Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

ai trò của nhà nước trong việc giải quyết thời cơ và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 166 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯƠNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

ĐINH NGUYỄN AN

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------

ĐINH NGUYỄN AN

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: CNDVBC và CNDVLS
Mã số
: 62.22.80.05



LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn
2. PGS,TS. Trần Thành

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Triết học với đề tài “Vai trò Nhà nước
trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự hướng dẫn khoa
học của PGS,TS. Nguyễn Anh Tuấn và PGS,TS.Trần Thành.
Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào
khác.
Hà Nội, Ngày 21 tháng 04 năm 2015
Tác giả luận án

Đinh Nguyễn An


MỤC LỤC
Trang

1

MỞ ĐẦU


Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CĨ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu bản chất, đặc điểm của tồn cầu
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

6

1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu cơ hội và thách thức trong thực
tiễn hội nhập kinh tế quốc tế

11

1.3. Nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan đến vai trị nhà nước
nói chung, Nhà nước Việt Nam nói riêng trong bối cảnh tồn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

20

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI VÀ THÁCH
THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

29

2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội và thách thức của hội nhập

kinh tế quốc tế

29

2.1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế

29

2.1.2. Cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

33

2.2. Nội dung vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

57

Chương 3: VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ Ở VIÊT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA

72

3.1. Thực trạng vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và
thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay

72

3.1.1. Nhà nước xây dựng chiến lược và lộ trình hội nhập quốc tế

trên cơ sở nhận thức và dự báo chính xác cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế

72


3.1.2. Nhà nước điều chỉnh, tạo ra những điều kiện thuận lợi về
thể chế, chính sách, pháp luật đối với việc nắm bắt cơ hội,
vượt qua thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

78

3.1.3. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế, phát huy nội lực
kết hợp với tranh thủ ngoại lực nhằm tận dụng cơ hội vượt
qua thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế

83

3.1.4. Nhà nước đàm phán, ký kết và thực hiện các hiệp định,
hợp đồng kinh tế - thương mại quốc tế và khu vực trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

87

3.1.5. Vai trị giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái trong hội nhập kinh tế quốc tế

95

3.1.6. Nhà nước đấu tranh đảm bảo chủ quyền quốc gia, nâng cao

vị thế đất nước trên trường quốc tế

98

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò Nhà nước
trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế ở Việt Nam

102

3.2.1. Khắc phục tình trạng năng lực dự báo của Nhà nước chưa
theo kịp sự biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và khó lường
của thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế

103

3.2.2. Giải quyết có hiệu quả tình trạng năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn giải quyết cơ hội, thách thức của hội nhập kinh
tế quốc tế

105

3.2.3. Sớm khắc phục tình trạng hệ thống pháp luật Việt Nam
còn tồn tại nhiều khác biệt, mâu thuẫn với các quy định,
luật pháp quốc tế

109

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY VAI

TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CƠ HỘI
VÀ THÁCH THỨC CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

114


4.1. Dự báo những yếu tố tác động đến vai trò Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

114

4.1.1. Những yếu tố tác động tích cực

114

4.1.2. Những yếu tố tác động tiêu cực

118

4.2. Quan điểm cơ bản phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay
4.2.1. Quán triệt đường lối “chủ động và tích cực” hội nhập quốc tế

123
123

4.2.2. Quán triệt phép biện chứng duy vật; kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại


125

4.2.3. Vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu .............127
4.3. Giải pháp cơ bản phát huy vai trò của Nhà nước trong việc
giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay

130

4.3.1. Nâng cao năng lực dự báo của Nhà nước kịp thời giải quyết
cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

130

4.3.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
với cơ cấu hợp lý, đủ về số lượng, cao về chất lượng

132

4.3.3. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy Nhà nước, đổi mới
phương thức quản lý nhằm phát huy mọi nguồn lực giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế

135

4.3.4. Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hội nhập kinh
tế quốc tế đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc và phù hợp với
những quy định và luật pháp quốc tế
KẾT LUẬN


137
141

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

143

TÀI LIỆU THAM KHẢO

144

PHỤ LỤC

158


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, xu thế toàn cầu hóa diễn ra ngày càng
mạnh mẽ, lơi cuốn hầu hết các quốc gia, dân tộc, từ nhỏ đến lớn; từ các quốc
gia đang phát triển đến các quốc gia phát triển; khơng phân biệt chế độ chính
trị hay tơn giáo. Nó đã và đang tạo ra sự biến động nhanh chóng, sâu sắc, phức
tạp và khó lường trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, qn sự
đến khoa học kỹ thuật và cơng nghệ; từ các quan hệ giai cấp, dân tộc đến các
quan hệ sắc tộc và quan hệ tơn giáo,… Tồn cầu hóa được xem là một xu thế
phát triển tất yếu khách quan của thời đại và hội nhập quốc tế là một quá trình
phù hợp với những quy luật khách quan đó. Trong hội nhập quốc tế, hội nhập

kinh tế quốc tế vừa là mặt cơ bản, trung tâm, vừa chi phối hội nhập trên tất cả
các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập
trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu
vực và thế giới”. Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu
quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội X, Đảng ta tiếp tục phương châm “chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”.
Về Hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta luôn khẳng định: 1) hội nhập kinh tế
quốc tế là do yêu cầu nội sinh, do yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hội nhập
kinh tế quốc tế là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị; 2) hội nhập kinh tế quốc
tế phải gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước; 3)
chủ động hội nhập, dựa vào nguồn lực trong nước là chính, đi đơi với tranh thủ
tối đa nguồn lực bên ngồi. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và
1


thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những
sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả; 4) để đủ sức hội nhập kinh tế quốc
tế cần nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu thị trường, xây dựng đồng bộ thị trường
trong nước, xây dựng các doanh nghiệp vững mạnh; xử lý đúng đắn lợi ích
giữa nước ta và các đối tác; 5) chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế
giới, tích cực tham gia đàm phán thương mại, tham gia các diễn đàn, các tổ
chức, các hiệp định, chế định quốc tế một cách chọn lọc với những bước đi tỉnh
táo và thích hợp.
Vậy là, quan điểm, chủ trương về hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà
nước ta là rõ ràng, minh bạch, tích cực và chủ động. Nhờ vậy, cơng cuộc đổi
mới của Việt Nam đã thu được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, góp

phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ, đảm bảo an ninh chính trị, cải thiện đời sống nhân dân và củng cố niềm tin
của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh những luồng “gió lành”
cũng khơng ít những độc hại; thời cơ ln đi liền với thách thức. Để tiếp tục
hội nhập sâu rộng và hiệu quả, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải nâng cao vai trò
trong giải quyết mối quan hệ giữa cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế.
Cho đến nay, đã có khơng ít cơng trình trong và ngồi nước nghiên cứu
về đề tài mang tính thời sự này. Các cơng trình đó đã phác họa một bức tranh
tổng thể, khá đa dạng, phong phú về thế giới đương đại, đặc biệt là xu thế tồn
cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, các công trình đó chưa thực sự
nghiên cứu chun sâu, có hệ thống, dưới “lăng kính” triết học về vai trị Nhà
nước trong mối quan hệ với cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
2


Xuất phát từ “mảnh đất còn trống” trong nghiên cứu trước đây về đề tài
này và từ nhiệm vụ mới của Nhà nước trong điều kiện nước ta đang hội nhập
ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tơi đã lựa chọn vấn đề Vai trị
Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế
quốc tế ở Việt Nam hiện nay làm tiêu đề luận án Tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp cơ
bản nhằm thực hiện tốt hơn vai trò Nhà nước trong giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất: Phân tích những vấn đề lý luận về cơ hội và thách thức của hội
nhập kinh tế quốc tế; vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai: Đánh giá thực trạng và khái quát những vấn đề đặt ra trong việc
thực hiện vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức qua thực tiễn hội
nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
Thứ ba: Dự báo nhân tố tác động đến vai trò Nhà nước trong thời gian
tới; khẳng định quan điểm và đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt
hơn vai trò Nhà nước giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay trong giai đoạn mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu : Luận án nghiên cứu vai trò Nhà nước trong
việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò Nhà nước thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; tuy
nhiên, luận án chỉ tập trung vào nghiên cứu vai trò Nhà nước trong việc giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
3


Hội nhập quốc tế có phạm vi rộng, bao trùm trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh,… trong khn khổ luận án,
tác giả chỉ đề cập đến hội nhập kinh tế quốc tế với tư cách là mặt cơ bản, trung
tâm của hội nhập quốc tế ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước; đặc
biệt, từ năm 2006 - khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Những nguyên lý cơ bản của triết học Mác - Lênin về mối liên hệ phổ

biến và sự phát triển; lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước,
vai trị của nhà nước, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ...
Các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
về tồn cầu hóa, về tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và về vai trò Nhà nước
trong giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
hiện nay.
Luận án kế thừa kết quả của một số cơng trình khoa học về nhà nước,
vai trị Nhà nước trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa vào phương pháp luận duy vật biện chứng, sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử - lơgic, hệ thống cấu trúc, thống kê và
một số phương pháp khác...
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Một là, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò Nhà nước trong
việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đánh giá vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay; khái quát một số vấn
đề đặt ra đối với việc thực hiện vai trò Nhà nước Việt Nam trong việc giải
quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
4


Ba là, dự báo nhân tố tác động đến vai trò Nhà nước trong việc giải quyết
cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế thời gian tới; khẳng định
quan điểm và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thực hiện tốt hơn vai trò Nhà
nước trong việc giải quyết cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Cung cấp luận cứ khoa học cho việc giải quyết mối quan
hệ giữa cơ hội và thức thức, vai trò Nhà nước trong việc giải quyết cơ hội và

thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan quản lý nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, quản lý kinh tế, các
doanh nghiệp, ... trong việc nâng cao nhận thức và giải quyết cơ hội và thách
thức của hội nhập quốc tế nói chung, hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và
học tập các môn Triết học Mác - Lênin, Nhà nước và Pháp luật, Khoa học hành
chính, Quan hệ quốc tế ở các trường đại học, cao đẳng, các trung tâm và các
học viện...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận án được
kết cấu thành 04 chương, 10 tiết.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Nhóm cơng trình nghiên cứu bản chất, đặc điểm của tồn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế
Ngày nay, tồn cầu hóa đã và đang trở thành xu thế tất yếu, khách quan và
hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phát triển hợp quy luật, có tác động,
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, đối
với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề này,
khoảng hơn 20 năm gần đây, đã có nhiều các cơng trình khoa học trong và
ngồi nước đề cập đến ở những khía cạnh và góc độ khác nhau.
Ở trong nước, có thể kể đến một số cơng trình sau đây: Tồn cầu hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [92] của tác giả Lê Hữu Nghĩa (2003); Tác
động của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế - xã hội ở Việt

