Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế huyện gia lộc, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.62 KB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN CÔNG THẠCH

HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI
HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI CHI CỤC THUẾ
HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số: 60.34.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN HỮU CƯỜNG

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các
thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Nguyễn Công Thạch



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh của mình, ngoài sự
nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của nhiều
cá nhân và tập thể.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ, chỉ bảo
tận tình của các thầy, cô giáo khoa Quản trị kinh doanh; Ban quản lý Đào tạo
- Học viện Nông nghiệp Việt Nam; đặc biệt là sự quan tâm, chỉ dẫn tận tình
của thầy giáo PGS.TS Trần Hữu Cường đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Tổ, Đội, Chi cục thuế
huyện Gia Lộc đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thu
thập tài liệu phục vụ cho luận văn.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình và bạn bè đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn

Nguyễn Công Thạch

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page ii


MỤC LỤC

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Mục lục

iii

Danh mục chữ viết tắt

vi

Danh mục bảng

vii

Danh mục sơ đồ, biểu đồ

ix

1


MỞ ĐẦU

1

1.1

Tính cấp thiết của đề tài

1

1.2

Mục tiêu nghiên cứu

2

1.2.1

Mục tiêu chung

2

1.2.2

Mục tiêu cụ thể

2

1.3


Người và phạm vi nghiên cứu

3

1.3.1

Người nghiên cứu

3

1.3.2

Phạm vi nghiên cứu

3

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

4

2.1

Cơ sở lý luận về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

4

2.1.1


Khái niệm quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

4

2.1.2

Tính tất yếu khách quan của công tác quản lý thuế đối với hộ
kinh doanh cá thể

10

2.1.3

Đặc điểm của công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

13

2.1.4

Nội dung quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

16

2.1.5

Những nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế đối với hộ

2.2

kinh doanh cá thể


18

Cơ sở thực tiễn

22

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iii


2.2.1

Luật pháp và chủ trương, chính sách liên quan đến quản lý thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể

2.2.2

22

Tình hình công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thế tại
Việt Nam

2.2.3

24

Tình hình công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thế trên
thế giới


2.2.4

28

Những bài học kinh nghiệm về hoàn thiện công tác quản lý thuế
đối với hộ kinh doanh cá thể

30

3

ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

32

3.1

Đặc điểm địa bàn nghiên cứu

32

3.1.1

Điều kiện tự nhiên huyện Gia Lộc

32

3.1.2


Giới thiệu về chi cục thuế huyện Gia Lộc - tỉnh Hải Dương

33

3.2

Phương pháp nghiên cứu

39

3.2.1

Phương pháp chọn điểm nghiên cứu

39

3.2.2

Phương pháp thu thập thông tin

39

3.2.3

Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

41

3.3


Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu

41

4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

44

4.1

Thực trạng về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

44

4.1.1

Đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Gia Lộc

44

4.1.2

Lập kế hoạch quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa
bàn huyện Gia Lộc.

4.1.3

45


Các hoạt động hỗ trợ việc quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá
thể trên địa bàn huyện Gia Lộc

4.1.4
4.1.5

46

Quản lý thu thuế đối với các hộ KD cá thể trên địa bàn huyện
Gia Lộc

49

Quản lý công tác kiểm tra thuế đối với hộ KDCT

52

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page iv


4.1.6

Đánh giá về công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

4.2

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thuế đối với hộ kinh


56

doanh cá thể

59

4.2.1

Môi trường quản lý thuế

59

4.2.2

Sự thay đổi phương thức quản lý thuế và cơ sở vật chất để thực
hiện quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

60

4.2.3

Tổ chức bộ máy và trình độ của cán bộ quản lý thuế

63

4.2.4

Trình độ nhận thức của hộ KD cá thể


67

4.3

Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với
hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế huyện Gia Lộc, cục thuế
tỉnh Hải Dương.

68

4.3.1

Căn cứ đề xuất

68

4.3.2

Định hướng giải pháp

70

4.3.3

Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể tại Chi cục thuế huyện Gia Lộc, cục thuế tỉnh Hải
Dương.

70


5

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

82

5.1

Kết luận

82

5.2

Kiến nghị

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

87

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page v



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Giải nghĩa

BQ

Bình quân

CC

Cơ cấu



Cố định

CCT

Chi cục thuế

CCVC

Công chức viên chức

ĐVT

Đơn vị tính


KD

Kinh doanh

KDCT

Kinh doanh cá thể



Lao động

GTGT

Giá trị gia tăng

GTSX

Giá trị sản xuất

NN

Nông nghiệp

NNT

Người nộp thuế

NN –TS


Nông nghiệp – thủy sản

NSNN

Ngân sách nhà nước

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

SDĐ

Sử dụng đất

SL

Số lượng

TNCN

Thu nhập cá nhân

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TT-HT

Tuyên truyền hỗ trợ


TTCN – XDCB

Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng cơ bản

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page vi


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

3.1

Các đội thuế của Chi cục thuế huyện Gia Lộc

33


3.2

Chức năng của các đội thuộc Chi cục thuế huyện Gia Lộc

35

3.3

Kết quả thực hiện thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn Huyện
Gia Lộc, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2009-2013

