Lênin là người kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác và
Ph. Ăngghen trong giai đoạn mới vẫn tiếp tục học thuyết về đấu tranh giai
cấp để tiến tới xây dựng một xã công bằng, dân chủ. Lênin cũng coi trọng
vấn đề đoàn kết dân tộc. Để đạt được điều đó, Lênin cho rằng phải tạo sự
bình đẳng giữa các dân tộc. Khi giai cấp tư sản Nga muốn chĩa mũi dùi vào
các dân tộc đa số trong cư dân Nga, Lênin chủ trương:
“Không được dành một tí đặc quyền nào cho bất cứ một dân
tộc nào, cũng như cho bất cứ một ngôn ngữ nào. Không được
có một hành động áp chế nào, không được có một sự bất công
nhỏ nào đối với các dân tộc thiểu số. Đó là nguyên tắc của một
nền dân chủ công dân”[52, tr. 193].
Xuất phát từ thực tiễn, với mong muốn xây dựng các dân tộc Nga
thành một khối đoàn kết, thống nhất, Lênin không cho phép đối xử bất
công với các dân tộc thiểu số. Người cho rằng giai cấp công nhân trên toàn
thế giới đang tạo ra một nền văn hóa cho chính mình, một nền văn hóa
quốc tế mà những người tuyên truyền cho tự do và những phản đối áp bức
đã chuẩn bị từ bao lâu nay. Đối lập với thế giới cũ, thế giới của sự áp bức
dân tộc, của sự phân tranh dân tộc, giai cấp công nhân đưa ra một thế giới
mới, một thế giới mà trong đó những người lao động thuộc mọi dân tộc
đoàn kết với nhau, trong đó không có chỗ cho bất kỳ một đặc quyền, đặc
lợi nào cũng như không có chỗ cho sự áp bức nhỏ nào giữa người với
người [52, tr. 194]. Kế thừa C. Mác và Ph. Ăngghen, Lênin mong muốn
xây dựng một xã hội có sự đồng tâm, nhất trí cao giữa các dân tộc, các tầng
lớp nhân dân lao động.
Lênin cũng chỉ ra rằng giai cấp vô sản không thể bảo vệ những lợi
kinh tế hàng ngày của mình nếu không có sự liên minh chặt chẽ và đầy đủ
16
nhất với công nhân thuộc tất cả các dân tộc [52, tr. 194]. Trong vấn đề đoàn
kết dân tộc, Lênin đặc biệt coi trọng sự tự nguyên chứ không phải bằng bạo
lực, cưỡng bức. Trong Thư gửi công nhân Ucraina Người viết:
“Chúng ta mong muốn các dân tộc tự nguyện liên minh với
nhau, một sự liên minh không dung thứ một hành động bạo
lực nào của nước này đối với nước khác, một sự liên minh đặt
cơ sở sự tin cậy hoàn toàn, sự giác ngộ về sự thống nhất anh
em, sự thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện”[53, tr. 50].
Nhưng theo Lênin, việc thiết lập được một sự liên minh như thế
không dễ dàng, không phải là ngày một ngày hai mà là một quá trình với sự
kiên nhẫn, thận trọng. Điều đó cho thấy rằng để tạo được một sự đồng ý
nhất trí một cách tự nguyện thì không thể nôn nóng, vội vàng.
