Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở nông thôn hà tĩnh hiện nay (1991 2012) luận văn ths khoa học chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.76 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGÔ NGỌC HÂN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY (1991-2012)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGÔ NGỌC HÂN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ
Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY (1991-2012)

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Tuất



Hà Nội – 2013
ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung
thực. Các kết quả nghiên c ứu của luận văn không trùng với
bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

iii


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn

6

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

8

6. Đóng góp của luận văn

8

7. Kết cấu của luận văn

8

Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ XÂY DỰNG

9

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ

1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ

9


THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Khái niệm cán bộ

9

1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh

11

1.1.3. Tiêu chuẩn cán bộ

14

1.2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÀ CÔNG VIỆC RẤT TRỌNG

30

YẾU CỦA ĐẢNG
1.2.1. Lựa chọn cán bộ

30

1.2.2. Huấn luyện cán bộ

32

1.2.3. Đánh giá, sử dụng cán bộ

40


1.2.4. Kiểm soát, kiểm tra cán bộ

43

1.2.5. Chế độ, chính sách đối với cán bộ

45

1.3. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN VIÊN THANH

46

NIÊN VÀ CÁN BỘ ĐOÀN
1.3.1. Vai trò, vị trí của đoàn viên, thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh

46

1.3.2. Công tác xây dựng cán bộ Đoàn theo tư tưởng Hồ Chí Minh

47

iv


Chƣơng 2. XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG

52

THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ


CHÍ MINH
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC ĐOÀN VÀ

52

ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN
NAY
2.1.1. Tác động của toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế

52

2.1.2. Tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội

56

2.2. THỰC TRẠNG ĐOÀN VIÊN, THANH NIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN

58

NAY
2.2.1. Khái quát chung về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã

58

hội tỉnh Hà Tĩnh
2.2.2. Tình hình đoàn viên, thanh niên ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay

61


2.3. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐOÀN CƠ

64

SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY
2.3.1. Ưu điểm trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn cơ sở ở khu

66

vực nông thôn Hà Tĩnh
2.3.2. Những hạn chế cơ bản

70

2.3.3 Nguyên nhân ưu điểm và hạn chế

73

2.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM XÂY ĐỘI NGŨ CÁN

75

BỘ ĐOÀN CƠ SỞ Ở NÔNG THÔN HÀ TĨNH HIỆN NAY THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

2.4.1. Xác định rõ tiêu chuẩn cơ bản của đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở

76

nông thôn hiện nay

2.4.2. Làm tốt công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ Đoàn cơ sở ở nông

79

thôn
2.4.3. Quan tâm đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn

v

81


2.4.4 Tiếp tục đổi mới lề lối, tác phong làm việc của đội ngũ cán bộ Đoàn

83

cơ sở ở khu vực nông thôn
2.4.5. Củng cố, nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo xây dựng đội ngũ

85

cán bộ Đoàn cơ sở của cấp ủy vùng nông thôn Hà Tĩnh
2.4.6. Thường xuyên chăm lo chế độ, chính sách cho đội ngũ cán bộ Đoàn cơ

86

sở ở nông thôn
KẾT LUẬN


88

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

90

vi


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua. Ngày nay,
trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng. Đó là sự tổng kết lịch sử, vạch rõ nguồn
gốc sâu xa mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong các thời kỳ cách
mạng, đồng thời chỉ rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cho thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới. Đúng như Đại hội X tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới không phải xa rời
mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng”[19,70].
Tư tưởng Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, trong đó có tư
tưởng về cán bộ và công tác cán bộ, về cán bộ Đoàn và công tác thanh niên.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ “là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng” [51,54]. Chính vì thế, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ. Từ rất

sớm, Người đã nhiều lần trực tiếp tổ chức các lớp huấn luyện cán bộ nhằm đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cốt cán, làm hạt nhân lãnh đạo phong trào cách
mạng. Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề cán bộ tiếp tục được
Người hết sức quan tâm. Trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh thường
căn dặn: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”[51,269], “công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[51,273].
1