38

3.4

Số phiếu điều tra ở các nhóm người

41

4.1

Số lượng hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn Gia Lộc
(2011 – 2013)

4.2

44

Hoạt động hỗ trợ công tác quản lý thuế của chi cục huyện Gia
Lộc qua ba năm 2011 - 2013


4.3

48

Số tiền thu thuế từ các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn Gia Lộc
(2011 – 2013)

4.4

50

Kết quả điều chính thuế đối với hộ kinh doanh cá thể nộp thuế
khoán (2011 – 2013)

4.5

51

Kết quả thống kê công tác phúc tra hộ nghỉ, bỏ kinh doanh và
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo

54

4.6

Kết quả công tác ủy nhiệm thu

55


4.7

Đánh giá của hộ kinh doanh cá thể về công tác quản lý thuế của
chi cục thuế huyện Gia Lộc

4.8

56

Kết quả đánh giá của cán bộ thuế trong chi cục đối với cán bộ
làm công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể

4.9

58

Nhận xét của các hộ kinh doanh cá thể trong việc chấp hành
chính sách thuế

4.10

60

Năng lực cơ sở vật chất phục vụ hoạt động quản lý thuế đối với
hộ kinh doanh cá thể năm 2013

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

62
Page vii



4.11

Nguồn nhân lực phục vụ quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá
thể tại chi cục thuế huyện Gia Lộc (2009 – 2013)

4.12

65

Trình độ nguồn nhân lực phục vụ quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể tại chi cục thuế huyện Gia Lộc (2009 – 2013)

4.13

66

Dự báo nguồn nhân lực phục vụ quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể tại chi cục thuế huyện Gia Lộc đến 2015, 2020

4.14

75

Dự báo kế hoạch hoạt động hỗ trợ công tác quản lý thuế của chi
cục huyện Gia Lộc đến năm 2015, 2020

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


75

Page viii


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 3.1

Sơ đồ tổ chức chi cục thuế huyện Gia Lộc

34

Biểu đồ 4.1 Đánh giá của hộ kinh doanh cá thể về năng lực của cán bộ thuế
trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể chi cục
thuế Gia Lộc

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

57

Page ix


1. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Sự ra đời và phát triển của ngành Thuế luôn gắn liền với sự xây dựng và
trưởng thành của Nhà nước. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tếxã hội của đất nước, chúng ta đã có những bước tiến bộ trong việc cải cách công tác
quản lý thuế theo hướng tạo hành lang pháp luật trong chính sách thuế, quản lý
thuế, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ
thuế đối với nhà nước, đồng thời từng bước điều chỉnh các sắc thuế phù hợp với lộ

trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó, số thu từ thuế tăng đều qua các năm, luôn
trở thành nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu phát triển của đất nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế thị trường của
cả nước, Đảng ta luôn coi trọng thành phần kinh tế tư nhân, luôn tạo môi trường
bình đẳng, thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng phát triển và thực tế những năm
qua với một công tác đơn giản, năng động lực lượng hộ kinh doanh cá thể của cả
nước đã không ngừng lớn mạnh, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên hệ thống thuế vẫn còn tồn tại những mặt còn hạn chế, thiếu sót như:
Chính sách thuế chưa thực sự đồng bộ, việc thu thuế đôi khi còn trùng lắp, tính
pháp lý chưa cao; chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác thị trường; chưa xoá bỏ
triệt để công tác bao cấp qua thuế; chính sách thuế còn có những điểm quy định
chưa chặt chẽ, tạo kẽ hở cho các tổ chức, cá nhân lợi dụng gian lận thuế, trốn thuế;
Bên cạnh đó, ý thức về trách nhiệm đối với thuế của người nộp thuế nói riêng và
người dân nói chung chưa tốt; công tác quản lý thuế còn yếu kém ở một số lĩnh vực;
Đã áp dụng nhiều ứng dụng tin học vào công tác quản lý thuế nhưng việc khai thác
các triệt để các ứng dụng trên phần mềm đối với cán bộ thuế còn chưa cao; một bộ
phận cán bộ thuế yếu cả về trình độ và phẩm chất đạo đức, chưa đáp ứng được yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới… từ đó làm giảm hiệu quả quản lý của một số sắc thuế,
ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 1