Như vậy, có thể thấy rằng, các nhà kinh điển của chủ nghĩa mác tuy
chưa đặt vấn đề nghiên cứu đồng thuận xã hội nhưng các ông đã mong
muốn xây dựng một xã hội mà ở đó có sự đồng thuận giữa các tầng lớp,
giữa các dân tộc. Để thực hiện được điều đó, cần tôn trọng lợi ích của các
tầng lớp, các dân tộc và đề cao tinh thần tự nguyện. Muốn tiến tới một xã
hội như vậy, phải xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ
công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn
nguyên giá trị, là định hướng quan trọng cho con đường xây dựng sự đồng
thuận xã hội ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, của
tinh thần đại đoàn kết trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lên
nin “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” với tư tưởng truyền thống tốt
đẹp của ông cha ta “nước lấy dân làm gốc”, kế thừa và phát huy những tinh
hoa nhân bản của văn hóa thế giới và của dân tộc, đề ra chiến lược đại đoàn
kết xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận cũng như trong thực tiễn
lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
17
Trong tư tưởng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của đại
đoàn kết dân tộc. Người nói tới đại đoàn kết cũng chính là nói tới đồng
thuận xã hội. Trong di sản tư tưởng của Người, điều đó được thể hiện rất
rõ. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, với bất kỳ đối tượng nào Người cũng
luôn tìm ra điểm tương đồng để kêu gọi, đoàn kết toàn dân vì mục tiêu
chung. Ngay cả với những người Việt Nam lạc lối, lầm đường, Hồ Chí
Minh vẫn coi là dòng giống tổ tiên ta, đều mang dòng máu con Lạc cháu
Hồng nên phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ [39, tr. 247].
Với các tầng lớp nhân dân Người kêu gọi đoàn kết tất cả những
người yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào,
tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ của họ đã hợp tác với phe nào. Trong
Di chúc của mình, Người chỉ rõ:
“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân
ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng
đáng và sự nghiệp cách mạng thế giới”[43, tr. 512].
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải là con đường đồng
thuận và đại đoàn kết dân tộc, động viên tối đa mọi tiềm năng sáng tạo,
phát huy tối đa vai trò làm chủ của nhân dân. Muốn vậy, phải đoàn kết các
giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, mọi người, mọi lứa tuổi,
mọi cá nhân trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước
hay định cư ở nước ngoài, trong Đảng hay ngoài Đảng, lấy mục tiêu chung
là giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng những
điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ
mặc cảm, định kiến, hận thù, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đồng
thuận, đoàn kết, cởi mở tin cậy lẫn nhau, đề cao truyền thống nhân nghĩa,
khoan dung, vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội...
Để xây dựng sự đồng thuận xã hội, Hồ Chí Minh coi trọng công tác
tuyên truyền vận động, giáo dục để các giai cấp, tầng lớp tự nguyện thống
18
nhất với nhau vì mục tiêu chung chứ không phải là ép buộc, cưỡng bức.
Người nói “Phải đi đường lối của quần chúng, không được quan liêu, mệnh
lệnh và gò ép nhân dân”[42, tr. 606]. Với Hồ Chí Minh, đồng thuận không
có nghĩa là không còn đấu tranh mà là đấu tranh với tất cả tính phức tạp,
uyển chuyển của nó. Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ Ba của Ban Chấp
hành Trung ương khóa II, Người đã phê bình tình trạng “thiên về đoàn kết
một chiều, kém đấu tranh, giúp đỡ, phê bình, giáo dục”[40, tr. 462]. Cũng
phải tránh kiểu đồng thuận hình thức “bằng mặt mà không bằng lòng”.
Đồng thuận theo cách đó sẽ không bền vững và sớm muộn gì sự bất đồng
cũng sẽ xảy ra. Việc Đảng ta chủ trương xây dựng sự đồng thuận xã hội
chính là sự kế thừa, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới
của đất nước.
1.1.2. Khái niệm đồng thuận xã hội
So với thuật ngữ “đại đoàn kết” thường được nói đến như một chủ
trương chính trị trong các phát biểu của các nhà lãnh đạo và văn kiện của
Đảng, Nhà nước, “Đồng thuận xã hội” là một khái niệm mới xuất hiện
trong những năm gần đây. Khái niệm đó được chính thức sử dụng trong
Văn kiện của Đảng tại nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ 7 (khóa IX). Khi đề ra chủ trương phát huy sức mạnh của khối đại đoàn
kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, Đảng ta đã chính thức đặt ra vấn đề xây dựng sự đồng thuận xã
hội.
Từ điển tiếng Việt căn bản do Nguyễn Như Ý chủ biên, nhà xuất bản
giáo dục ấn hành thì “đồng” có nghĩa là cùng, “thuận” có nghĩa là bằng
lòng, đồng tình với ý kiến hoặc cái đã nêu ra. Từ đó có thể hiểu đồng thuận
là bằng lòng, đồng tình với nhau về một vấn đề nào đó.
