ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
PHẠM TRUNG THÀNH
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
PHẠM TRUNG THÀNH
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hải
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Hoảng Hải. Các kết quả trong luận văn đều có
nguồn gốc rõ ràng, tin cậy.
Tác giả luận văn
Phạm Trung Thành
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi đến các quý thầy cô giáo Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Hà Tĩnh, Khoa Chính trị học, lời
cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc về quá trình đào tạo trong suốt 2 năm học Cao
học vừa qua.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn về sự chỉ bảo tận tình và chu đáo của
thầy giáo hướng dẫn - TS. Hoảng Hải; sự hỗ trợ, động viên của gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã giúp tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến cơ quan: Thư viện Quốc gia, thư viện
Trường Đại học Hà Tĩnh, các cơ quan, ban, ngành, lưu trữ tỉnh Hà Tĩnh... đã
cung cấp những tài liệu quan trọng, quý báu cho tôi hoàn thành đề tài.
Học viên
Phạm Trung Thành
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................
3. Mục đích và nhiệm vụ ........................................................................................
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .........................................................
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................................
7. Kết cấu của luận văn ...........................................................................................
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ...................................
1.1. Nhận thức mới về trí thức .............................................................................
1.1.1. Khái niệm về trí thức ....................................................................................
1.1.2. Khái niệm về đội ngũ trí thức ......................................................................
1.2. Hình thức vận động trí thức .........................................................................
1.3. Cơ quan vận động trí thức ............................................................................
1.3.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ....................
1.3.2. Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật .......................................................
1.3.3. Hội Phụ nữ ....................................................................................................
1.3.4. Hội Thanh niên .............................................................................................
1.4. Vai trò của trí thức trong xây dựng nông thôn mới ...................................
1.4.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nông thôn mới ...................
1.4.1.1. Khái niệm nông thôn và nông thôn mới ....................................................
1.4.1.2. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới ........................
1.4.1.3. Quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng nông thôn mới .................
1.4.2. Những vấn đề đặt ra đối với trí thức trong xây dựng nông thôn mới ...........
Tiểu kết chương 1 .................................................................................................
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2010-2014 ........
2.1. Một số kết quả về vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới ở
Hà Tĩnh ..................................................................................................................
2.1.1. Vận động nhà khoa học tham gia phát triển khoa học nông nghiệp nông thôn ................................................................................................................
2.1.2. Vận động trí thức là nhà báo tham gia tuyên truyền về nông nghiệp nông thôn ................................................................................................................
1
1
2
4
5
5
5
5
6
6
6
8
14
17
17
19
20
21
22
22
22
23
25
29
32
33
33
34
36
2.1.3. Vận động trí thức là người dân tộc, chức sắc tôn giáo tham gia các phong
trào thi đua yêu nước vùng nông thôn ....................................................................
2.1.4. Vận động trí thức làm kinh tế góp phần xóa đói giảm nghèo, hưởng ứng
các cuộc vận động, trong đó có cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng
hàng Việt Nam ........................................................................................................
2.1.5. Vận động trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài góp phần phát triển
nông nghiệp - nông thôn ở Hà Tĩnh .......................................................................
2.2. Một số nhận xét ..............................................................................................
2.2.1. Những ưu điểm nổi bật .................................................................................
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân ...................................................................
2.2.3. Một vài so sánh với kinh nghiệm vận động trí thức tham gia phát triển
nông nghiệp - nông thôn của tỉnh Nghệ An ...........................................................
Tiểu kết chương 2 .................................................................................................
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI Ở HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2015 - 2020 ......................................................
3.1. Yêu cầu mới về công tác vận động trí thức trong giai đoạn hiện nay ......
3.1.1. Yêu cầu về đổi mới công tác phát triển nông thôn .......................................
3.1.2. Yêu cầu mới về vận động trí thức trong việc phát triển nông thôn ..............
3.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác vận động trí thức trong
xây dựng nông thôn mới của Hà Tĩnh giai đoạn 2015 - 2020............................
3.2.1. Chính sách về vận động giới trí thức trong giai đoạn mới ...........................
3.2.2. Những giải pháp cụ thể .................................................................................
3.2.2.1. Giải pháp hoạt động truyền thông về trí thức ............................................
3.2.2.2. Giải pháp về nội dung công tác vận động trí thức .....................................
3.2.2.3. Giải pháp về điều kiện bảo đảm công tác vận động (tài chính, vật chất) ..
Tiểu kết chương 3 .................................................................................................
KẾT LUẬN ...........................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................
39
43
45
51
51
51
54
57
58
58
58
64
69
69
70
70
72
77
79
80
83
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho thế giới đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức. Vì vậy, vai trò của trí thức cũng như công tác vận đông trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Để đạt được mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn,
phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc
biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức [15, tr.81].