Công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể còn gặp nhiều điều bất
cập, từ việc đăng ký thuế, xác định doanh thu, tính thuế đến việc thu thuế vẫn là một
dây chuyền công việc khép kín gần như rườm rà, luẩn quẩn, không rõ ràng, gây ức
chế cho người nộp thuế đồng thời lại tạo ra rất nhiều khó khăn cho cơ quan quản lý
thuế nói chung và ngành thuế nói riêng. Trong khi hộ kinh doanh cá thể ngày càng

chứng tỏ là một mô hình kinh tế năng động, không thể thiếu trong nền kinh tế quốc
dân và có những đóng góp quan trọng với ngân sách nhà nước.
Chi cục thuế huyện Gia Lộc thuộc cục thuế tỉnh Hải Dương cũng không phải là
ngoại lệ trong quá trình quản lý thuế đối với các hộ kinh doanh cá thể. Thực tế, công
tác này còn gặp nhiều khó khăn nguyên nhân xuất phát từ cả hai phía người quản lý
và người được quản lý. Vấn đề này cũng chưa được hệ thống trong một nghiên cứu
nào cụ thể.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi tiến hành đề tài “Hoàn thiện công tác
quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại Chi cục thuế huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá
thể, từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh
cá thể tại chi cục thuế huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá làm rõ một số cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác quản lý
thuế đối với hộ kinh doanh cá thể của cơ quan thuế;
- Phân tích thực trạng công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại
Chi cục thuế huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương;
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể tại Chi cục thuế huyện Gia Lộc, cục thuế tỉnh Hải Dương.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 2


1.3 Người và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Người nghiên cứu

Người nghiên cứu là công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi
cục thuế huyện Gia Lộc.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các vấn đề lý luận, thực tiễn về cũng như
thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh
cá thể tại Chi cục thuế huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại chi cục thuế huyện Gia Lộc, cục thuế
tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian:
+ Thông tin số liệu liên quan đến các công tác quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể 2011, 2012, 2013 và định hướng cho 2014 - 2020

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 3


2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
2.1.1 Khái niệm quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
2.1.1.1 Khái niệm về quản lý
Theo [1], Xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được hiểu là
chủ trì hay phụ trách một công việc nào đó.
- Theo Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức (gia đình, doanh
nghiệp, chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều
chỉnh và kiểm soát ấy”.
- Theo Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Theo Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó

không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự logic
mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi
thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của
hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động
quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần xác
định người quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản lý: Quản
lý vì cái gì?
Có được 3 yếu tố trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên
hoạt động quản lý. Đồng thời cần chú ý rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng
không phải là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong môi trường, điều kiện
nhất định nào đó.
Với những phân tích trên mọi hoạt động quản lý đều phải do 4 yếu tố cơ bản
sau cấu thành: Chủ thể quản lý, trả lời câu hỏi: do ai quản lý; Khách thể quản lý, trả

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 4


lời câu hỏi: quản lý cái gì; Mục đích quản lý, trả lời câu hỏi: quản lý vì cái gì; Môi
trường và điều kiện tổ chức, trả lời câu hỏi: quản lý trong hoàn cảnh nào?
Có thể đưa ra kết luận rằng: Quản lý không đơn giản chỉ là khái niệm, nó là
sự kết hợp của 3 phương diện: thứ nhất, thông qua tập thể để thúc đẩy tính tích cực
của cá nhân. Thứ hai, điều hoà quan hệ giữa người với người, giảm mâu thuẫn giữa
hai bên. Thứ ba, tăng cường hợp tác hỗ trợ lẫn nhau, thông qua hỗ trợ để làm được
những việc mà một cá nhân không thể làm được, thông qua hợp tác tạo ra giá trị lớn
hơn giá trị cá nhân - giá trị tập thể.
2.1.1.2 Thuế và chức năng của thuế
Ra đời tồn tại cùng với nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một quá

trình phát triển lâu dài và quan niệm về thuế cũng không ngừng được hoàn thiện.
Giáo trình Lý thuyết thuế của Học viện Tài chính định nghĩa: “Thuế là một khoản
thu nhập được chuyển giao một cách bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà
nước, do pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công cộng”.
* Chức năng của thuế
- Một là: Huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước, là nguồn thu chủ yếu
của ngân sách nhà nước
Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho tất cả các dạng Nhà nước.
Về mặt lịch sử, chức năng huy động nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản
ánh nguyên nhân nảy sinh ra thuế.
Nhờ chức năng huy động nguồn lực tài chính mà quỹ tiền tệ tập trung của
Nhà nước được hình thành, qua đó đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt
động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến
hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong
xã hội.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước với một nền kinh tế
nhiều thành phần, đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức
năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng cao đòi hỏi thuế phải bao
quát được hầu hết các nguồn thu nhập trong xã hội, để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 5