Từ điển tiếng Pháp (2002), cho rằng đồng thuận (cosensus) được
hiểu là sự nhất trí của nhiều người, sự đồng ý và nhất trí cao của đa số [48,
tr. 21].
19
Trong Từ điển Chính trị học hiện đại của tác giả Đanhiencô, Đồng
thuận có nghĩa là sự đồng tình, đồng ý, sự liên kết theo mong muốn với
người khác. Nghĩa đen đầu tiên của từ đồng thuận dung để chỉ các cảm giác
có cùng một ý kiến, một suy nghĩ nào đó, là sự kết nối, liên kết, sự đồng
tình, đồng ý”[48, tr. 21]. Cũng theo tác giả này, từ đồng thuận liên quan đến
đồng tình và bao hàm trong đó cả sự tin tưởng lẫn nhau. Xem xét ở một góc
độ khác, đồng thuận đề cập tới việc giải quyết những vấn đề với sự đồng
tình, ủng hộ của nhiều người, cho dù có sự không đồng tình của nhóm
người hoặc một người nào đó.
Tác giả Song Thành quan niệm: đồng thuận là sự thỏa thuận về cái
chung, cái cơ bản nhất, đồng thời vẫn chấp nhận những sự khác biệt về dân
tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, văn hóa, lợi ích… trong xã hội [68, tr. 29-33].
Như vậy, có thể thấy, dù còn nhiều ý kiến nhưng khái niệm đồng
thuận được hiểu là sự đồng tình, nhất trí của đa số về một vấn đề nào đó.
Bất kỳ một tổ chức nào có sự tập hợp của một số người đều đòi hỏi phải tạo
được sự đồng thuận thì mới có thể tồn tại và phát triển. Gia đình, làng xóm,
cơ quan, doanh nghiệp… dù ở phạm vi rộng hay hẹp muốn tồn tại được đều
cần có sự đồng tình, nhất trí của đa số trên cơ sở tự nguyện chứ không phải
cưỡng bức, áp đặt, ép buộc. Nhưng đồng thuận trong những trường hợp
trên là đồng thuận trong phạm vi hẹp, có thể đạt được tương đối dễ dàng.
Đồng thuận xã hội mà ta nghiên cứu ở đây không phải là đồng thuận
nói chung, cũng không phải là đồng thuận trong phạm vi hẹp mà là đồng
thuận xã hội (social cosensus). Đó là đồng thuận ở phạm vi rộng, bao quát.
Tác giả Nguyễn Trần Bạt quan niệm “đồng thuận xã hội là sự thỏa
thuận thống nhất của nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp trong xã hội”[9]. Đồng
thuận là tiền đề tồn tại của mỗi hệ thống chính trị dân chủ đa lợi ích. Hệ
thống chính trị - xã hội đó cần sử dụng nguyên tắc tự do trên nền tảng sự
tương đồng ý chí của mình với những người khác, tự do biểu đạt sự đồng
tình của mình.
20
Theo tác giả Đỗ Quang Tuấn “Đồng thuận xã hội được hiểu là sự
đồng tình, ủng hộ và cùng thống nhất ý tưởng và hành động về những điểm
tương đồng chung của xã hội” [77, tr. 11].