Nam [23] do tác giả Tô Xuân Dân và Nguyễn Thành Công (đồng chủ biên,
2006); Tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển bền vững từ góc nhìn triết học
đương đại [120] của các tác giả Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thị Hồng Diễm (đồng
chủ biên, 2011); Hội nhập Quốc tế: một số vẫn đề lý luận và thực tiễn [in trong
83] của tác giả Phạm Quốc Trụ (2011); Vai trò của Nhà nước đối với hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam [58] của tác giả Mai Lan Hương (2012), … Ở
nước ngồi là các cơng trình: Tồn cầu hóa với thế giới thứ ba [in trong 53]
của tác giả Lý Thận Minh (2000); Chiếc Lexus và Cây ôliu [76] của Nhà báo
nổi tiếng người Mỹ Thomas Friedman (2005), …
Với tầm nhìn và cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã cố gắng xây dựng
“một bức tranh” toàn cảnh, hiện thực và sống động nhất về tồn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế. Chính những luận điểm quan trọng trong các cơng trình

6


này là nguồn tài liệu đa dạng, phong phú để luận án kế thừa và tiếp tục đi sâu
nghiên cứu.
Quan niệm về tồn cầu hóa, mặc dù chưa có sự thống nhất, nhưng trong
các cơng trình: Tồn cầu hóa - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” [92] của tác
giả Lê Hữu Nghĩa (2003); Tồn cầu hóa, hội nhập và phát triển bền vững từ
góc nhìn triết học đương đại [120] của các tác giả Hồ Bá Thâm, Nguyễn Thị
Hồng Diễm (đồng chủ biên, 2011); … các tác giả đã đề cập tương đối sâu sắc
và toàn diện những vấn đề lý luận - thực tiễn; đều thừa nhận hạt nhân, bản chất
của tồn cầu hóa là q trình tồn cầu hóa kinh tế, khẳng định những “nấc
thang” trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc trưng cơ bản của tồn cầu
hóa là làm tăng lên ngày càng nhiều sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
dân tộc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà trước hết là kinh tế.
Điều đó biểu hiện ở hai q trình. Một là, sự gia tăng các luồng giao lưu quốc
tế về thương mại, vốn, cơng nghệ, dịch vụ… Hai là, hình thành và phát triển

các thị trường thống nhất trên phạm vi toàn cầu và tăng cường các định chế và
cơ chế tổ chức, quản lý hoạt động giao dịch kinh tế quốc tế.
Đề cập đến những yếu tố thúc đẩy toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế từ cuối thập niên 80 (thế kỷ XX) trở lại đây, các tác giả đều cho rằng, có ba
yếu tố cơ bản: Thứ nhất, đó là sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất,
đặc biệt là sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật, vốn đã trở thành lực lượng sản xuất
chính. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ từ cuối thập niên 70
của thế kỷ XX đã làm thay đổi sâu sắc các họat động kinh tế xã hội của con
người. Thứ ba, là sự hình thành và phát triển và ngày càng vươn vòi ra khắp
thế giới của các cơng ty xun quốc gia, là chính sách tự do hóa thương mại
của các nước, trước hết là các nước tư bản phát triển phương Tây. Trong đó,
cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại
đây đã làm thay đổi sâu sắc các họat động kinh tế - xã hội của con người, đóng
vai trị đặc biệt quan trọng.
7


Tác giả Mai Lan Hương (2012) trong tác phẩm Vai trò của Nhà nước đối
với hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam [58], đã chỉ ra sự cần thiết phải
phân biệt rõ hai khái niệm “tồn cầu hóa kinh tế” và “hội nhập kinh tế quốc tế”.
Nếu như, trong khái niệm “tồn cầu hóa kinh tế”, tác giả Mai Lan Hương cơ
bản nhất trí với các quan niệm của các tác giả nêu trên, thì trong khái niệm “hội
nhập kinh tế quốc tế”, tác giả đã phân tích và chỉ rõ, hội nhập kinh tế quốc tế là
quá trình các quốc gia gắn kết nền kinh tế của nước mình với kinh tế khu vực
và thế giới bằng các nỗ lực thực hiện tự do hóa kinh tế, mở cửa kinh tế trên các
cấp độ đơn phương, song phương, đa phương và giảm thiểu sự khác biệt để trở
thành một bộ phận hợp thành của chỉnh thể kinh tế tồn cầu. Tồn cầu hóa kinh
tế là xu hướng liên kết kinh tế toàn cầu. Đồng thời, khi xu hướng này được các
chủ thể kinh tế (nhà nước, doanh nghiệp, …) nhận thức đầy đủ và hiện thực
hóa trong hoạt động thực tiễn thì đó là q trình hội nhập kinh tế quốc tế. Có