NSNN, đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán. Nhà nước thông qua thuế tiến hành
phân phối một bộ phận đáng kể tổng sản phẩm quốc nội. Thuế trở thành nguồn thu
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân sách các nước có nền kinh tế thị trường.
Chức năng huy động nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan
cho sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Hay nói cách khác, quá trình huy
động tập trung nguồn lực thông qua thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều

tiết kinh tế của thuế. Chức năng huy động nguồn lực và chức năng điều tiết kinh tế
có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Hai là, thuế là công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế mặc dù có cơ sở nảy sinh từ chức năng
huy động tập trung nguồn lực, nhưng chỉ được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ
những năm đầu của thế kỷ XX khi vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước được thực
hiện. Việc tăng cường chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến mức độ chi
tiêu công ngày càng lớn và hậu quả tất yếu đòi hỏi Nhà nước phải tăng cường
nguồn lực tài chính Nhà nước, nguồn lực được hình thành chủ yếu từ thuế.
Chức năng điều tiết kinh tế của thuế được thực hiện thông qua việc quy định
các hình thức thu thuế khác nhau, xác định hợp lý người nộp thuế, người đánh thuế,
thuế xuất, chế độ miễn giảm, phương pháp quản lý thu thuế, thuế là công cụ điều
tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội và được thể hiện trên hai mặt đó là
khuyến khích, thúc đẩy những hoạt động kinh doanh cần thiết có hiệu quả cao; đồng
thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng, hạn chế
sản xuất theo hướng tiết kiệm chống lãng phí, thúc đẩy mở rộng thị trường cạnh
tranh lành mạnh. Trên cơ sở đó, Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào
quỹ đạo chung, phù hợp với lợi ích của xã hội. Như vậy, bằng cách điều tiết và kích
thích, chức năng điều tiết kinh tế của thuế đã được thực hiện. Trong điều kiện
chuyển sang kinh tế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày càng
được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ
thể kinh tế vì lợi ích của xã hội.
Giữa chức năng huy động nguồn lực tài chính và chức năng điều tiết kinh tế
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 6


có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng huy động nguồn lực tài chính
nảy sinh đồng thời với sự ra đời của thuế và được coi là chức năng cơ sở, qua đó

quy định sự tác động và sự phát triển của chức năng điều tiết. Ngược lại, nhờ sự vận
dụng đúng đắn chức năng điều tiết kinh tế đã làm cho chức năng huy động nguồn
lực tài chính của thuế có điều kiện phát triển. Ý nghĩa của chức năng huy động
nguồn lực tài chính càng tăng lên nhằm đảm bảo nguồn thu nhập cho Nhà nước đã
tạo ra những điều kiện khách quan để Nhà nước tác động một cách sâu rộng đến các
quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra tiền đề tăng thêm thu nhập cho các tầng
lớp dân cư, do đó mở rộng cơ sở thực hiện chức năng huy động nguồn lực tài chính.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của thuế. Sự thống nhất
đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Sự tăng cường chức năng huy động
tập trung tài chính làm cho mức thu nhập của Nhà nước tăng lên. Điều đó đồng
nghĩa với việc mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương
trình kinh tế - xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng huy động một cách quá
mức sẽ làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả của nó là giảm động lực phát triển kinh
tế và làm xói mòn vai trò điều tiết kinh tế. Đó là tính hai mặt của thuế, nó có khả
năng ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng
đến nền kinh tế một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được
tính toán kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định chính sách thuế ở mỗi giai đoạn phát
triển kinh tế khác nhau.
Tóm lại, để phát huy được vai trò của thuế trong nền kinh tế, phải sử dụng
thuế đúng với chức năng của nó. Tuy nhiên, vai trò của thuế đối với nền kinh tế ở
mỗi quốc gia không giống nhau mà tuỳ thuộc vào "nghệ thuật sử dụng" công cụ
thuế của mỗi quốc gia đó. Vấn đề có tính nguyên tắc là thuế phải luôn luôn phù hợp
với mục tiêu, đường lối phát triển kinh tế xã hội mỗi quốc gia trong từng thời kỳ
nhất định. Đó cũng là lý do mà các quốc gia phải thường xuyên rà soát mức độ phù
hợp của hệ thống thuế với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mình, thực hiện
các cải cách thuế kịp thời nếu thấy cần thiết.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 7