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, tỉnh Hà
Tĩnh trong những năm qua đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng phát triển đội ngũ trí thức cũng như công tác vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, đội ngũ trí thức của tỉnh ngày càng lớn
mạnh cơ bản đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
địa phương, góp phần đưa Hà Tĩnh ngày càng phát triển theo guồng máy
chung của đất nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu bức thiết là phải đẩy nhanh tốc độ
phát triển để sánh vai với các tỉnh, thành phố khác trong cả nước thì đội ngũ
trí thức Hà Tĩnh còn thiếu về cả số lượng và chất lượng. Do tỉnh vừa mới
được tái lập, đội ngũ trí thức bị phân tán nhiều nên chưa phát huy được sức
mạnh tiềm năng trí tuệ của đội ngũ này trong quá trình phát triển kinh tế. Hà
Tĩnh vẫn còn thiếu vắng một chiến lược tổng thể để có kế hoạch chủ động
đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao ở nhiều độ tuổi khác nhau nên sự phát
triển của đội ngũ trí thức Hà Tĩnh thời gian qua còn mang tính tự phát. Nguy
cơ thiếu lực lượng cán bộ trẻ kế cận có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu
1
phát triển kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Kế hoạch trong công tác đào
tạo và sử dụng đội ngũ trí thức vẫn còn bất hợp lí, chưa gắn với chiến lược
phát triển kinh tế. Trong khi môi trường làm việc chưa đủ sức hấp dẫn thu
hút trí thức ngoài tỉnh, thì tình trạng con em Hà Tĩnh sau khi tốt nghiệp đại
học đều không muốn trở về quê hương mà ở lại các thành phố lớn công tác
ngày càng tăng. Vì vậy, hơn lúc nào hết, điều quan trọng nhất của Hà Tĩnh
hiện nay là phải chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức với những chính sách đãi
ngộ xứng đáng nhằm thu hút trí thức nhân tài để tạo ra một lực lượng lao
động có trình độ cao trên tất cả các hoạt động của sản xuất và đời sống, phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương xây dựng nông thôn
mới mà trọng tâm là nhằm nâng cao đời sống của người nông dân. Vì vậy, sự
chung tay của các cấp, các ngành cũng như các tổ chức chính trị - xã hội đóng
một vai trò hết sức quan trọng. Tuy nhiên, việc thu hút, khai thác tiềm năng
của đội ngũ trí thức còn hạn chế và chưa có nghiên cứu toàn diện đối với công
tác vận động trí thức trong xây dựng nông thôn mới.
Góp phần đánh giá đầy đủ các hạn chế nói trên từ đó đề xuất được giải
pháp nâng cao hiệu quả vận động trí thức, nhất là trong thời kỳ hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế rất cần nghiên cứu toàn diện và sâu sắc về công tác này.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Công tác vận động trí thức trong xây dựng
nông thôn mới ở Hà Tĩnh" làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trí thức là một đề tài đã và đang thu hút các nhà khoa học, lý luận, các
học giả ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, ở nước ta
đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với nhiều khía
cạnh, quy mô khác nhau. Trong đó, có thể kể đến một số nghiên cứu như:
2
Đề tài cấp bộ: "Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong vận động
giới trí thức tham gia những hoạt động của Mặt trận trong giai đoạn hiện
nay";“Trí thức Việt Nam thời xưa” của giáo sư Vũ Khiêu, Nxb Thuận Hóa;
“Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của Đỗ
Mười, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995... Trong đó, các tác giả từ việc
nghiên cứu thực trạng về số lượng, cơ cấu... đến tâm trạng, nguyện vọng của
đội ngũ trí thức, xây dựng khối liên minh công - nông - trí, các giải pháp phát
huy vai trò của trí thức...; đồng thời, khẳng định quan điểm của Đảng ta về vai
trò của trí thức và nhiệm vụ của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi
mới xây dựng đất nước.
Một số bài viết, như: "Vấn đề vận động thanh niên trong giai đoạn
mới", Tạp chí Mặt trận số 89; "Quân đội với công tác vận động đồng bào dõn
tộc thiểu số giai đoạn hiện nay", Tạp chí Mặt trận số 104; "Quan điểm và
chính sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa" của
Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4, 1995; "Những bài học từ quan điểm
của Lênin về trí thức", Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4/1996; "Bài học từ
những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức", Tạp chí Lịch sử Đảng, số
2/2001; "Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí vì sự nghiệp xây dựng
đất nước hiện nay", Tạp chí Cộng sản, tháng 11/1999... Các tác giả đã đi sâu
nghiên cứu các vấn đề về bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử dụng các
chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng khối liên
minh công - nông - trí, các giải pháp phát huy vai trò của trí thức...