thể nói đây là luận điểm quan trọng làm nổi bật sự khác nhau giữa tồn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cách nhìn nhận của tác giả Mai Lan
Hương là dựa trên lăng kính của nhà kinh tế học, chứ không phải nhà triết học.
Bởi vậy, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế vẫn cần được đề cập sâu hơn và
đầy đủ hơn trong phần lý luận chung của luận án.
Trong giới học thuật cũng như những người làm chính sách, cho đến nay,
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về hội nhập quốc tế. Tác giả Phạm
Quốc Trụ trong bài viết Hội nhập Quốc tế: một số vẫn đề lý luận và thực tiễn
[in trong 83] năm 2011 đã khái quát những cách tiếp cận của các học giả khác
nhau ở ngoài nước về hội nhập quốc tế, từ đó chỉ ra lơgic và bản chất của quá
trình này. Tác giả nhấn mạnh: hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế
thơng thường. Nó địi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham
gia. Tác giả chỉ ra bốn lĩnh vực hội nhập quốc tế cơ bản là hội nhập kinh tế
quốc tế, hội nhập chính trị, hội nhập an ninh quốc phịng, hội nhập văn hóa xã
hội. Trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất trong các quan hệ quốc
8


tế hiện nay. Dựa vào những nhận định của tác giả Phạm Quốc Trụ trong bài
viết này, tác giả luận án có thể kế thừa một số nội dung hợp lý để luận giải vấn
đề dự báo nhân tố tác động đến “vai trò Nhà nước” trong bối cảnh mới - tức
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng thành hội nhập quốc tế nói
chung trên tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Tác giả Lê Hữu Nghĩa trong bài viết: Toàn cầu hóa - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn [92] năm 2003, đã khẳng định, tồn cầu hóa, mà cốt lõi là
tồn cầu hóa kinh tế với tư cách là xu thế khách quan của thế giới đương đại,
đang bị chi phối bởi những lực lượng đứng đằng sau q trình đó là các cơng ty
xun quốc gia, trong đó tuyệt đại đa số là các cơng ty tư bản. Chủ nghĩa tư
bản đang lợi dụng xu thế toàn cầu hóa kinh tế để thực hiện tồn cầu hóa tư bản
chủ nghĩa. Tác giả cho rằng, tồn cầu hóa hiện nay về cơ bản mang tính chất tư

bản chủ nghĩa, là tham vọng của chủ nghĩa tư bản muốn tạo ra một thế giới mới
theo mơ hình của nó. Do đó, tồn cầu hóa cịn là một q trình đấu tranh giai
cấp và mâu thuẫn dân tộc gay gắt, là cuộc đấu tranh của nhân dân lao động, các
lực lượng xã hội tiến bộ, các nước đang phát triển chống lại sự nơ dịch, can
thiệp, bóc lột, áp đặt của chủ nghĩa tư bản vì một tồn cầu hóa bình đẳng giữa
các quốc gia, dân tộc; vì một trật tự thế giới mới.
Tác giả Lý Thận Minh trong bài viết Tồn cầu hóa với thế giới thứ ba [in
trong 53] năm 2000 đã phân tích và đưa ra kết luận rằng, xu thế tồn cầu hóa
hiện nay về bản chất là “tồn cầu hóa tư bản chủ nghĩa”. Các nước tư bản nắm
trong tay những lợi thế lớn về vốn, khoa học và công nghệ, … đều ra sức lợi
dụng tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để áp đặt những giá trị, những
mơ hình phát triển và phổ biến giá trị phương Tây ra “khắp hành tinh”. Do đó,
tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế vừa là q trình phát triển mang tính tất yếu
khách quan, vừa là q trình phát triển mang tính áp đặt, giống như quá trình
chủ nghĩa tư bản “chinh phục toàn thế giới”. Nhà báo nổi tiếng người Mỹ
Thomas Friedman trong tác phẩm Chiếc Lexus và Cây ôliu [76] năm 2005
9


cũng cho rằng, hệ thống tồn cầu hóa mang một sắc thái riêng, bao trùm và có
xu hướng đồng hóa các quốc gia và cá nhân ở một mức độ nhất định. Về mặt
văn hóa thì đó là q trình “Mỹ hóa” tồn cầu, …
Mặc dù vậy, cũng phải thừa nhận rằng, tồn cầu hóa đã và đang tác động
cả chiều thuận lẫn chiều nghịch đến hầu hết các nước trên thế giới, không phân
biệt chế độ, mức sống giàu, nghèo. Tuy nhiên, những quốc gia nghèo, còn đang
trong quá trình phát triển sẽ dễ bị tổn thương hơn các nước giàu do tiềm lực
kinh tế và sức mạnh nội tại của các nước này còn yếu, chưa đủ mạnh để chống
đỡ với những biến cố toàn cầu. Về vấn đề này, trong tác phẩm Tác động của
hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống kinh tế - xã hội ở Việt Nam
[23], tác giả Tô Xuân Dân và Nguyễn Thành Công cũng đã đi sâu phân tích

những tác động khác nhau của hội nhập kinh tế quốc tế đến tư duy và đời sống
kinh tế - xã hội toàn cầu. Theo cách lý giải của tác giả thì mặc dù các nước phát
triển là các chủ thể tích cực nhất của xu thế hội nhập ngày nay, song do hội
nhập kinh tế quốc tế là một quá trình phức tạp với những nội dung đan xen và
những mâu thuẫn lợi ích nên ngay chính trong bản thân các nước này cũng
chưa thể đồng thuận hoàn tồn với những bước tiến sâu rộng của q trình hội
nhập. Bởi vậy, tác giả đã phân định sự tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến nhóm những nước phát triển và nhóm những nước đang phát triển là có sự
khác nhau căn bản...
Tóm lại, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đem lại “cái nhìn đa
chiều” về tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Về mặt định nghĩa có thể
chưa tương đồng nhưng các tác giả lại tương đối nhất quán trong quan niệm về
các đặc trưng, nguồn gốc và nội dung của q trình này. Các tác giả đều thừa
nhận tồn cầu hóa mà hạt nhân là tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế,
trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là cơ bản nhất, đã trở thành xu thế chung của
thời đại, đang tác động mạnh mẽ và làm biến đổi căn bản đời sống của các
quốc gia. Các tác giả cũng chỉ ra, trong bối cảnh quốc tế đương đại bản chất
10