2.1.1.3 Khái niệm về quản lý thuế
Để đảm bảo mục tiêu thu đúng, đủ thuế nhằm phát huy đầy đủ vai trò của
thuế trong phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước phải đề ra các quy định, luật pháp
nhằm tạo một hành lang thống nhất, buộc mọi tổ chức, cá nhân kinh doanh phải
thực hiện theo.
Để Luật pháp về thuế được đảm bảo thực hiện, Nhà nước phải tổ chức ra bộ
máy để quản lý thu thuế và giám sát thực hiện đối với bộ máy này. Do bản chất
của thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp nên việc yêu cầu người nộp thuế tự
giác khi không có hệ thống luật pháp để bắt buộc là điều không thể thực hiện,
thậm chí kể cả khi có hệ thống luật pháp về thuế, nhiều tổ chức cá nhân nộp thuế
vẫn cố tình không thực hiện hoặc lợi dụng kẽ hở của chính sách để tư lợi. Vì vậy,
vai trò quản lý thuế của Nhà nước mang tính áp đặt và là một tất yếu khách quan
trong quá trình quản lý.
Từ những cơ sở lý luận trên ta có thể định nghĩa một cách khái quát về quản
lý thuế như sau:
Quản lý thuế là việc Nhà nước sử dụng các phương tiện, cách thức, biện
pháp nhằm thực hiện việc thu thuế sao cho đạt hiệu quả, đúng mục tiêu, mục đích
đề ra trong việc xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời
kỳ. Được biểu hiện cụ thể thành một hệ thống: Từ việc Nhà nước ban hành chính
sách, tổ chức bộ máy, triển khai thực hiện, kiểm tra giám sát kết quả đến việc chỉnh
sửa chính sách và ban hành chính sách mới cho phù hợp với thực tiễn đang quản lý.
Như vậy quản lý thuế có vai trò:
+ Quản lý thuế nhằm thực hiện một trong những chức năng quan trọng của
Nhà nước trong lĩnh vực quản lý tài chính: Đó là điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đây là
một trong những nội dung quan trọng nhất nhằm đảm bảo phát huy tối đa những
chức năng, vai trò của thuế trong phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, quản lý thu
thuế còn thực hiện một mục tiêu quan trọng nữa là huy động số thu cho Ngân sách
Nhà nước. Thể hiện quyền lực tối cao và sự độc quyền của Nhà nước trong việc

quản lý và điều hành đất nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 8


+ Giúp Nhà nước kiểm soát việc nộp thuế của người nộp thuế. Dù bất kỳ ở xã
hội nào, lợi ích của người kinh doanh luôn được đặt lên hàng đầu đối với bản thân
mỗi cá nhân nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, với vai trò kiểm tra, giám sát,
vai trò của Nhà nước về Quản lý thuế định hướng, sửa chữa những sai sót trong quá
trình thực hiện các Luật thuế dù vô tình hay cố ý sai phạm đều phải duy trì bình đẳng
xã hội trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế.
+ Giúp Nhà nước quản lý được bộ máy thu thuế. Một mặt, đảm bảo bộ máy
quản lý thuế vận hành trơn tru, không sai sót; mặt khác, cũng xuất phát từ lợi ích cá
nhân, con người trong bộ máy quản lý thu thuế của Nhà nước cũng có những cá
nhân hám lợi sẵn sàng bắt tay với người nộp thuế nhằm giúp họ trốn thuế và thu
những mối lợi bất chính làm thất thu cho Ngân sách, hoặc cố tình gây khó dễ, sách
nhiễu để vòi vĩnh. Điều đó đòi hỏi Quản lý thuế với chức năng kiểm tra, giám sát sẽ
hạn chế và xử lý các trường hợp này. Vì vậy, việc quản lý bộ máy thu thuế chặt chẽ
cũng là yêu cầu cực kỳ cấp thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang bị
ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các tác động xấu của mặt trái kinh tế thị trường.
+ Với vai trò hướng dẫn người nộp thuế, thông qua công tác tuyên truyền, giáo
dục sẽ nâng cao ý thức người dân trong việc chấp hành các Luật thuế, đảm bảo việc
thực hiện các Luật thuế được nghiêm chỉnh. Mặt khác, việc xử lý các sai phạm đảm
bảo nghiêm minh, đúng người, đúng việc nhằm răn đe những người vi phạm, đồng
thời làm gương cho các người khác.
Luật Quản lý thuế được Quốc hội thông qua ngày 22/11/2006, có hiệu lực từ
01/7/2007 đó là một cuộc cách mạng về công tác quản lý thuế. Nếu như trước đây
người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế một cách thụ động thì nay đã chuyển sang
công tác tự khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Nếu như trước đây

ngành thuế quản lý người nộp thuế theo người thì nay chuyển sang công tác theo mô
hình chức năng. Luật Quản lý thuế ra đời và có hiệu lực bản thân đã hình thành nên
một công tác quản lý thuế mới văn minh hơn, khoa học hơn, hiện đại hơn và công
khai, minh bạch hơn [13].

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 9


2.1.2 Tính tất yếu khách quan của công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh
cá thể
Thứ nhất, hoàn thiện công tác quản lý thuế tạo điều kiện để tổ chức quản lý
thuế đối với hộ kinh doanh ngày càng hiệu quả.
Chính sách thuế là một trong những quy định bắt buộc do Nhà nước đặt ra để
quản lý thu thuế, nhằm buộc các công dân phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
mình. Để thu thuế hiệu quả, đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong
từng thời kỳ của đất nước, chính sách thuế phải đảm bảo các yêu cầu: Công bằng;
hiệu quả; minh bạch, rõ ràng; linh hoạt. Và để chính sách thuế đạt được các yêu cầu
như vậy, đòi hỏi những nhà xây dựng chính sách phải thâm nhập thực tế để nắm
được những cách thức thực hiện, những diễn biến trong quá trình kinh doanh dù là
nhỏ nhất. Tránh việc xa rời thực tế hoặc “cưỡi ngựa xem hoa”, ban hành “chính
sách ở trên trời chuyện đời ở dưới đất”, không phù hợp với thực tế. Dù yêu cầu như
vậy, trên thực tế vẫn xảy ra các trường hợp ban hành chính sách thuế như kể trên,
dẫn đến việc quản lý thuế gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí các quy định của chính
sách thuế về cùng một vấn đề còn trái ngược, làm cho người nộp thuế và các cán bộ
quản lý thuế cấp dưới không biết phải thực hiện thế nào cho đúng, hoặc vì không sát
thực tế dẫn tới thất thu thuế, tạo điều kiện cho các người lách luật để trốn thuế...
Với những đặc trưng của kinh tế cá thể việc quản lý thuế là vô cùng khó
khăn, phức tạp. Trên thực tế, qua một thời gian rất dài, thậm chí trước cả khi thành