Khi nói về đồng thuận trong phối hợp và hành động chung, tác giả
Phan Xuân Sơn cho rằng, nguyên tắc đó phải đảm bảo mọi vấn đề, mọi
quyết định không theo đa số mà theo mức độ đồng thuận. Sự đồng thuận tối
đa là quyết định đưa ra được tất cả đều đồng tình. Đồng thuận tối thiểu là
khi một vấn đề nào đó được đưa ra bàn bạc, nhưng chỉ đạt được sự nhất trí
trên nhưng nội dung căn bản, hoặc trên một số nội dung nhất định. Trong
trường hợp đó, nguyên tắc đồng thuận không cho phép đa số áp đặt ý chí
của mình, thiểu số không bắt buộc phải thực hiện quyết định của đa số. Dù
đa số hay thiểu số các thành viên sẽ chỉ cùng thực hiện những gì mà mình
đồng ý, những gì đã thỏa thuận được [63, tr. 56]. Đồng thuận xã hội là yêu
cầu nhất thiết phải đạt được để mỗi đơn vị cũng như toàn xã hội có thể tồn
tại, phát triển. Mỗi gia đình - tế bào của xã hội, cũng như mỗi cơ quan,
doanh nghiệp, mỗi tổ chức xã hội, giữa các thành viên trong xã hội cần
phải có sự đồng tình với nhau trên cơ sở những giá trị chung - những điểm
tương đồng. Đó là yêu cầu tối thiểu của sự ổn định, phát triển.
Từ những quan niệm trên ta có thể hiểu đồng thuận xã hội là sự đồng
tình, nhất trí trong suy nghĩ và hành động của các chủ thể xã hội về một
hay một số vấn đề nào đó trên cơ sở những điểm tương đồng về nhu cầu,
lợi ích… trong lúc vẫn thừa nhận, tôn trọng những điểm khác biệt với điều
kiện những điểm khác biệt này không là tổn hại đến mục tiêu chung, hành
động chung của cộng đồng các chủ thể đó.
Thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy, nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế xuất hiện nhiều giai cấp, tầng lớp với những lợi ích khác nhau.
Nước ta lại là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. “Mẫu số chung” cho tất cả
những điểm khác nhau đó là điểm tương đồng. Do vậy cũng có thể quan
niệm đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay là sự nhất trí trên những điểm
21
tương đồng [44, tr. 401]. Về chính trị, điểm đồng thuận chính là mục tiêu
chung giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh. Về kinh tế, đó là sự phát triển hài hòa các lợi ích
(cá nhân, tập thể, cộng đồng, xã hội) vì sự phát triển chung của đất nước.
Về tinh thần - tư tưởng, đó là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Về văn hóa,
tín ngưỡng, tâm linh, đó là sự hướng thiện, tôn vinh và nhớ ơn người có
công với Tổ quốc; giữ gìn và phát huy truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh và nhớ ơn người có công với Tổ quốc, với dân tộc và cộng đồng; là sự
tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo…
Sự đồng thuận thể hiện ở các phong trào thi đua yêu nước sôi nổi
như: Thi đua làm kinh tế giỏi, xóa đói giảm nghèo; thi đua xây dựng đời
sống văn hóa, ngăn chặn, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội,
các sản phẩm văn hóa độc hại; thi đua học tập, học tập suốt đời...
Như vậy, đồng thuận xã hội có nội dung đa dạng, phong phú, phức
tạp trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, như chính trị, kinh tế,
văn hóa, tâm lý, nhận thức, tín ngưỡng, tôn giáo; có nhiều phạm vi khác
nhau và mối quan hệ khác nhau, chẳng hạn trong nội bộ công đồng dân cư,
tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo hoặc giữa các lực lượng trong xã hội
với nhau.
Từ quan niệm về đồng thuận xã hội, trong đời sống chính trị cần lưu
ý một vài điểm sau:
- Thứ nhất, nói đến đồng thuận là nói đến sự đồng tình, nhất trí của
toàn thể hay đa số trong xã hội; từ sự đồng tình, thống nhất về ý chí đến sự
thống nhất về hành động. Sự đồng tình này dựa trên một cơ sở nhất định,
đó là những điểm tương đồng. Trước hết và cao nhất đó là lợi ích quốc gia,
dân tộc. Dù ở bất kỳ quốc gia nào, công dân phải ý thức được lợi ích quốc
gia của đất nước mình. Có thể về một số vấn đề nào đó, cá nhân, các nhóm
xã hội, các lực lượng xã hội còn có những ý kiến khác biệt nhưng đa số
trong xã hội vẫn đồng tình, chấp nhận nhau vì lợi ích chung đó. Ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, điểm tương đồng đó là xây dựng một nước Việt
22
Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
Những điểm tương đồng có thể ở phạm vi rộng - hẹp và ở từng giai
đoạn khác nhau thì điểm tương đồng khác nhau. Vì thế, ở một phạm vi nhất
định, trong từng thời kỳ nhất định, điều quan trọng là xác định được mục
tiêu chung.