của q trình tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế còn mang rất
đậm màu sắc tư bản chủ nghĩa. Tồn cầu hóa kinh tế hay “Mỹ hóa”, “phương
Tây hóa” vẫn đang được đặt ra trong nghiên cứu lý luận. Điều đó cũng nói lên
rằng, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đó sẽ khơng chỉ vì mục tiêu kinh
tế mà sẽ cịn là vấn đề mang tính chính trị - xã hội sâu sắc. Do vậy, các quốc
gia trong quá trình mở cửa, tiến hành hội nhập quốc tế phải nắm được những
vấn đề mang tính bản chất đó để có những lựa chọn và giải pháp khơn ngoan
trong q trình giao thoa, kết nối, tồn tại và phát triển, cần vừa đẩy mạnh hội
nhập kinh tế quốc tế, vừa giữ được tính độc lập, tự chủ trong các quan hệ quốc
tế. Hơn bao giờ hết, cần nhận thức đầy đủ và thực hiện nhất quán phương châm

vừa hợp tác, và đấu tranh, thực hiện nhất quán phương châm: “Dĩ bất biến, ứng
vạn biến”, …
Tuy nhiên, chúng tơi cho rằng, cần có thêm nhiều cơng trình nghiên cứu,
luận giải những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế,
góp phần hình thành cơ sở lý luận vững chắc của việc hoạch định và tổ chức
triển khai thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta hiện nay.
1.2. Nhóm cơng trình nghiên cứu cơ hội và thách thức trong thực tiễn
hội nhập kinh tế quốc tế
Khơng ai có thể phủ nhận rằng, tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
mang lại những cơ hội lớn chưa từng có cho sự phát triển của các quốc gia, dân
tộc. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển nếu biết dự báo đúng và nắm bắt
kịp thời xu hướng vận động của nó, sẽ đứng trước những cơ hội lớn để thực
hiện quá trình phát triển “rút ngắn”. Tuy nhiên, mặt trái của tồn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế cũng đã và đang đặt ra hàng loạt những thách thức mà các
quốc gia phải đối mặt và giải quyết.
Nghiên cứu về những cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế,
đã có nhiều các cơng trình khoa học có giá trị, thể hiện sự tiếp cận dưới nhiều
11


khía cạnh khác nhau và tạo ra những “cách nhìn” vừa mang tính tổng thể, vừa
đa chiều. Ở trong nước, có thể kể đến các cơng trình sau: Tồn cầu hóa và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam [131] của các tác giả Trần Trọng Toàn,
Đinh Nguyên Khiêm (đồng chủ biên, 1999); Tồn cầu hóa, nguy cơ tha hóa và
vấn đề giá trị văn hóa tinh thần [129] của tác giả Đặng Hữu Toàn (2006); Độc
lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [69] của
tác giả Thái Văn Long (2006); Ra biển lớn [123] của nhà báo Hữu Thọ
(2009); Một số vấn đề về Tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt Nam
vào kinh tế thế giới [117] của tác giả Nguyễn Văn Thạo (2000); Chủ động và

tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay [106]
của tác giả Phương Kỳ Sơn (2005); Khi Việt Nam đã vào WTO [54] của Ban
Thư ký khoa học, Hội đồng lý luận TW, (2007); Toàn cầu hóa kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam [119] của tác giả Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên, 2007); Chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa [52] của tác giả Hồng Ngọc Hịa (chủ biên, 2007), …
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi đáng kể là: Những thách thức
của Tồn cầu hóa - 50 năm sau Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 [15] của tác
giả Bonnie Campbell (1998); Khi tồn cầu hóa đẩy nhanh sự rò rỉ chất xám
[72] của tác giả Cristina L’Homme (2002), …
Trong các cơng trình nêu trên, các tác giả đều khẳng định tồn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế là các quá trình phức tạp, đầy mâu thuẫn, mang đến cả
cơ hội và thách thức cho các quốc gia, dân tộc. Về mặt cơ hội, các tác giả đều
khẳng định: Tồn cầu hóa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao. Và thông qua tự do hóa thương mại,
các nước trong q trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa có thể mở
rộng thị trường giao thương, tăng khả năng thu hút các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài; tạo ra cơ hội tiếp nhận, chuyển giao công nghệ mới, học hỏi kinh
12


nghiệm tổ chức quản lý, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, dịch vụ và
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và của mỗi doanh nghiệp. Hội nhập kinh tế
quốc tế cũng làm gia tăng sự phụ thuộc và xích lại gần nhau giữa các quốc gia,
dân tộc về mặt kinh tế, dần dần hình thành một thể thống nhất, xóa đi những
ngăn trở và khoảng cách trên nhiều phương diện. Đối với các nước đang phát
triển, tham gia vào hội nhập sẽ tạo cho mình cơ hội thuận lợi để phát triển và
thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế - xã hội với các nước
công nghiệp.