lập hệ thống thuế, chính sách thuế để quản lý các hộ kinh doanh cá thể đều mang
tính ước chừng dẫn đến việc thất thu thuế trong quản lý thuế là rất lớn. Từ đó yêu
cầu tìm ra cách thức để xây dựng chính sách quản lý hiệu quả là một thực tế khách
quan về hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.
- Giúp người nộp thuế hiểu rõ và tuân thủ các chính sách thuế .
Đối với hộ kinh doanh cá thể hầu như không có một tổ chức, hiệp hội nào
đứng lên làm đại diện. Các quy định pháp lý để quản lý các hộ kinh doanh cá thể
cũng chưa được nghiên cứu cụ thể và rõ ràng như như các thành phần kinh tế khác.
Như vậy, việc nâng cao vai trò Nhà nước về quản lý thuế đối với kinh tế cá thể
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 10


nhằm nghiên cứu sâu, cụ thể về hoạt động của các hộ kinh doanh cá thể để ban hành
chính sách quản lý cho phù hợp, hiệu quả và mang tính chất pháp lý cao. Vai trò
Nhà nước ở đây còn được được đề cao với nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục pháp
luật thuế trên cơ sở hỗ trợ người nộp thuế trong mọi công việc, vướng mắc trong
quá trình hoạt động kinh doanh cả về chính sách cũng như công tác, đảm bảo
nguyên tắc “phục vụ khách hàng- người nộp thuế” với trách nhiệm cao nhất, tạo
môi trường quản lý thuế trong sạch, hiệu quả, khoa học.
- Tạo điều kiện cho người nộp thuế một cách thuận tiện, nhanh chóng, chính xác.
Trong việc kê khai nộp thuế cho nhà nước, người nộp thuế chính là khách
hàng và cơ quan thuế là người phục vụ. Việc cán bộ thuế sách nhiễu, gây khó khăn
cho người nộp thuế ở các khâu: Nộp hồ sơ khai thuế, mua hoá đơn, chấp hành việc
thanh, kiểm tra của cơ quan thuế... vẫn diễn ra phổ biến với nhiều mức độ khác
nhau. Thời gian dành cho việc kê khai, nộp thuế chiếm khá nhiều thời gian của
người nộp thuế.
Đối với các hộ kinh doanh cá thể dù mô hình tổ chức, quản lý của hộ không
phức tạp, thậm chí đơn giản nhưng số lượng lại đông, quy định nộp thuế theo tháng dẫn

đến ùn tắc khâu nộp thuế những ngày cuối tháng. Thậm chí đối với các hộ thực hiện kê
khai theo phương pháp trực tiếp trên doanh số, việc kiểm soát hồ sơ khai thuế để tính
số nộp cũng mất nhiều thời gian do chưa có ứng dụng tin học trong kê khai cũng làm
mất nhiều thời gian của hộ. Điều này cũng dẫn đến một số tiêu cực như: Cán bộ thuế kê
khai thuế thay chủ hộ, gây khó khăn hoặc ưu ái để sách nhiễu, vòi vĩnh.
Vì vậy, việc xây dựng một môi trường lành mạnh, trong sạch, văn minh giữa
cơ quan thuế và người nộp thuế để việc kê khai nộp thuế của người nộp thuế được
dễ dàng, thuận tiện với thời gian và chi phí thấp nhất là yêu cầu quan trọng trong
nâng cao vai trò Nhà nước về quản lý thuế.
- Đảm bảo việc thu thuế được thực hiện công bằng, theo đúng quy định của
Pháp luật, hạn chế tiêu cực,
Tổ chức quản lý thu thuế là khâu chốt của quá trình quản lý thuế với mục tiêu là
thu đúng, đủ thuế. Để đảm bảo việc thu đúng, đủ thuế, đòi hỏi việc kiểm tra việc kê
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 11