Ngoài ra, còn có những nghiên cứu khác như: "Chủ trương của Đảng
về vận động, tập hợp tầng lớp trí thức thời kỳ 1930-1954", Luận văn thạc sỹ
lịch sử Đảng của Nguyễn Thu Hải bảo vệ năm 2010; "Trí thức Việt Nam ở
nước ngoài với sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Từ tiềm
năng đến hiện thực", Tham luận tại Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài
lần 2, Tp.HCM, tháng 9/2012...
3
Bên cạnh đó, còn có nhiều luận văn, luận án và công trình khoa học, bài
viết được đăng trên các tạp chí liên quan ít nhiều đến vấn đề trí thức mà tác
giả luận văn chưa có điều kiện để tiếp cận.
Những nghiên cứu nói trên tuy mới giới thiệu một phần nhỏ nhưng đã
thể hiện sự đa dạng về nội dung, thể loại đề tài song một đề tài cấp bộ về vận
động giới trí thức của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thì chưa có. Do đó, khi
nghiên cứu về chủ đề này có khó khăn là ít khai thác được những kết quả đã
có nhưng có mặt thuận lợi là không bị trùng lặp, sẽ có một số cách nhìn mới,
đề xuất mới về vận động giới trí thức phù hợp với giai đoạn phát triển mới.
Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu và làm rõ quan niệm về trí
thức, vai trò vị trí và những định hướng để xây dựng đội ngũ trí thức trong
lịch sử cũng như trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, xã hội ở nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công trình
nghiên cứu nào đề cập đến công tác vận động đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh dưới
góc độ luận văn thạc sĩ Chính trị học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vận động trí thức tham
gia phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đối với vùng nông thôn và việc xây
dựng nông thôn mới ở Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ quan niệm về trí thức, hình thức vận động trí thức và vai trò
của trí thức trong xây dựng nông thôn mới.
+ Phân tích thực trạng công tác vận động trí thức của tỉnh Hà Tĩnh; tìm
ra nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém và những
vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò đội ngũ trí thức cũng như công tác
vận động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác vận
động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong xây dựng nông thôn mới mà tỉnh đang
thực hiện.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức của tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của trí
thức Hà Tĩnh giai đoạn hiện từ 2010 - 2014, đặc biệt trong giai đoạn tỉnh đang
tập trung thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận cơ bản của luận văn là những quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của
Đảng ta về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới. Luận
văn cũng kế thừa những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
liên quan đến nội dung luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
khi thực hiện đề tài như: phương pháp lịch sử, tổng hợp, khảo sát thực tế,
phân tích, so sánh, dự báo… Các phương pháp được sử dụng ở mức độ phù
hợp theo từng chương, từng chuyên đề.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong
giai đoạn hiện nay, đặc biệt là vai trò trí thức trong xây dựng nông thôn mới.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công
tác vận động trí thức tỉnh Hà Tĩnh trong xây dựng nông thôn mới trong giai
đoạn hiện nay.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÍ THỨC VÀ VẬN ĐỘNG
TRÍ THỨC TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Nhận thức mới về trí thức
1.1.1. Khái niệm về trí thức
Xét về nguồn gốc thì thuật ngữ “trí thức” xuất phát từ tiếng La Tinh Intelligentia nghĩa là thông minh, có trí tuệ hiểu biết. Trong tiếng Anh trí thức
là một tính từ có nghĩa là: intelltual, còn danh từ gốc của nó là Intellect. Trong
tiếng Đức, theo V.I.Lênin: tầng lớp trí thức bao gồm không chỉ các nhà văn
hóa, những người làm nghề tự do nói chung, nó còn là những đại biểu của lao
động trí óc (brain worker như người Anh nói) để phân biệt với những đại biểu
của lao động chân tay.
Ở nước ta, cho đến nay cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về trí
thức. Chẳng hạn, theo “Từ điển tiếng Việt” do Viện ngôn ngữ biên soạn và
Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1994 định nghĩa: “Trí thức là người
chuyên môn làm việc trí óc và có trí thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động
nghề nghiệp của mình”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, với
những cách tiếp cận khác nhau, mỗi quốc gia, mỗi nhà khoa học có những
quan niệm khác nhau về trí thức. Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào tựu trung lại
thì các định nghĩa về trí thức đó thường đề cập tới hai dấu hiệu cơ bản là: thứ
nhất, trí thức là lao động trí tuệ, có chuyên môn sâu; thứ hai, trí thức là những
người có học vấn cao.