Tác giả Lý Thận Minh trong bài viết Tồn cầu hóa với thế giới thứ ba [in
trong 53] đã dẫn lời của nguyên Chủ tịch Cu Ba Fidel Castro khi nói về vấn đề
tồn cầu hóa rằng, tồn cầu hóa với những thành tựu cơng nghệ đầy ấn tượng,
là một tiềm lực vô cùng to lớn để phát triển và xóa bỏ đói nghèo, tăng thêm của
cải vật chất cho xã hội. Nhưng ông cũng nhấn mạnh những cơ hội mà tồn cầu
hóa mang lại khơng được phân chia một cách bình đẳng, bởi sự tơn sùng cạnh
tranh thị trường và hạn chế vai trị của chính phủ. Về điều này, tác giả Bonnie
Campbell trong bài viết: Những thách thức của Tồn cầu hóa - 50 năm sau
Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 [15] đã khẳng định, tồn cầu hóa làm cho
các dân tộc xích lại gần nhau, nhưng tùy thuộc lẫn nhau khơng có nghĩa là thiết
lập các mối quan hệ cân đối hoặc là có những cơ may như nhau. Trong đó,
những bất lợi thường rơi vào các nước đang phát triển.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã chỉ ra những thách thức to lớn do mặt
trái của tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế gây ra. Các tác giả cho rằng,
quá trình tồn cầu hóa làm cho các nền kinh tế suy giảm sự độc lập tự chủ và
tăng dần sự phụ thuộc lẫn nhau. Đây là một thách thức nghiêm trọng trong mối
tương quan giữa một nền kinh tế độc lập với xu thế liên kết giữa các nền kinh
tế trong tồn cầu hóa. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là gay gắt, khốc liệt
trên phạm vi quốc gia cũng như toàn cầu. Trong cuộc cạnh tranh này, trong bài
Về xu thế tồn cầu hóa/khu vực hóa: tiến trình phát triển, yếu tố quyết định và
13


cơ hội/thách thức [in trong 83] tác giả Phạm Quốc Trụ cho rằng, các nước đang
phát triển dường như bị rơi vào thế bất lợi hơn do họ khơng có được những ưu
thế như các nước phát triển. Tác giả Thái Văn Long trong cơng trình: Độc lập
dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa [69] năm 2006,
cho rằng, trong q trình tồn cầu hóa, chủ quyền quốc gia dân tộc cả về chính
trị và kinh tế đều bị đặt trước những thách thức lớn lao. Vấn đề cấp bách, sống
còn của các nước đang phát triển hiện nay là cần kết hợp chặt chẽ việc mở rộng

hợp tác quốc tế với đấu tranh xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ,
bảo vệ chủ quyền kinh tế trong quá trình hội nhập. Chỉ trên cơ sở đó, chính phủ
các nước này mới không bị bất cứ một tổ chức, một thế lực nào áp đặt các điều
kiện đi ngược lại lợi ích quốc gia.
Tác giả Đặng Hữu Tồn trong bài viết: Tồn cầu hóa, nguy cơ tha hóa và
vấn đề giá trị văn hóa tinh thần [129] năm 2006; đã nêu lên một trong những
vấn đề hết sức nan giải cho hầu hết các quốc gia trong việc định hướng giá trị
văn hóa tinh thần nói chung, định hướng các giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc nói riêng. Tác giả khẳng định, trong xu thế vận động của toàn cầu hóa, văn
hóa và đạo đức vẫn cần phải được định hướng theo giá trị Chân - Thiện - Mỹ,
mang đậm tính nhân văn trên cơ sở kế thừa những giá trị văn hóa tinh thần, đạo
đức truyền thống, kết hợp với việc tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn hóa
thời đại. Đồng thời, khơng ngừng bổ sung, phát triển bằng những thành tựu của
khoa học và những tư tưởng tiến bộ của thời đại. Trong cuốn Chiếc Lexus và
cây ơliu [76], tác giả Thomas L.friedman đã lấy hình ảnh chiếc Lexus sang
trọng đại diện cho động lực tồn tại, cải tiến, làm giàu và hiện đại hóa - hiện hữu
trong hệ thống tồn cầu hóa ngày nay. Cây ôliu là biểu tượng cho nguồn gốc
của chúng ta về ngơn ngữ, địa lý, lịch sử và văn hóa, và mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng dân tộc đều có cây ôliu riêng, trên lãnh địa của mình. Friedman cho rằng,
hiểm họa lớn nhất đối với cây ôliu lại đến từ chiếc Lexus - tức từ những thế lực
thị trường và cơng nghệ mang thuộc tính đồng hóa, vơ danh, những thứ hình
14


thành nên hệ thống toàn cầu hiện nay. Toàn cầu hóa đã phá vỡ biên giới các
cộng đồng, “lăn bánh” qua những miền hoang sơ và xô đẩy, vùi dập các giá trị
truyền thống. Từ đó tác giả khẳng định, trong xã hội đương đại không thể loại
bỏ chiếc Lexus hay cây ơliu mà phải có sự tương dung trong sự cùng tồn tại và
phát triển, đó là thách thức trong thời đại tồn cầu hóa. Sự sống cịn trong tồn
cầu hóa phụ thuộc một phần vào nỗ lực của chúng ta trong việc xây dựng sự