khai thuế của người nộp thuế phải chặt chẽ, phù hợp với thực tế kinh doanh, không
phân biệt loại hình kinh tế nào. Thực tế quản lý đối với hộ kinh doanh tình trạng thất
thu thuế xảy ra còn phổ biến, một mặt do không nắm sát doanh thu, mặt khác do người
nộp thuế cố tình trốn tránh, chây ỳ, kinh doanh không đăng ký, kê khai nộp thuế... gây
rất nhiều khó khăn cho công tác thu thuế. Mặt khác, khi thu được thuế về, còn xảy ra
tình trạng xâm tiêu, biển thủ tiền thuế do cách thức thu thuế đối với hộ kinh doanh chủ
yếu là thu trực tiếp bằng tiền mặt, nhất là ở khu vực đã uỷ nhiệm thu thuế.
Thứ hai, hoàn thiện công tác quản lý thuế góp phần làm giảm những khuyết tật
của kinh tế thị trường và góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở nước ta.
Nâng cao vai trò Nhà nước về quản lý thuế là góp phần tạo công bằng xã hội
trong nghĩa vụ nộp thuế của các công dân, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế
nói chung, hộ kinh doanh cá thể nói riêng phát triển trong một hành lang pháp lý

chung, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
ổn định đời sống một bộ phận dân cư. Ngoài ra, cùng với việc tạo điều kiện phát
triển cho các hộ kinh doanh cá thể ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng nông thôn
sẽ trực tiếp phục vụ nhu cầu dân cư các khu vực này được tốt hơn, tạo điều kiện
thông thương hàng hoá giữa các vùng miền, góp phần xoá bỏ khoảng cách giàu
nghèo giữa nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi. Từ đó góp phần ổn định
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giảm bớt được những ảnh hưởng xấu về
kinh tế xã hội do khuyết tật của kinh tế thị trường mang lại.
Quản lý thuế có hiệu quả phải gắn liền với mục tiêu nuôi dưỡng nguồn thu.
Đó chính là tạo điều kiện để các hộ kinh doanh cá thể phát triển. Để các hộ kinh
doanh phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh được với sự
thâm nhập của các tập đoàn bán lẻ quốc tế thì vai trò nhà nước về quản lý thuế phải
đảm bảo quản lý chặt chẽ, sát thực tế đối với các hộ kinh doanh nhằm điều chỉnh
kịp thời những biến động do hội nhập gây ra. Hỗ trợ các hộ kinh doanh cá thể
không có nghĩa là ưu ái hay thu thuế ít đi mà mấu chốt là xây dựng một hành lang
pháp lý về thuế nói riêng và kinh doanh của các hộ kinh doanh nói chung để các hộ
kinh doanh cá thể có điều kiện phát huy tối đa thế mạnh của mình.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 12


2.1.3 Đặc điểm của công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
2.1.3.1 Hộ kinh doanh cá thể và vai trò của hộ kinh doanh cá thể đối với phát triển
kinh tế xã hội.
Hộ kinh doanh cá thể là do một cá nhân, là công dân Việt Nam hoặc một
nhóm người, hoặc một gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa
điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Hộ kinh doanh cá thể là mô hình tổ chức kinh tế giản đơn, gọn nhẹ, sử dụng ít

lao động, được phân bố rộng rãi trong các tầng lớp dân cư. Về thời gian của hộ kinh
doanh cá thể là đa thời gian, điều này xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dân trên
địa bàn và có cầu ắt có cung, nhất là nhu cầu về ăn uống, dịch vụ, thương mại .
Đa phần hoạt động kinh doanh dưới hình thức cung ứng các hàng hoá, dịch
vụ trực tiếp cho người tiêu dùng. Chiếm số lượng đông đảo nhất là các hộ kinh
doanh lĩnh vực thương nghiệp bán các loại hàng hoá phục vụ tiêu dùng, từ lương
thực, thực phẩm thiết yếu cho đời sống hàng ngày của người dân đến các hàng hóa
khác, phần lớn tập trung kinh doanh ở các Chợ đầu mối và Chợ trung tâm của các
thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Một số ít hơn được tập trung ở các đường phố
chính, đông người qua lại. Nhìn chung các hộ kinh doanh cá thể xuất hiện ở khắp
mọi nơi có nhu cầu về hàng hóa dịch vụ.
Hơn nữa hộ kinh doanh cá thể tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh. Điều này xuất phát từ tính chất trong quan hệ
mua bán của hộ kinh doanh cá thể, thường là thỏa thuận trực tiếp, tiền và quyền sở
hữu hàng hóa được trao tự nguyện trên cơ sở " Thuận mua vừa bán" không thông qua
ký kết hợp đồng kinh tế do giá trị các thương vụ nhỏ. Chủ yếu là mua bán trao tay.
Trình độ quản lý của hộ kinh doanh cá thể thấp, quản lý tài chính bằng phương
pháp ghi sổ tay các khoản thu, chi, tự hạch toán được lỗ, lãi hàng ngày.
Hộ kinh doanh cá thể có vai trò nhất định trong phát triển kinh tế, xã hội; đó
là: Giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập góp phần cải thiện đời sống cho
người lao động. Tuy mức đóng góp của từng hộ kinh doanh cá thể không lớn nhưng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 13