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Hồ Chí Minh quan niệm: “trí
thức là hiểu biết, trong thế giới có hai thứ hiểu biết: một là hiểu biết sự đấu
tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết đấu tranh dân
tộc và đấu tranh xã hội. Khoa học xã hội từ đó mà ra. Ngoài hai cái đó không
6
có trí thức nào khác". Và người trí thức là người đó phải có trình độ chuyên
môn, đồng thời phải biết sử dụng nó vào đời sống xã hội, phục vụ dân sinh.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xây dựng được khái niệm trí thức như sau: “Trí thức là những người
lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra
những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội" [15, tr.81]. Từ
đó giúp chúng ta có hướng nghiên cứu mang tính định hướng cho sự phát
triển đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và của tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong
giai đoạn hiện nay.
Trí thức là một tập hợp mở và đa dạng nên đặc điểm của tầng lớp này
cũng rất phong phú. Để góp phần làm rõ thêm vai trò của trí thức trong xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và đóng góp vào
quá trình xây dựng nông thôn mới nói riêng, chúng ta cần đi sâu nghiên cứu
những đặc biểm nổi bật của trí thức:
Thứ nhất, trí thức nói chung rất ham học, ham đọc. Nhờ ham học, ham
đọc mà người trí thức luôn luôn tiếp cận được cái mới, do đó trình độ lý luận
không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, sự ham học, ham đọc, ham lý luận
quá mức có thể dẫn đến tình trạng sách vở, kinh viện, xa rời thực tiễn.
Thứ hai, trí thức là người luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm; ít khi
chịu rập khuôn theo công thức sẵn có. Chính nhờ đặc điểm này mà trí thức
đóng vai trò nhân tố quan trọng thúc đẩy khoa học - công nghệ, văn hóa nghệ thuật, kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ ba, trí thức là người luôn có thói quen lật lại vấn đề. Vì vậy, trí
thức thường hay có ý kiến phản biện. Nhưng ý kiến phản biện, nhất là những
ý kiến quá thẳng thắn, dễ gây phản ứng tiêu cực. Vì vậy, người phản biện
7
cũng cần chọn cách nói, thời điểm nói thích hợp để tính thuyết phục của ý
kiến mình được cao hơn.
Thứ tư, mặc dù hay lật lại vấn đề nhưng khi đã tin điều gì một cách có
căn cứ thì trí thức thường giữ vững lập trường quan điểm của mình.
Thứ năm, trí thức thường có hoài bão vươn lên những đỉnh cao, những
vị trí nổi bật trong xã hội. Cách chúng ta hơn 150 năm, Nguyễn Công Trứ
từng viết:
"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông".
Người trí thức nói chung trọng danh hơn trọng lợi. Nhưng quá trọng
danh có thể dẫn đến hiếu danh. Chuyện chạy đua bằng cấp, danh hiệu, giải
thưởng v.v... mà xã hội phê phán hiện nay cũng là những biểu hiện của thói
hiếu danh.
Thứ sáu, trí thức thường khảng khái, tự trọng. Người xưa đã khái quát
phẩm hạnh này thành nguyên tắc sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất" (nghĩa là: giàu sang không làm hư hỏng, nghèo
khó không khiến đổi lòng, quyền uy không khuất phục nổi). Xã hội trọng vọng
trí thức không chỉ vì trí tuệ của họ mà còn vì phẩm chất cao quý này.
Thứ bảy, trí thức thường cư xử lịch thiệp. Bộc trực khi tỏ bày chính
kiến về những vấn đề lớn, nhưng trong đời sống hằng ngày, người trí thức
thường khiêm tốn, nhún nhường, tránh những va chạm nhỏ, tránh làm mất
lòng người khác. Đây là một phẩm chất đáng quý trong ứng xử của trí thức.
1.1.2. Khái niệm về đội ngũ trí thức
Khái niệm “đội ngũ” được xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ chức
gồm nhiều người tập hợp thành một lực lượng hoàn chỉnh. Ở nước ta, từ các
văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII trở về trước, thuật ngữ “tầng lớp trí thức”
được sử dụng phổ biến.
8
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Nhà Xuất bản Đà Nẵng ấn hành
năm 2009, khái niệm đội ngũ được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, là khối
đông người được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy cũ. Thứ hai,
là tập hợp một số đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp. Như vậy,
đội ngũ có thể được hiểu là tập hợp một số đông người có cùng chức năng,
nhiệm vụ và nghề nghiệp, có sự thống nhất về mặt tổ chức.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: Đội ngũ trí thức là tập hợp những người
lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, thành một
lực lượng đông đảo thống nhất về mặt tổ chức, hành động để cùng nhau thực
hiện mục tiêu đó là tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối
với xã hội một cách có hiệu quả nhất.