Bên cạnh điểm tương đồng cơ bản thì vẫn tồn tại những điểm tương
đồng không cơ bản nhưng không phải là không quan trọng. Cũng cần phải
chú trọng đến những điểm không cơ bản để cuốn hút được sự đồng tình của
các thành viên trong xã hội. Đối với mỗi lực lượng xã hội khác nhau,
những điểm cơ bản cần nhấn mạnh có thể khác nhau. Chẳng hạn để được
sự đồng tình, nhất trí của lực lượng thanh niên thì nhất thiết phải chú trọng
vấn đề tư vấn và giải quyết việc làm...
- Thứ hai, mức độ, phạm vi của đồng thuận xã hội đạt được còn tùy
thuộc vào nhiều vấn đề, nhưng cơ bản nhất là đáp ứng được lợi ích của đa
số trong xã hội mà trước hết là lợi ích kinh tế. Các giai tầng trong xã hội sẽ
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước nếu như đường lối,
chính sách đó mang lại cho họ một sự đảm bảo ngày càng cao về đời sống
kinh tế. Trong thực tế, có thể có những quốc gia có nền kinh tế phát triển
cao nhưng đồng thuận xã hội lại đạt được ở mức độ thấp và ngược lại. Vì
thế, đáp ứng lợi ích cho các giai tầng trong xã hội là một yêu cầu cơ bản để
đạt được đồng thuận ở mức độ nhật định, đảm bảo một sự ổn định để phát
triển. Dù ở phạm vi và mức độ nào thì cuối cùng sự đồng thuận vẫn là một
điều kiện cơ bản của sự phát triển.
- Thứ ba, sự đồng tình, nhất trí này không phải là bằng bạo lực,
cưỡng bức mà trên cơ sở tự nguyện. Mỗi cá nhân, mỗi lực lượng xã hội
được tự do biểu đạt sự đồng tình. Đó chính là biểu hiện của dân chủ. Khi
một chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước hay, một quy chế, quy
định nào đó của một tổ chức xã hội được ban hành, muốn thực thi có hiệu
quả, nhất thiết phải được sự đồng ý, nhất trí của các thành viên trong cộng
23
đồng. Trong thực tế, không phải ngay từ đầu sẽ dễ dàng đạt được sự đồng
tình đó. Vì mỗi người, mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp, mỗi bộ phận đều có lợi
ích riêng. Do đó, để đạt được sự đồng thuận cần phải coi trọng công tác
tuyên truyền, hiệp thương, thảo luận. Hiệp thương là một hình thức quan
trọng để đạt được sự đồng thuận. Trong quá trình đó, mọi người được tự do
biểu đạt ý kiến của mình. Xã hội càng phát triển phong phú đa dạng bao
nhiêu thì nguyên tắc này càng được coi trọng bấy nhiêu và trở thành một
nguyên tắc xã hội. Hiệp thương có khả năng ngăn chặn và điều chỉnh được
sự chống đối, xung đột để không đi tới chỗ loại trừ lẫn nhau. Ngày nay,
thương thuyết, thảo luận đã trở thành những nguyên tắc sống trong xã hội.
Đó là sự thương thuyết, thỏa thuận giữa đôi bên chủ và thợ, giữa nhà nước
và công dân, giữa người quản lý với nhân viên, giữa các tổ chức xã hội,
giữa các quốc gia trên thế giới... Hiệp thương phải được thực hiện trên cơ
sở pháp luật. Trong quá trình hiệp thương, mọi công dân, mọi giai cấp đều
được bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc này góp phần quan trọng để
đưa đến sự đồng thuận xã hội.