Mong muốn của Người là xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng được lớp lớp
thế hệ cán bộ cách mạng “vừa hồng, vừa chuyên” đủ sức chèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam đến với thắng lợi cuối cùng.
Vận dụng tư tưởng đó, trong suốt hơn 80 xây dựng, phấn đấu và trưởng
thành, Đảng ta luôn xác định công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ là
một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành bại của sự nghiệp
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt nhất trong công tác xây dựng Đảng. Trong đó, bồi dưỡng, chăm lo
thế hệ trẻ, trước hết là cán bộ Đoàn – đội ngũ cán bộ hậu bị tin cậy của Đảng
luôn được chú trọng. Đảng ta xem xây dựng Đoàn thanh niên là xây dựng
Đảng trước một bước và coi cán bộ làm công tác thanh niên là nguồn quan
trọng bổ sung cán bộ cho Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể. Công tác
cán bộ Đoàn là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã có nhiều Nghị quyết quan trọng về công tác
thanh niên. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá VII và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh
niên”. Tinh thần của hai Nghị quyết đã đi vào thực tiễn và làm chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng công tác Đoàn và phong trào thanh niên. Cấp ủy đảng
các cấp đã lãnh đạo hệ thống chính trị, toàn xã hội thực hiện tốt hơn công tác
thanh niên và chăm lo xây dựng Đoàn. Nhà nước đã ban hành Luật Thanh niên,

Chiến lược phát triển thanh niên và nhiều chính sách về công tác thanh niên, tạo
điều kiện, cơ hội cho thanh niên rèn luyện cống hiến trưởng thành. Nhờ vậy,
không ít cán bộ Đoàn trong thực tiễn công tác đoàn đã trưởng thành và được
phân công giữ các cương vị chủ chốt trong cấp ủy, chính quyền, các ngành,
đoàn thể các cấp.

2


Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của
sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội nhập kinh tế
Quốc tế, cán bộ Đoàn và công tác cán bộ Đoàn cũng bộc lộ những khó khăn,
hạn chế, yếu kém về nhiều mặt, nhất là ở vùng nông thôn, trong đó có địa bàn
nông thôn ở tỉnh Hà Tĩnh như: Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng,
giảm sút niềm tin, ít quan tâm tới tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành
pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc. Học vấn của
một bộ phận thanh niên nhất là thanh niên nông thôn còn thấp; nhiều thanh
niên thiếu kiến thức, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ chuyên môn, trình độ kỹ
thuật...; Tính độc lập, chủ động, sáng tạo, năng lực thực hành sau đào tạo của
thanh niên còn yếu, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Bên
cạnh đó, một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo công tác thanh
niên, thiếu đôn đốc, kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện các chủ
trương, nghị quyết của Đảng về công tác thanh niên; công tác quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ trẻ chưa thực sự được coi trọng; chưa làm
tốt công tác phát triển đảng trong thanh niên; hiện nay đa số Bí thư, Phó Bí thư
Đoàn cơ sở chưa được đào tạo, bồi dưỡng cơ bản về kiến thức và kỹ năng
nghiệp vụ công tác Đoàn. Theo khảo sát trình độ chính trị từ Trung cấp trở lên
tỷ lệ còn thấp Bí thư đoàn cơ sở đạt 48,77%, Phó Bí thư 27,47%; tỷ lệ qua đào
tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ công tác Đoàn được cấp chúng chỉ rất thấp
Bí thư 26,95%, Phó Bí thư 9,39% [7,4]; chưa chủ động trong việc phát hiện

vấn đề và tham mưu đề xuất với cấp uỷ giải quyết những vấn đề bức xúc liên
quan đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của đoàn viên, thanh niên; kỹ
năng xây dựng kế hoạch, cụ thể hoá nội dung, chương trình của Đoàn cấp trên
gắn với nhiệm vụ chính trị và tình hình thực tiễn của địa phương còn hạn chế;
khả năng nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức hoạt động Đoàn cơ sở chưa
đáp ứng yêu cầu. Một bộ phận cán bộ Đoàn chậm đổi mới tư duy, thiếu chủ
động, sáng tạo trong triển khai nhiệm vụ và tổ chức các phong trào.
3


Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục tăng cường, đổi mới công
tác thanh niên, trước hết là đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Đoàn.
Nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược của Đảng về công tác cán bộ cũng như
về công tác thanh niên, trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, những hạn
chế, yếu kém, cần nghiên cứu sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ vào công tác cán bộ đoàn và phong trào thanh niên ở một tỉnh
đặc thù như Hà Tĩnh. Đây là một trong những nhiệm vụ và giải pháp quan
trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ Đoàn và năng lực tổ chức, tập
hợp và lãnh đạo đoàn viên thanh niên, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ cơ
sở đoàn ngang tầm, đáp ứng các nhiệm vụ chiến lược hiện nay trong xây dựng
và phát triển nông thôn mới ở Hà Tĩnh.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn vấn đề
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong xây dựng cán bộ Đoàn cơ
sở ở nông thôn Hà Tĩnh hiện nay (1991-2012) ” làm đề tài Luận văn Cao học,
chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác đoàn ở vùng
nông thôn nói riêng là đòi hỏi khách quan, cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian qua, đã có không ít các nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị,
các học giả dành nhiều thời gian nghiên cứu về chủ đề cán bộ và công tác cán

bộ; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trong xây dựng đội ngũ cán bộ
hiện nay… Liên quan đến đề tài này có thể thấy một số công trình sau:
- Nhóm nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ có:
+ Bài viết của GS.TS Mạch Quang Thắng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ và công tác cán bộ” in trong tác phẩm “Đạo đức, phong cách, lề lối
làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”của Ban Tổ chức
cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước xuất bản năm 1998.
4


Bài viết đã chỉ rõ những nét khái lược nhất về quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ, những yêu cầu cơ
bản của người cán bộ cách mạng.
+ Công trình của nhóm tác giả: Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm
(Đồng chủ biên): “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
+ Bùi Đình Phong: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán
bộ”, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2002.
+ Nguyễn Duy Hùng (Chủ biên): “Luận cứ khoa học và một số giải
pháp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo phường hiện nay”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2008.
- Nhóm công trình nghiên cứu về Đoàn và công tác Đoàn:
+ Đoàn Nam Đàn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên”,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008;
+ Doãn Đức Hảo: “Xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học, 2009;
Công trình của tác giả Doãn Đức Hảo là một công trình khoa học
nghiên cứu tương đối toàn diện về đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, công trình đánh
giá được thực trạng, nguyên nhân nhất là chỉ rõ những nhân tố tác động đến

công tác cán bộ Đoàn trong giai đoàn hiện nay, qua đó đề ra năm giải pháp lớn
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn trong thời gian tới.
+ Diệp Minh Giang: “Xây dựng đạo đức của Thanh niên Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Luận án Tiến sĩ
Triết học, 2011;

5


+ Văn Tùng: “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và cũng cố
tổ chức Đoàn”, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1999.
Bằng việc tiếp cận những quan điểm cơ bản nhất của Chủ nghĩa Mác –
Lênin về giáo dục và tổ chức thanh niên, công trình trên đã chỉ ra những nội
dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố tổ chức Đoàn Thanh niên. Nhìn
nhận, đánh giá vai trò và khả năng cách mạng của thanh niên; về xây dựng tổ
chức Đoàn làm nòng cốt trong việc đoàn kết, tập hợp thanh niên,...
Những công trình được công bố và đăng tải ở trên tuy tiếp cận và luận
giải nhiều khía cạnh khác nhau về cán bộ, công tác cán bộ, về thanh niên và
công tác thanh niên trong tình hình mới, gắn với điều kiện cụ thể ở từng địa
phương và trong từng lĩnh vực, đã phần nào phản ánh được vai trò, vị trí, tầm
quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ. Một số công trình bước đầu tiếp cận
và làm rõ một số vấn đề lý luận chung về tổ chức đoàn cơ sở trong giai đoạn
hiện nay, đánh giá thực trạng, chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và đề ra các giải
pháp để thực hiện có hiệu quả hơn công tác này trong thời gian tới. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu đề tài vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn ở một địa phương
cụ thể như Hà Tĩnh. Đó là cơ sở để bản thân tôi lựa chọn đề tài này trong
hướng nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn

3.1 Mục đích
Qua phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để xây
dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, luận văn
góp phần làm sáng tỏ các tổ chức trong hệ thống chính trị ở Hà Tĩnh đã vận
dụng đúng đắn quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đội ngũ cán bộ
6


Đoàn nói chung và cán bộ đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh nói riêng đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận chung về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo
tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Quan điểm, chủ trương thực hiện nhiệm vụ xây dựng cán bộ Đoàn ở
nông thôn Hà Tĩnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị của địa phương.
- Nêu lên những vấ n đề c ấp thiết đang đặt ra và xác định một số giải
pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đoàn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ được thể hiện trong các bài nói, bài
viết của Người.
Cán bộ Đoàn cơ sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở ở
nông thôn Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn, phạm vi lý thuyết: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ.
- Giới hạn về mặt không gian và thời gian nghiên cứu: nghiên cứu về
đội ngũ cán bộ Đoàn và công tác cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà Tĩnh
trong những năm đổi mới, tập trung vào giai đoạn hiện nay, nhất là từ sau khi

thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X (2008) Về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.

7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các biện pháp phân
tích, tổng hợp, phương pháp logíc - lịch sử, phương pháp so sánh, đối chiếu,
phương pháp chuyên gia… để luận giải các vấn đề.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần nghiên cứu có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
quá trình vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng cán bộ Đoàn cơ sở ở nông thôn
Hà Tĩnh hiện nay;
- Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cấp
uỷ Đảng, chính quyền địa phương, nhất là tổ chức Đoàn cơ sở ở nông thôn Hà
Tĩnh trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đội ngũ cán bộ Đoàn thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết, cụ thể.

8


Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
1.1. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN
BỘ THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Khái niệm cán bộ
Mặc dù chưa đưa ra một định nghĩa nào thật đầy đủ về cán bộ nhưng
qua các bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn khẳng định “cán bộ là cái dây
chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù
tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách
của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thực hiện được”[51,54]. Theo Người, cán bộ là những
người có trách nhiệm phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng, Nhà nước chứ không
phải là người đứng trên hoặc đứng ngoài nhân dân. Họ có trách nhiệm đưa
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với
nhân dân, để nhân dân hiểu rõ và tổ chức, vận động nhân dân thi hành. Đồng
thời, cán bộ cũng là người có trọng trách phải gần gũi nhân dân, nắm được
tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc của quần chúng nhân dân phản ánh với
Đảng, Nhà nước để Đảng, Nhà nước đề ra chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật cho đúng, phù hợp với quy luật vận động, phát triển của xã hội và
đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
Ngày nay, ở nước ta khái niệm cán bộ được hiểu theo nghĩa rộng hơn,
bao gồm: Tất cả những người được bầu cử vào các cơ quan Nhà nước, Đảng,
đoàn thể; những người được bổ nhiệm đảm nhiệm một công tác quản lý hoặc
được giao một công tác chuyên môn nào đó (cán bộ giảng dạy, cán bộ khoa
học kỹ thuật ...) trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị, biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
9