Thông thường người ta dùng cụm từ “đội ngũ trí thức” để chỉ tập hợp
những nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, nhà văn,
nhà báo, nghệ sĩ, chuyên gia v.v..., tức là những người có trình độ học vấn và
chuyên môn cao, lao động bằng trí óc trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, có
khả năng sáng tạo ra tri thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn, làm ra của
cải, phục vụ nhu cầu con người và phát triển xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính thực hành của trí thức: “Trí thức
học sách chưa phải là trí thức hoàn toàn, muốn thành một người trí thức hoàn
toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế. Lý luận phải đem ra thực
hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận” [33, tr.235].
Karl Marx nhắc nhở những người trí thức phải đấu tranh cho sự tiến bộ
của xã hội: “Trí thức là những người có đủ tri thức để quan tâm và có chính
kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội, nên họ phải là những người phê bình
không nhân nhượng những gì đang hiện hữu…, không nhân nhượng với chính
quyền, bất cứ chính quyền nào”.
9
Người trí thức phải dũng cảm nói lên ý kiến riêng của mình, đấu tranh
cho tự do, dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội, hạnh phúc của nhân dân. Trí
thức phải trung thực, độc lập, sáng tạo, tự chủ, góp sức mình cho sự nghiệp
phát triển của đất nước, phải có tinh thần phê phán hiện trạng, có tinh thần
dấn thân. Người trí thức cũng là người có tư cách dẫn đường cho văn hóa, cho
học thuật, có trách nhiệm hướng dẫn đời sống tinh thần của xã hội. Nhân loại
ngày càng có nhiều vần đề (kinh tế, văn hóa, xã hội, chủng tộc, tôn giáo, cạn
kiệt tài nguyên, thay đổi khí hậu...) cần sự có mặt và góp sức của trí thức.
Trong thời đại kinh tế tri thức ngày nay xuất hiện khái niệm "công nhân
tri thức" (knowledge worker), đó là những người có trình độ học vấn và
chuyên môn cao, có năng lực sáng tạo, dùng tri thức để tạo ra sản phẩm trí tuệ
(như phần mềm, công nghệ mới, công nghiệp nghệ thuật…) hoặc trí tuệ hóa,
đưa tri thức, công nghệ vào sản phẩm truyền thống làm tăng gấp bội giá trị
của sản phẩm. Ngày nay ở các nước phát triển giá trị do tri thức tạo ra chiếm
quá nửa (khoảng 55%) tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chủ yếu là do công
nhân trí thức tạo ra. Công nhân trí thức khác với công nhân áo trắng ở trình độ
trí thức, khả năng sáng tạo và năng lực biến tri thức thành giá trị. Ở nước ta
ngày nay cũng đã có công nhân trí thức. Theo đà công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế tri thức, số công nhân trí thức sẽ tăng nhanh, họ là công
nhân đã trí thức hóa, họ cũng là trí thức. Có thể coi công nhân tri thức là bộ
phận trùng nhau của hai tập hợp: giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức. Đảng
ta từ sớm đã có chủ trương trí thức hóa công nhân và nông dân, và công nhân
hóa trí thức, điều đó hoàn toàn phù hợp xu thế phát triển của lực lượng sản
xuất, nhờ đó ngày nay nước ta cũng đã có công nhân tri thức, và trong tương
lai khi nước ta hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trở thành nền kinh
tế tri thức thì đội ngũ công nhân tri thức sẽ là lực lượng chủ lực, họ vừa là
công nhân mà cũng là trí thức.
10
Đội ngũ trí thức có ảnh hưởng lớn đến diễn tiến chính trị và thực ra họ
là những người lãnh đạo xã hội, không những thế, họ là những người tạo ra
phần lớn nhất của cải xã hội.
Truyền thống Việt Nam từ xưa đến nay rất coi trọng trí thức. Người
xưa có câu "quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách", nghĩa là: trước sự tồn
vong của đất nước, trí thức có trách nhiệm rất lớn.
Trong thời đại toàn cầu hóa, trí thức việt Nam được học hỏi, hợp tác
giao lưu, đọ sức đua tranh với trí thức các nước; kiến thức và năng lực sẽ
được đánh giá, kiểm định theo những chuẩn mực khắt khe hơn. Đây là cơ hội
tốt cho trí thức nước ta được tiếp thu cách nghĩ, cách làm mới, được dịp nắm
bắt những luồng tư tưởng mới, phát hiện ra nhiều phương hướng mới, nảy
sinh nhiều sáng kiến mới. Đây cũng là thách thức to lớn đối với những ai
không có tư duy độc lập, không có chính kiến, không có bản lĩnh, họ sẽ không
thể đứng vững, thậm chí còn bị tiêm nhiẽm những thói hư tật xấu, mất
phương hướng, và mất cả bản săc văn hóa dân tộc.