cân bằng giữa phát triển và cội nguồn.
Tác giả Cristina L’Homme trong bài viết: Khi tồn cầu hóa đẩy nhanh sự
rị rỉ chất xám [72] năm 2002 đã nêu lên một thực trạng tồn tại từ lâu và vẫn
đang là vấn đề nan giải đối với các nước trong q trình phát triển đó là hiện
tượng “chảy máu chất xám”. Dưới tác động của tồn cầu hóa, sự “rị rỉ chất
xám” vẫn đang diễn ra mạnh mẽ. Tình trạng di cư của đội ngũ lao động có
trình độ từ các nước phía Nam và các nước đang chuyển đổi đến các nước phía
Bắc khơng ngừng tăng lên. Các nước phát triển mà đứng đầu là Mỹ đã và đang
có những chính sách thu hút “dòng chảy chất xám” này. Tác giả gợi mở một
phương cách hữu hiệu là xây dựng mạng lưới tập hợp các nhà nghiên cứu của
quốc gia đó và những người đã xuất ngoại, làm cho ý tưởng - trí tuệ quay trở
lại mà không nhất thiết con người phải quay trở lại.
Như vậy, dưới góc độ bàn về cơ hội và thách thức nói chung, các cơng
trình nghiên cứu trên đã trình bày những vấn đề lý luận chung về tồn cầu hóa
và hội nhập quốc tế. Các tác giả đều phân tích, chỉ ra sự tác động tích cực
cũng như tiêu cực của tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đến tất cả các
nước trong khu vực và trên thế giới. Quá trình này làm biến đổi sâu sắc tính
chất của nhiều mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa các quốc gia cũng như làm
thay đổi mạnh mẽ chủ trương, chính sách phát triển của các quốc gia trong
quá trình mở cửa và hội nhập. Những thách thức đặt ra từ q trình tồn cầu
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đang hết sức gay gắt, cần được các nước nghiêm
túc nhìn nhận và giải quyết. Đặc biệt, những vấn đề liên quan đến thu hút đầu
15


tư, chuyển giao công nghệ, hành lang pháp lý, vấn đề tha hóa đạo đức, lối
sống và sự mai một bản sắc văn hóa trong q trình hội nhập, …
Các tác giả đều khẳng định, các nước để khỏi bị gạt ra ngồi quỹ đạo của
sự phát triển thì cần chủ động, tích cực tham gia vào q trình hội nhập quốc
tế. Mỗi nước căn cứ theo khả năng, điều kiện thực tế và mục tiêu phát triển của

mình mà đề ra chủ trương, chính sách hội nhập phù hợp nhằm tranh thủ các tác
động tích cực và hạn chế các tác động tiêu cực của tồn cầu hóa, chuyển hóa
thách thức thành cơ hội, chuyển hóa cơ hội thành hiện thực.
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chưa đề cập sâu và có hệ thống
về những cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế. Về cơ bản, chúng
tôi kế thừa và phát triển những kết luận của các cơng trình khi thực hiện luận
án. Song, cần phải làm rõ thêm mối quan hệ biện chứng giữa cơ hội và thách
thức của hội nập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển; chỉ ra nhân tố có
khả năng tác động vào mối quan hệ ấy, chính là Nhà nước. Đây cũng chính là
“khoảng đất trống” để luận án tiếp tục nghiên cứu.
Đề cập sâu hơn về cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế ở
Việt Nam, nhiều cơng trình đã khẳng định, trong bối cảnh kinh tế đương đại,
để tồn tại và phát triển Việt Nam phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Sau
gần ba mươi năm tiến hành đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã
đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nhưng tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi Việt Nam
cần nhận thức đầy đủ hơn về cơ hội và thách thức của hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhà báo Hữu Thọ trong cuốn “Ra biển lớn” [123] năm 2009 đã đề cập
đến rất nhiều vấn đề mới được đặt ra trong quá trình đổi mới, cải cách, mở cửa
và hội nhập ở Việt Nam hiện nay. Tác giả đặt vấn đề, khi nói hội nhập kinh tế
quốc tế chứa đựng cả thời cơ và thách thức đan xen, nhưng đan xen như thế
nào, hình thái ra sao thì lúc đầu chưa có thực tế để hình dung. Dù sao thời cơ
để đón nhận, thách thức phải vượt qua đều là khả năng. Nhận ra chính xác thời
16


cơ và thách thức là dự báo rất quan trọng, nhưng quan trọng là biến khả năng
đó thành hiện thực. Tác giả phân tích để chỉ ra lơgic của tư duy dẫn tới lơgic
hành động. Vượt qua thách thức thì đất nước có thêm thế và lực mới, đồng thời
bản lĩnh lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước được nâng lên tầm cao hơn.