Theo từ điển tiếng Việt thì “cán bộ là người làm công tác có nghiệp vụ
chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, người làm công tác có chức vụ trong
một cơ quan, một tổ chức”[72,5]. Một công trình nghiên cứu của các nhà khoa
học Việt Nam đã đưa ra định nghĩa: “Cán bộ là một khái niệm dùng để chỉ
những người có chức vụ, vai trò và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có

tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý, điều hành, góp phần định hướng cho sự phát triển của tổ
chức” [71,20]. Theo Khoản 1 và Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức
năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010: “1. Cán bộ là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ
trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, 3. Cán bộ
xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, người đứng đầu tổ chức
chính trị - xã hội...”
Như vậy, quan niệm về cán bộ có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các ý
kiến đó, thông thường, được hình thành từ cách nhìn trực tiếp đối với từng
loại cán bộ, theo phương pháp liệt kê các tiêu chí hoặc theo cảm tính, nên
chưa phản ánh được một cách đầy đủ về khái niệm cán bộ. Song cơ bản
các khái niệm trên về cán bộ đều đã khái quát rõ những đặc trưng của cán
bộ đó là:
Cán bộ phải là những người được bầu hoặc được chỉ định hay bổ nhiệm
để đảm nhận cương vị nhất định trong một tổ chức nào đó (đặc trưng này phân
biệt người cán bộ với người không có chức vụ, không có cương vị).
10


Chức vụ, cương vị của người cán bộ liên quan đến lãnh đạo, quản lý, điều
hành hoạt động của một tổ chức nhất định (đặc trưng này để phân biệt giữa
cán bộ với những người cũng có chức vụ, cương vị nhưng không coi là cán bộ,
như trưởng tộc, trưởng hội đồng hương, trưởng hội đồng môn ...).
Cán bộ phải là người có uy tín, có vai trò nòng cốt, có tác động ảnh

hưởng tích cực đến hoạt động của tổ chức, điều chỉnh mối quan hệ liên quan
đến lãnh đạo, quản lý, điều hành hoạt động, duy trì, thúc đẩy và định hướng sự
phát triển của tổ chức.
Những đặc trưng trên là cơ sở để chúng ta phân biệt người cán bộ với
những đối tượng khác. Nếu thiếu một trong ba đặc trưng trên đều đưa đến nhận
thức phiến diện về cán bộ. Từ những đặc trưng trên, cán bộ được phân chia trên
nhiều lĩnh vực, nhiều chức danh, cấp độ khác nhau. Trong từng loại cán bộ đều
cần phải quy định tiêu chuẩn, tiêu chí, chức năng, nhiệm vụ khác nhau.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ và công tác cán bộ theo tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh
Xuất phát từ lý luận của Chủ nghĩa Mác –Lênin về cán bộ, rằng “Không
một phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn
định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo”[39,58], và
“Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền
lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những
người phụ tá…, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú
ý đến kinh nghiệm của họ”[42,407], Hồ Chí Minh xác định việc xem xét vị trí,
vai trò của cán bộ phải đặt trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều. Từ thực
tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của
đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, Người
nói “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”[50,240],
11


nghĩa là khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính
sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và nơi kiểm
tra…cả ba điều ấy đều rất quan trọng và quyết định ở người cán bộ.
Hồ Chí Minh cho rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc”[50,269] nên
người cán bộ không phải là “ông quan cách mạng”, càng không phải là người

có “quyền sinh, quyền sát” như vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đầy
tớ của nhân dân, người đại diện, đại biểu cho lợi ích, nguyện vọng của nhân
dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Người cán bộ
không được cho mình đứng ở vị trí lãnh đạo, chỉ tay năm ngón điều hành công
việc mà phải sâu sát cơ sở, bám sát quần chúng nhân dân, xây dựng mối quan
hệ gắn bó mật thiệt với quần chúng nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên
hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp
Trung ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định, hoặc
gắn với việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ
lãnh đạo cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng và hệ
thống chính trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Họ là những người hội tụ
đầy đủ các yếu tố: gần dân nhất, trực tiếp nhất, công việc nhiều nhất nên sự
nghiệp cách mạng có thành công hay không phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ
này. Người khẳng định “Cấp xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng
của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong
xuôi”[50,371].
Mở rộng quan điểm về vị trí, vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh
đồng thời cũng khẳng định vai trò, vị trí của người đảng viên. Theo quan điểm
của Hồ Chí Minh thì mỗi đảng viên của Đảng cũng là cán bộ, họ vẫn là những
người lãnh đạo, mặc dù họ chỉ là những đảng viên bình thường, không đảm
12