Bản chất của đồng thuận xã hội là cùng hành động chung trên cơ sở
những điểm tương đồng, trong lúc vẫn tôn trọng những hành động độc lập
với những vấn đề chưa nhất trí. Vì vậy mà đồng thuận đạt được dựa trên cơ
sở tự nguyện, thấu tình đạt lý chứ không phải bằng cưỡng bức, bạo lực. Do
đó, để đạt được sự đồng tình ở mức độ cao, cần tạo ra một bầu không khí
thực sự dân chủ, cởi mở. Chỉ trong bầu không khí dân chủ, mỗi chủ thể mới
có thể thể hiện chính kiến của mình, mới có thể lắng nghe, từ đó tiến tới
đồng cảm, chia sẻ với chính kiến của các chủ thể khác.
- Thứ tư, trong thực tế, khó có thể ngay lập tức đạt được đồng thuận
xã hội một cách toàn diện và triệt để. Dù là một xã hội nhất thể hay đa
nguyên thì cũng không thể đạt được một sự đồng thuận tuyệt đối. Bởi vì,
xét về mặt kinh tế, mỗi giai cấp, tầng lớp có cơ sở kinh tế khác nhau, do đó
có lợi ích khác nhau. Điều có lợi cho giai cấp, tầng lớp này chưa hẳn đã có
lợi với giai cấp, tầng lớp khác. Về mặt tư tưởng, ngoài tư tưởng chính
24
thống giữ vai trò chủ đạo, trong xã hội còn tồn tại nhiều tư tưởng khác. Về
văn hóa, mỗi cộng đồng dân tộc có phong tục tập quán, lối sống, ngôn ngữ
riêng. Về tín ngưỡng, mỗi bộ phận dân cư tôn thờ một giáo lý nhất định…
Chỉ xét trong phạm vi một bộ phận xã hội cũng thấy còn nhiều sự khác biệt.
Do đó, có thể nói rằng, trong một điều kiện nhất định, đồng thuận xã hội
chỉ đạt được ở một ngưỡng nhất định. Vì vậy, để xây dựng sự đồng thuận
xã hội, điều quan trọng là xác định được những điểm tương đồng, từ tương
đồng căn bản rồi đến ít căn bản hơn. Từ đó để xác định được mức độ của
đồng thuận: Đồng thuận ở mức độ cao và đồng thuận ở mức độ thấp. Mục
tiêu của quá trình xây dựng sự đồng thuận xã hội là phải cố gắng đạt được
sự đồng thuận ở mức độ cao.
- Thứ năm, sự đồng tình, nhất trí giữa các thành viên, các nhóm xã
hội phải dựa trên cơ sở những điểm tương đồng, nhưng vẫn chấp nhận
những sự khác biệt, nếu không ảnh hưởng đến mục tiêu chung. Ở phạm vi
quốc tế, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia có lợi ích riêng, bản sắc văn hóa riêng…
Sự khác biệt đó trong quá trình phát triển của thế giới là cái tất yếu. Vì thế,
không có lý do gì để ép buộc dân tộc này, quốc gia này phải chấp nhận hệ
tư tưởng, bản sắc văn hóa của dân tộc khác, quốc gia khác, cũng như trong
phạm vi một quốc gia, một cộng đồng xã hội không thể ép buộc cá nhân
này phải chấp nhận tư tưởng, lối sống của cá nhân khác. Nếu không có sự
đa dạng trong lối sống của con người thì chẳng những con người không
chia sẻ được hạnh phúc với nhau mà còn không vươn lên được hết tầm vóc
trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ… mà mỗi con người có khả năng đạt tới. Mỗi cá
nhân có quyền tự do của mình, và sử dụng sao cho không ảnh hưởng đến
quyền tự do của người khác, ảnh hưởng đến những chuẩn mực chung của
cộng đồng. Do đó, để có thể đạt được sự đồng thuận, phải tôn trọng và chấp
nhận những sự khác biệt, nếu những khác biệt đó không làm tổn hại đến
các giá trị chung. Đặc biệt trong những xã hội đa nguyên (không thuần nhất
về tôn giáo, ngôn ngữ…) thì nguyên tắc đó càng phải được đề cao.
25