Do lịch sử hình thành, đội ngũ trí thức nước ta có nhiều đặc điểm riêng
biệt. Từ ngày lập quốc, trải qua hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống
nhất đất nước, cho đến ngày nay đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội, mặc dù trải qua nhiều biến cố lịch sử, đội ngũ ấy có nhiều biến động,
nhưng nhìn chung, đó là đội ngũ đã được tôi luyện, trải qua nhiều thử thách,
thấm đượm tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, có bản lĩnh, ý chí, quyết
tâm đưa đất nước lên tầm cao mới, sánh vai với các cường quốc.
Trong chiến tranh cũng như trong xây dựng hòa bình, mọi nơi, mọi lúc
đều có những trí thức đem hết tâm huyết và trí tuệ ra phục vụ đất nước, thực
hiện tốt những nhiệm vụ chuyên môn, thúc đẩy phát triển khoa học, giáo dục,
văn hóa…, nghiên cứu giải quyết những vấn đề đang đặt ra, tham gia vào
hoạch định chính sách, chiến lược, phản biện đối với các dự án, các chủ trương
11
chính sách của Đảng và Nhà nước..., nhiều người tận tụy chịu đựng gian khổ
suốt cả đời để có những công trình tác phẩm có ý nghĩa đối với xã hội.
Nhìn chung về đội ngũ thì số lượng đông, phẩm chất tốt, trình độ không
kém các nước xung quanh nhưng chất lượng đội ngũ trí thức nước ta hiệu quả
chưa cao, tiềm năng chất xám chưa được phát huy. Đội ngũ không đồng bộ về
cơ cấu ngành, cơ cấu trình độ, cũng không định hướng và tập trung để hình
thành những thế mạnh của quốc gia; thiếu những người có khả năng chỉ huy
các tập thể lớn, đảm nhận những chương trình, dự án lớn; còn ít những tập
thể, đơn vị, tổ chức thực sự gắn bó nhau vươn lên nhanh; quá ít những công
trình, tác phẩm, những nhà khoa học, nhà văn… nổi tiếng thế giới. Cũng cần
thẳng thắn nhìn nhận một số hạn chế, khuyết điểm của đội ngũ trí thức hiện
nay như: tinh thần tự đào tạo chưa cao, tư duy độc lập và khả năng phản biện
xã hội với tinh thần xây dựng còn thấp, đôi khi còn thiếu tinh thần hợp tác.
Lực lượng trí thức người Việt ở nước ngoài là một bộ phận rất quan
trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong
lịch sử, hiện nay Việt Nam có khoảng gần 3 triệu Việt kiều đang sinh sống ở
90 quốc gia, trong đó có khoảng 80% làm ăn sinh sống tại các nước công
nghiệp phát triển, đặc biệt có khoảng 300. 000 người có trình độ từ đại học trở
lên, nhiều nhà trí thức, khoa học có tên tuổi trên thế giới, nhiều doanh nhân
thành đạt. Đây thực sự là nguồn tài sản quý báu của đất nước, là một bộ phận
của đội ngũ trí thức Việt Nam đang hướng về tổ quốc. Đây là một tiềm năng
chất xám, một kho tri thức mới của các nước tiên tiến, một kênh chuyển giao
tri thức về Việt Nam rất quan trọng.
Đánh giá đúng vai trò của Việt kiều, Đảng và Nhà nước đã có những chủ
trương về chính sách đại đoàn kết dân tộc, gác lại quá khứ hướng tới tương lai,
mà thể hiện đầy đủ nhất trong Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của
Bộ Chính trị về Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
12
Nhiều trí thức Việt kiều đã làm cầu nối để giúp đất nước tiếp thu công
nghệ tiên tiến, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia vào quá
trình toàn cầu hoá. Tuy nhiên, sự đóng góp chất xám, công nghệ của Việt kiều
cho đất nước vẫn còn ở mức khiêm tốn.
Việt kiều góp phần làm cầu nối của đất nước với thế giới, do vậy không
chỉ có các chính sách hướng nội, thu hút đầu tư Việt kiều về nước, mà cần có
những chính sách, biện pháp, khuyến khích giúp cho các cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài phát triển, bám trụ bền vững tại nước sở tại, từ bên
ngoài đóng góp cho đất nước.
Đội ngũ trí thức còn là bộ phận tham gia trực tiếp và chủ yếu vào việc
nâng cao dân trí, phát triển lực lượng sản xuất; trực tiếp nghiên cứu, đề xuất
các luận cứ khoa học cho các quyết sách chính trị nói chung, các quyết sách
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng và cũng là lực lượng trực tiếp bồi
dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nhất là sự góp sức của đội ngũ trí thức giáo dục. Vì thế, Đảng ta luôn coi
“giáo dục là quốc sách hàng đầu” và Đại hội lần thứ IX đã khẳng định: “phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững”. Quan điểm này lại được Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa
XI) khẳng định tại Kết luận số 51-KL/TW về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”.
Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ trí thức ngày càng khẳng định được
vai trò to lớn của mình và được thể hiện những điểm sau:
13
Thứ nhất: Đội ngũ trí thức xây dựng những luận cứ khoa học trong việc
hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của
đất nước và giải đáp những vấn đề phát sinh trong sự nghiệp đổi mới.
Thứ hai: Trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, quyết định trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao
dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Thứ ba: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần thực hiện nội dung
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ tư: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì và phát triển
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu nền văn hóa, văn
minh nhân loại.
Thứ năm: Trí thức là lực lượng hàng đầu đóng vai trò thực hiện tư
vấn giám định xã hội về khoa học và công nghệ để giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Có thể khẳng định, đội ngũ trí thức là lực lượng cơ bản đóng vai trò
then chốt trong việc nghiên cứu, đề xuất và hướng dẫn tổ chức triển khai thực
hiện các đề tài, công trình khoa học và công nghệ, nhằm góp phần vào thành
công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và quá
trình xây dựng nông thôn mới nói riêng.
1.2. Hình thức vận động trí thức
- Vận động trí thức tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước vừa là một chính sách quan trọng, vừa là một nghệ thuật trong
đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Sinh thời, Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng những giá trị truyền thống của dân tộc
và vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin về trí thức trong sự
nghiệp cách mạng của Việt Nam. Với trí tuệ và đạo đức của mình, Người đã
14
thành công trong công tác vận động trí thức, từng bước dẫn dắt trí thức đi vào
con đường cách mạng thông qua sự cảm hoá và những biện pháp vận động
hết sức mềm dẻo, linh hoạt.
Ngày nay, nhân loại đã bước sang giai đoạn toàn cầu hóa với sự phát
triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở
thành nguồn lực quan trọng, tạo nên sức mạnh của mọi quốc gia trong chiến
lược phát triển [15, tr.81].
Qua đó, những quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác vận động trí
thức lại càng có ý nghĩa to lớn đối với công tác quản lí và phát triển đội ngũ
trí thức ở nước ta hiện nay vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”; đồng thời, thực hiện tốt công tác vận động trí thức tham gia
vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng chính là góp phần thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
- Vận động trí thức phát triển kinh tế địa phương: Vận động trí thức
tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, trên những lĩnh vực khác nhau
đòi hỏi những tri thức khác nhau nhằm có sự đầu tư phù hợp và đảm bảo hiệu
quả nhất cho sự phát triển.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới thì việc đầu tư phát triển kinh
tế nông thôn có một vai trò hết sức quan trọng, nó quyết định sự phát triển
kinh tế chung, sự giàu mạnh của đất nước; đồng thời, là cơ sở để ổn định
chính trị - xã hội. Muốn xây dựng được nông thôn với một diện mạo mới, đáp
ứng với yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển xã hội thì việc phát triển kinh
tế nông thôn phải gắn liền với các chủ trương, chính sách, như: lao động nông
thôn, thị trường, cơ sở hạ tầng, khoa học - công nghệ... Điều đó có nghĩa là
phải có sự đầu tư về hàm lượng chất xám, sự chung tay, góp sức của đội ngũ
trí thức tham gia vào quá trình xây dựng và phát triển kinh tế nông thôn. Vận
động trí thức phát triển kinh tế cũng có nghĩa là giúp cấp ủy, chính quyền và
15
nhân dân địa phương phát triển kinh tế - xã hội góp phần xóa đói giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới, đồng thời thông qua hoạt động thực tiễn để đào tạo,
bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ cho địa phương.
- Vận động trí thức hoạt động xã hội - từ thiện, góp phần xây dựng một
xã hội nhân ái, lành mạnh, tạo nền tảng tinh thần cho sự phát triển của xã hội.
Hoạt động từ thiện - xã hội là những hoạt động có ý nghĩa hết sức quan
trọng, thu hút sự tham gia của các tầng lớp trong xã hội và mục tiêu là hướng
đến xây dựng những giá trị văn hóa chuẩn mực trong xã hội.