Các tác giả Nguyễn Văn Thạo trong cơng trình Một số vấn đề về Tồn
cầu hóa kinh tế và hội nhập của Việt Nam vào kinh tế thế giới [117] năm 2000,
Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Hồng Diễm [120 - đã giới thiệu ở trên] đều cho
rằng, Việt Nam có những lợi thế riêng khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế
như: vị trí địa chính trị rất thuận lợi cho việc thơng thương và thu hút đầu tư;
điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, lực lượng lao động trẻ dồi dào; tài
nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng, bước đầu đã có những kinh nghiệm và
kiến thức trong đàm phán các thỏa thuận và cam kết quốc tế song phương, đa
phương và khu vực. Các tác giả khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia
vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, giúp Việt Nam nâng cao vị thế
của mình, tránh tình trạng bị phân biệt đối xử trong quan hệ với các nước, nhất
là các nước lớn. Hội nhập kinh tế còn giúp Việt Nam mở rộng được thị trường
xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, tăng sức thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ,
tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam học hỏi và tăng sức cạnh tranh. Các tác
giả cũng chỉ ra khó khăn lớn nhất của Việt Nam là nền kinh tế đang ở trình độ
phát triển thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém và cơ cấu của nền kinh tế lạc
hậu. Hơn nữa, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta chưa được chuẩn
bị kỹ, đầy đủ về cơ sở hạ tầng, khả năng điều phối của kinh tế thị trường chưa
đạt trình độ như các nước phát triển. Khi mở cửa hội nhập, Việt Nam sẽ phải
đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, rủi ro nhiều hơn so với các quốc gia có
sự chuẩn bị và lộ trình chu đáo.
Cùng quan điểm này, các tác giả: Phương Kỳ Sơn trong cuốn Chủ động
và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay [106]
năm 2005, Trần Trọng Toàn và Đinh Nguyên Khiêm [131 - đã giới thiệu ở
17


trên]; Do điểm xuất phát kinh tế của Việt Nam thấp kém nên năng lực cạnh
tranh về hàng hóa, dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam chưa cao, không chỉ
trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới mà ngay cà việc bảo vệ thị phần

trong nước trước sự xâm nhập của hàng hóa, dịch vụ nước ngồi cũng thấp. Bên
cạnh đó, hệ thống chính sách kinh tế - thương mại, luật pháp của Việt Nam chưa
hoàn chỉnh, đồng bộ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp nước ngồi làm ăn ở
Việt Nam. Hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam còn nhiều yếu
kém; hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt sau khi gia nhập WTO (2007), chúng ta
đã thu hút lượng đầu tư nước ngồi (FDI) lớn và được vay các khoản tín dụng lãi
suất thấp để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nguy cơ nợ nước ngoài trong
khi tiếp cận và sử dụng nguồn vốn vay này cũng mang đến những thách thức
không nhỏ.
Các tác giả đều nhấn mạnh, tồn cầu hóa kinh tế hiện nay khơng đơn
thuần là mục tiêu kinh tế nên sự tỉnh táo trước những cơ hội là hết sức quan
trọng. Chúng ta cũng có cơ hội được tiếp thu, chuyển giao kỹ thuật, công nghệ
của các nước tiên tiến nhưng nguy cơ Việt Nam trở thành một “bãi rác thải
công nghệ” cũng là một thực tế hiện hữu rất nghiêm trọng. Cùng với sự mở cửa
thị trường, giao lưu kinh tế thì lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền và các
sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy đã, đang và tiếp tục sẽ du nhập vào nước
ta, phá hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trong cơng trình Khi Việt Nam đã vào WTO [54] của Hội đồng lý luận
TW, Ban Thư ký khoa học năm 2007, các tác giả nhất trí cho rằng, khi chúng
ta gia nhập WTO cũng chính là chấp nhận những “luật chơi” chung. Chúng
ta có thể tiếp cận thị trường đối với hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là nông
sản, nhưng các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu, lại có nhiều đòi
hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm, từ nguyên liệu, phụ liệu đến quá trình
sản xuất đều phải tuân thủ nghiêm ngặt theo các quy định của các nước đó.
Đây vừa là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam chủ động, năng động trong sản
18


xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh nhưng cũng là thách thức về vốn,
dây chuyền công nghệ, kinh nghiệm quản lý sản xuất. Các tác giả đồng thời

cảnh báo những khó khăn lớn cho các nhà sản xuất Việt Nam là nhiều nước
chưa cơng nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Do đó, khi nhập khẩu
hàng hóa từ nước ta lại lấy mức giá của nước thứ ba để xác định có hiện
tượng bán phá giá hay không. Điều này là không công bằng và gây thiệt hại
cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Tự do hóa thương mại tiềm ẩn những
nguy cơ đe dọa ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là vấn đề an ninh tài chính.
Tác giả Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên) cơng trình: Tồn cầu hóa kinh tế
và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam [119] năm 2007; tác giả Hồng Ngọc Hịa (chủ biên), trong
cuốn: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa [52] năm 2007, … trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá
thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đều đã chỉ ra tồn cầu hóa
kinh tế là một q trình đầy mâu thuẫn, mà gốc rễ của mâu thuẫn là vấn đề lợi
ích kinh tế. Các nước ln tìm kiếm cái lợi cho mình và tránh cái bất lợi trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, trong quá trình mở cửa và hội nhập,
Việt Nam cần tranh thủ những cơ hội để tạo ra những tiền đề vật chất cho quá
trình đổi mới và phát triển, đồng thời đấu tranh vượt qua những thách thức về
kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng, giữ vững lập trường, con đường xã hội
chủ nghĩa.
Như vậy, trong các cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đều thừa nhận
tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan của
thời đại, nó đã và đang lôi cuốn hầu hết các quốc gia, dân tộc vào một quỹ đạo
phát triển. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc. Các tác giả đều khẳng định,
đối với những cơ hội và thách thức chung do tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại thì Việt Nam đều cần và có thể tận dụng hay đối mặt. Tuy
nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển nên có những điểm bất lợi so với
19



×