nhiệm những cương vị trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nên khi
nói về cán bộ người vẫn thường dùng cụm từ “cán bộ đảng viên”.
Như vậy, có thể thấy việc xem xét vị trí, vai trò của người cán bộ theo
quan điểm của Hồ Chí Minh phải được xác định trong mối quan hệ biện
chứng, đa chiều giữa chủ thể và đối tượng, đặt người cán bộ trong mối quan

hệ với quần chúng nhân dân, trong sự tương quan về nhiệm vụ. Trong đó,
người cán bộ vừa là chủ thể lãnh đạo, điều hành, vừa là đối tượng và là lực
lượng tổ chức thực hiện.
Song song với khẳng định vị trí, vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh cũng
đồng thời khẳng định tầm quan trọng của công tác cán bộ. Theo Người công
tác cán bộ là một bộ phận trong công tác xây dựng Đảng, là công tác Đảng
liên quan chặt chẽ với việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách và
nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ chức, bộ máy, cơ chế và đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ thống chính trị. Công tác cán bộ là
hoạt động của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm tạo ra
một đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập trường chính
trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước. Hồ Chí Minh
yêu cầu giai cấp vô sản và chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh
đạo, giữ vững được chính quyền thì phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ
trung thành, đáp ứng được nhiệm vụ cách mạng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo đó
phải thực sự chuyên nghiệp, tận tâm với nước, tận hiếu với dân, phải là lực
lượng rường cột của đất nước, có phẩm chất, trí tuệ, có đạo đức cách mạng
trong sáng, có năng lực tổ chức thực hiện. Không chỉ yêu cầu, Hồ Chí Minh
còn là người tổ chức thực hiện. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, Người luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Ngay từ
những năm 1925, sau khi tiếp nhận học thuyết của Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tìm ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Người đã trực tiếp mở các lớp
13


đào tạo, huấn luyện cán bộ cho cách mạng. Và sau này khi đã trở thành chủ
tịch nước, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ lại được Hồ Chí Minh quan tâm
hơn bao giờ hết. Đào tạo cán bộ như thế nào, sử dụng cán bộ ra sao, cán bộ
cần có những tiêu chuẩn gì?... là những nội dung được Hồ Chí Minh đưa ra
trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình ở các lớp chỉnh huấn, với các cấp,

các ngành, các lĩnh vực và đã trở thành cơ sở lý luận chính trị quan trọng trong
công tác cán bộ của Đảng, Nhà nước.
1.1.3. Tiêu chuẩn cán bộ
1.1.3.1. Người cán bộ phải có phẩm chất đạo đức cách mạng
Đây là một trong những phẩm chất hàng đầu và quan trọng bậc nhất đối
với người cán bộ làm cách mạng. Trong thời đại Hồ Chí Minh đất nước ta, dân
tộc đang trải qua một giai đoạn gay go khốc liệt, vừa phải đấu tranh giành độc
lập dân tộc, vừa phải thực hiện cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, xây dựng
một xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình cải tạo xã hội cũ,
đã lỗi thời thành xã hội mới tiến bộ hơn, một cuộc đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu… đan xen, chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy,
để hoàn thành được sự nghiệp cách mạng của dân tộc trước hết cần phải có
những người cách mạng chân chính, đủ bản lĩnh, trí tuệ, tâm hồn và nghị lực
để vượt qua. Người cán bộ cách mạng ấy phải lấy đạo đức cách mạng làm nền
tảng. Bởi “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”[50,252-253], có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ
vang.
Phẩm chất đạo đức cách mạng theo Người trước hết là trung với nước,
hiếu với dân. Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của đạo đức
cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Người dạy, đối với mỗi cán bộ đảng
viên, phải “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” và hơn nữa, phải
14