với một lực lượng hùng hậu, các hộ kinh doanh cá thể góp phần quan trọng đối với
thu ngân sách nhà nước. Ngoài ra hộ kinh doanh cá thể còn là một kênh phân phối
hàng hoá, dịch vụ nhanh nhất đến người tiêu dùng trong toàn xã hội.
Hộ kinh doanh cá thể đang đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần

tạo ra sự phát triển cân bằng giữa nông thôn và thành thị. Cũng theo số liệu của tổng
cục thống kê, số lượng các hộ kinh doanh cá thể đang tập trung nhiều ở nông thôn
(chiếm 57,1%).
Từ số liệu thống kê nói trên, cũng đủ để nhìn nhận, đánh giá vai trò của hộ
kinh doanh cá thể trong nền kinh tế nước ta hiện nay quan trọng như thế nào...Tuy
nhiên, hiện nay khu vực này vẫn đang trong tình trạng phát triển một cách tự
phát.Theo thống kê điều tra, chỉ có khoảng 30% số hộ đăng ký kinh doanh, 30% số
hộ chưa đăng ký và 30% không đăng ký. Như vậy việc tính không đầy đủ số lượng
hộ kinh doanh sẽ có ảnh hưởng đến việc tính GDP hàng năm.
Như vậy: Thực tế cho thấy, các hộ kinh doanh cá thể ở nước ta tồn tại khách
quan và có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước,
không những giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tăng nguồn thu cho ngân sách,...
mà hộ kinh doanh cá thể còn phát triển tự nhiên, phân bổ rộng khắp, có mặt ở hầu
hết các vùng, miền trên cả nước. Đặc biệt, hộ kinh doanh cá thể còn là kênh phân
phối hàng hoá tới vùng sâu, vùng xa, góp phần ổn định chính trị, trật tự xã hội.
2.1.3.2 Đặc điểm quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể
Theo [1], Quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể là hoạt động của Nhà
nước mà cơ quan thuế là đại diện để tổ chức, điều hành hệ thống quản lý thu thuế
nhằm động viên nguồn thu từ thuế vào ngân sách nhà nước theo những quy định
của pháp luật về thuế. Việc quản lý thu thuế được thực hiện thông qua một qui trình
quản lý, bằng những phương thức, cách thức mà cơ quan thuế tác động vào hệ
thống thuế theo những mục tiêu ngành thuế đã đặt ra trong từng thời kỳ nhất định,
đó chính là công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể.:
Như vậy có thể rút ra, quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể là những
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế

Page 14


phương thức, cách thức mà cơ quan quản lý thuế tác động vào hộ kinh doanh cá thể

theo những mục tiêu xác định.
Đặc điểm công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể về cơ bản cũng
như công tác quản lý thuế đối với doanh nghiệp, đó là đều hướng tới sự minh bạch,
rõ ràng, đơn giản, rễ tính toán trong việc thực hiện chính sách thuế. Thông qua các
chính sách thuế như ưu đãi thuế, miễn, giảm thuế, hoàn thuế để khuyến khích người
nộp thuế tích cực đầu tư, đổi mới công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật mở rộng
và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Tuy nhiên xuất phát từ đặc điểm của hộ kinh doanh cá thể là giản đơn, gọn
nhẹ, trình độ quản lý thấp, đại bộ phận hộ kinh doanh cá thể không sử dụng hóa đơn
mua, bán hàng, điều này đã dẫn đến dễ gian lận trong việc kê khai thuế. Vì thế với
công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể cũng có những đặc điểm sau:
+ Hộ kinh doanh cá thể (bao gồm cả hộ hành nghề tư nhân) nếu có mức thu
nhập dưới mức lương tối thiểu (do Chính phủ quy định) không phải đăng ký kinh
doanh (trừ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện) và chưa phải nộp thuế
+ Bên cạnh sự khuyến khích hộ kinh doanh cá thể tự giác trong việc khai
thuế, nộp thuế cũng có sự tham gia của hội đồng tư vấn thuế.
+ Ngoài việc tự khai, tự nộp thuế, hộ kinh doanh cá thể còn phải nộp thuế
theo thông báo của cơ quan thuế.
+ Do chủ yếu hộ kinh doanh cá thể không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ trong mua, bán hàng hóa, nên về công tác quản lý
thuế cũng hướng tới sự đơn giản trong việc khai thuế, tính thuế và nộp thuế.
+ Hộ kinh doanh cá thể phải thực hiện mức ấn định thuế của cơ quan thuế.
(trong trường hợp hộ kinh doanh kê khai doanh thu chưa sát đúng thực tế và hộ kinh
doanh khoán ổn định thuế 6 tháng hoặc một năm).
Như vậy nếu như kết quả nộp thuế của các doanh nghiệp phụ thuộc vào việc
thực hiện chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ thì ngược lại kết quả nộp thuế của hộ
kinh doanh cá thể phụ thuộc chủ yếu vào trình độ và ý thức của cán bộ thuế.

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế


Page 15


×