Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sự vận dụng học thuyết kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.86 KB, 9 trang )

MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của xã hội, xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử
nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Mỗi khi xuất hiện một phương thức sản xuất mới
thì xã hội lại có nhiều thay đổi cơ bản: kết cấu kinh tế xã hội thay đổi, những
quan hệ xã hội về các mặt chính trị, tư tưởng, pháp quyền, đạo đức cũng biến
đổi theo. Đó là sự tiến bộ xã hội, tiến bộ xã hội là sự vận động theo hướng tiến
lên của các hình thái kinh tế xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế xã hội này
bằng hình thái xã hội khác cao hơn mà gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển
không ngừng của lực lượng sản xuất.
Đối với Việt Nam, từ một nền kinh tế tiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn,
lạc hậu và nhanh chóng đạt tới trình độ của một nước phát triển thì tất yếu cũng
phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như là “một cuộc cách
mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Mà cơ
sở lý luận sâu xa của “cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc” đó chính là học
thuyết Mác về hình thái kinh tế xã hội.
Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng ta cùng đi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này
thông qua đề tài: “Sự vận dụng học thuyết kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện
nay“.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Khái niệm và kết cấu:
1. Khái niệm:
Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ xã hội loài người ở từng giai đoạn phát triển nhất định ứng với một
quan hệ sản xuất đặc trưng trong xã hội đó phù hợp với một trình độ phát triển
tương ứng được xây dựng trên cơ sở những quan hệ sản xuất hiện có.
2. Kết cấu:
Một hình thái kinh tế xã hội (hay một nấc thang phát triển của loài người)
gồm ba yếu tố cơ bản:
- Quan hệ sản xuất đặc trưng (quan hệ sản xuất thống trị) của cơ sở hạ tầng
1
- Lực lượng sản xuất của xã hội đó, trong đó bao gồm người lao động và tư


liệu sản xuất.
- Kiến trúc thượng tầng của xã hội, trong đó bao gồm thiết chế xã hội và ý
thức xã hội tương ứng.
II. Sự vận dụng hình thái kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay:
1. Việc lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã vận dụng
học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát
triển của xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau cách mạng tháng Mười Nga.
Khi đó, chủ nghĩa xã hội được xây dựng theo mô hình kế hoạch hóa tập trung.
Mô hình đó đã phát huy vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử nhất định,
nhưng đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã rơi vào khủng hoảng nghiêm
trọng, dẫn đến chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Từ đó,
có quan điểm khẳng định chủ nghĩa tư bản là vĩnh viễn và phủ nhận chủ nghĩa
xã hội.
Thực ra, khủng hoảng đó chỉ bác bỏ chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạc
hóa tập trung, chứ không phải bác bỏ chủ nghĩa tư bản vĩnh viễn với tính cách là
chủ nghĩa xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản. Chính sự khủng hoảng đó giúp cho
chúng ta nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và noc đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Nếu như cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII – XIX đã quyết định
thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với phong kiến, thì cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại đang tạo ra những tiền đề vật chất để thay thế chủ nghĩa
tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta
khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau. Đó là quy
2
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách

mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao
động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; noc người được giải phóng khỏi áp bức , bóc lột, bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước binnhf
đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Mục tiêu của chúng ta là: “xây dựng
một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh“.
Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tuy nhiên bỏ qua ở đây không phải là xóa bỏ hoàn
toàn mà vẫn kế thừa những điểm tiến bộ, điều đó được thể hiện trong cả ba lĩnh
vực:
a. Kinh tế
Bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
b. Chính trị
Bỏ qua sự xác lập của Nhà nước tư bản chủ nghĩa tức bỏ qua pháp luật tư sản,
nền dân chủ tư sản, địa vị của giai cấp tư snả trong địa vị thống trị. Nhưng kế
thừa, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Nhà nước, xã hội, văn hóa.
c. Tư tưởng – văn hóa
Bỏ qua chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng; bỏ qua những yếu tố phản
động, không phù hợp với Việt Nam về mặt tư tưởng – văn hóa. Nhưng kế thừa,
3
tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trong xã hội tư sản như: sự tôn trọng người phụ

nữ…
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
nên phải trải qua một thời kỳ qua độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ.
2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Trong quá trình xây dựng xã hội ở nước ta, Đảng và nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
Ngày nay, tất cả các nước đều phải xây dựng và phát triển kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường được sử dụng với
mục đích khác nhau. Trong các nước tư bản, đó là kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa. Ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả
của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trinnhf độ nhất định, kết quả của
quá trình phân công lao động xã hội, đa dạng hóa các hình thưc sở hữu, đồng
thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trườnh định hướng xã hội chủ nghĩa
có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc.
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu
cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây
dựng nền kinh tế độc lập , tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
4
Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở
vật chất – lỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển
lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp
trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối“.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể tách rời vai trò
quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ
nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,
chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động của toàn thể nhân dân.
3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ,
lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thống nhất của chúng ta là một nền đại
công nghiệp. Chính vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa . Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa,
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại biểu đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra: “con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có
những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ,
từng bước phát triển kinh tế trí thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hó.
5

×