“tận trung với nước, tận hiếu với dân” xứng đáng vừa là người lãnh đạo, người
đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trung với nước, hiếu với dân là phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào
dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải

thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ nghĩa vụ và quyền lợi của
người làm chủ đất nước. “Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết
dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”[57,223].
Hai là phải biết yêu thương con người. Yêu thương con người trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống nhân nghĩa của dân tộc,
kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản.
Người coi yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Yêu
thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong quan
hệ xã hội. Cũng có lẽ vì tình yêu bao la rộng lớn ấy, mà Người đã dành cả
cuộc đời mình để thực hiện “một ham muốn, ham muốn tột bậc làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Một thứ ham muốn khác lạ,
không dành cho mình, không phải cho gia đình, anh em, họ hàng mình mà là
cho quê hương, dân tộc và cho cả nhân loài. Đó là thứ tình yêu, sự khát vọng
về một thế giới đại đồng. Vì thế, với Hồ Chí Minh người cán bộ, đảng viên để
hoàn thành tốt sự nghiệp mà nhân dân giao phó, thực sự xứng đáng là người
đầy tớ trung thành của nhân dân thì yêu cầu mà Người đặt ra là tinh thần hy
sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với
nhân dân, yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương nhân loại. Người cán bộ
đảng viên phải biến tình yêu ấy thành lẽ sống: sống có tình, có nghĩa, sống có
trước có sau. Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải có tình đồng chí, yêu
thương lẫn nhau, không bao che, bảo vệ nhau điều sai, điều không đúng, kéo
bè, kết cánh mà nên tôn trọng nguyên tắc tự phê bình và phê bình để góp ý,
15


sữa chữa cho nhau một cách chân thành. Người nói: Nhân dân ta từ lâu đã
sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo
dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào đồng chí,
tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Biết chủ nghĩa Mác - Lênin là phải

sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có
tình có nghĩa, thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác – Lênin [57,554]. Tình yêu
thương con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh được thể hiện trên nhiều
phương diện, nhưng trước hết là tình thương yêu với đại đa số nhân dân,
những người lao động bình thường trong xã hội, những người nghèo khổ, bị
áp bức, bóc lột. Yêu thương con người phải làm mọi việc để phát huy sức
mạnh của mỗi người, đoàn kết để phấn đấu cho đạt được mục tiêu “ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ba là, phải có tinh thần Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư. Chủ
tịch Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, “Cũng như trời có bốn mùa, đất có bốn phương, người có bốn đức
tính” và Người cũng giải thích rõ:
Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng,
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. Cần là luôn luôn cố gắng,
luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời”[50, 632,633]. Lười biếng là kẻ địch của chữ
cần và cũng là kẻ địch của dân tộc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to cho đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không phô trương, hình thức, không liên
hoan, chè chén lu bù “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”[50, 636].
Cần và kiệm phả đi đôi với nhau như hai chân của người, cần mà không kiệm
như thùng không đáy.
16


Liêm là trong sạch, là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải
của nhân dân, không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của
nhân dân. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không

tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì
vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ”[50,252]. Những hành vi trái với liêm như:
cậy đục khoét dân, ăn của đút hoặc trộm của công làm của tư; Dìm người giỏi
để giữ địa vị của mình là đạo vị; gặp việc phải mà sợ khó nhọc, nguy hiểm,
không giám làm là tham vật úy lao; Gặp giặc mà không giám đánh là tham
sinh úy tử.
Chính là ngay thẳng, không tà phái, là đúng đắn, chính trực. Đối với
mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không
dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc
thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì
quyết làm cho kỳ được, “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm; việc ác thì dù nhỏ
mấy cũng tránh”. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân, mỗi cán
bộ đảng viên là dù to hay nhỏ thì đều là người lãnh đạo nhân dân, muốn nhân
dân thực hiện thì tất yếu người cán bộ phải gương mẫu. Người nói mình không
chính mà muốn người khác chính là điều không thể và yêu cầu mỗi cán bộ,
đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng cần thiết.
Chí công vô tư: Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm,
chính; cần, kiệm, liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công,
vô tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện cần, kiệm,
liêm, chính và có nhiều tính tốt khác. Chí công là rất mực công bằng, công
tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc
tư thù, tư oán”, đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất
cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”,
17


“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí công, vô tư” phải chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người lãnh đạo, người “giữ
cán cân công lý”, không được vì lòng riêng mà chà đạp lên pháp luật. Ngược

lại với chí công vô tư là dĩ công vi tư, tư lợi, vun vén lợi ích cho cá nhân, đặt
lợi ích của mình lên tất thảy, đây là điều mà người cán bộ không được làm và
có trách nhiệm phải chống lại.
Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng . Từ thực tiễn cách mạng trong
nước, và từ chính mục tiêu cao cả của cách mạng xã hội trên thế giới là đấu
tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn. Hồ Chí Minh đã mở
rộng tình yêu quê hương, đất nước lên thành tình yêu quốc tế cao cả. Người yêu
cầu mỗi cán bộ, đảng viên bên cạnh niềm khát vọng yêu nước, thì cũng phải
nêu cao tinh thần quốc tế vô sản thuỷ chung trong sáng. Người nói “Bốn
phương vô sản đều là anh em”. Cán bộ, đảng viên thể hiện tình yêu thương
trong sáng của mình đối với Tổ quốc, với nhân dân mình thì đồng thời cũng
trung thành với mục tiêu, lý tưởng cao cả của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.
Quan niệm đạo đức về tình đoàn kết quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh
thể hiện trong các điểm sau: Đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục
tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; Đoàn kết
quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung, “bốn
phương vô sản đều là anh em”; Đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình, công
lý và tiến bộ xã hội; Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ
nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại
mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô-vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc …
Song song với việc chỉ ra những chuẩn mực, yêu cầu về mặt đạo đức
mà mỗi cán bộ, đảng viên phải có, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những căn bệnh
mà cán bộ phải phòng tránh, sửa chữa. Đó là óc địa phương chủ nghĩa, bè
phái, quân phiệt, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vô kỷ luật,
18


tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, lãng phí… Đây là những căn bệnh mà người
cán bộ, đảng viên dễ gặp phải nhất, nếu không thường xuyên rèn luyện đạo
đức, không nêu cao lý tưởng cách mạng. Rèn luyện đạo đức cũng giống như

việc người ta rửa mặt hàng ngày, đó phải là việc làm thường xuyên, liên tục.
Người nói “Đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, cũng không phải
tự trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển, củng cố. Đạo đức cũng gống như như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”.
1.1.3.2. Người cán bộ phải có tài, có năng lực tổ chức, phương pháp
lãnh đạo đúng đắn
Theo Hồ Chí Minh, người có đức mà không có tài thì vô dụng. Song có
tài mà không có đức thì lại càng vô dụng hơn. Người yêu cầu người cán bộ
phải vừa có đức, vừa có tài. Tài năng đó là năng lực lãnh đạo và thực hành
công việc, được thể hiện thông qua những việc làm làm cụ thể, luôn hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tư tưởng sử dụng và quý trọng hiền tài của Hồ Chí Minh được thể hiện
từ rất sớm, ngay từ những ngày mới bắt đầu hoạt động cách mạng ở nước
ngoài, cho đến khi thành lập nhà nước cách mạnh, Người nói “Nước nhà cần
phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số hai mươi triệu đồng
bào chắc không thiếu người có tài, có đức”; “nay muốn sửa đổi điều đó, trọng
dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có
người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo
ngay cho Chính phủ biết”[49,451]. Và Đảng, Chính phủ phải có chính sách
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trẻ. Trước lúc đi xa,
trong Di chúc thiêng liêng của mình, Người đã căn dặn: “Đảng cần phải chăm
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”[57,498]
19


×