Trong thời đại ngày nay, để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, không chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động vốn, kỹ thuật, công
nghệ, tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu là khả năng phát huy đến mức cao
nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này
nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự cường và khả
năng hiểu biết, trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá
nhân và của cả cộng đồng. Để văn hóa trở thành động lực thì giải pháp của
mọi giải pháp phải hướng vào giải pháp xây dựng và phát triển nguồn nhân
lực; các chính sách, cơ chế cho phát triển phải hướng vào tạo điều kiện cơ sở
cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo
của con người. Văn hóa trong lãnh đạo, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong
sản xuất, kinh doanh, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa sinh hoạt gia đình và
ngoài xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nói cách khác, hàm
lượng trí tuệ, văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội con người ngày
càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển của đất
nước càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Xác định vai trò quan trọng của yếu tố văn hóa, bộ tiêu chí quốc gia xây
dựng nông thôn mới đã định ra 2 tiêu chí quan trọng về văn hóa: tiêu chí số 6
(cơ sở vật chất văn hóa) và tiêu chí số 16 (thôn, bản đạt làng chuẩn văn hóa).
16
Và đặc biệt, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí
thức giữ vai trò quan trọng [15, tr.49]. Từ đó có thể khẳng định ý nghĩa to lớn
của công tác vận động trí thức tham gia vào các hoạt động xã hội – từ thiện,
góp phần xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văm minh cho nông thôn.
1.3. Cơ quan vận động trí thức
1.3.1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò rất quan
trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó
là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính
trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt,
xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà
là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp. Do vậy, Mặt trận Tổ quốc với chức
năng, nhiệm vụ của mình, có vai trò hết sức quan trọng trong việc vận động
trí thức tham gia vào quá trình xây dựng nông thôn mới.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức lớn mạnh nhất trong hệ thống
chính trị, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm tổ chức chính
trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, các tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai
cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, cộng đồng Việt Nam ở
nước ngoài, có nhiệm vụ thông qua các tổ chức thành viên của mình mà vận
động người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có trí thức kiều bào hướng về
cội nguồn, gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với
chức năng đó, với vai trò giám sát và phản biện xã hội, Mặt trận Tổ quốc có
trách nhiệm góp ý kiến với Đảng và Nhà nước, với Chính phủ về chủ trương,
17
chính sách đối với việc vận động, thu hút, khơi dậy và sử dụng tiềm năng của
trí thức kiều bào, đồng thời thông qua các tổ chức thành viên của mình đưa
các chủ trương, chính sách đó vào cuộc sống. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ
một vai trò quan trọng trong vận động kiều bào nói chung và trí thức kiều bào
nói riêng.
Nói thêm về vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong những năm
qua, Mặt trận Tổ quốc đã và đang kế thừa, phát huy truyền thống vẻ vang của
Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, góp phần to lớn tạo nên sự đồng thuận
trong các tầng lớp nhân dân. Ðặc biệt, các phong trào, cuộc vận động về đoàn
kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, lá
lành đùm lá rách, các hoạt động tự quản ở cộng đồng dân cư... có tác dụng
thiết thực, tạo nên sự gắn kết cộng đồng, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
được các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các tổ chức thành viên triển
khai thực hiện sâu rộng, đã làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của
Người thấm vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy việc xây dựng
và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết ngay tại cơ sở và địa bàn dân cư.
Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh triển khai cuộc vận động “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới và Phong trào cả nước chung sức xây dựng
nông thôn mới (theo Hướng dẫn số 70/HD-MTTW-BTT, ngày 20/8/2012 của
Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) với những
cách làm sáng tạo, thiết thực, hiệu quả, cùng với công tác vận động, tập hợp
các tầng lớp nhân dân cùng tham gia, trong đó có đội ngũ trí thức, góp phần
rất lớn trong quá trình xây dựng nông thôn mới.
Cùng với Mặt trận Trung ương là Mặt trận các cấp địa phương đều có
vai trò nhất định trong vận động trí thức tại địa phương.
18
Đặc biệt, các tổ chức thành viên ở Trung ương như Tổng Liên đoàn
Lao động thực hiện vận động trí thức vào hoạt động lao động sáng tạo; Các
hiệp hội doanh nghiệp (Phòng Thương mại - công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội
doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam...) vận động trí thức tham gia phát triển
doanh nghiệp; Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội thân nhân người
Việt ở nước ngoài.. vận động trí thức là người Việt ở nước ngoài...
1.3.2. Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (gọi tắt là Liên hiệp
Hội) là tổ chức chính trị - xã hội của trí thức khoa học và công nghệ, cùng
với các đoàn thể chính trị - xã hội khác tạo thành lực lượng nòng cốt trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm qua, Liên hiệp các hội Khoa học - Kỹ thuật đã phát
triển nhanh chóng về tổ chức và đã có những đóng góp tích cực vào đời sống
chính trị, xã hội của đất nước: phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức trong việc
tham gia chuẩn bị các văn kiện, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước; trong việc
khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, phổ
biến kiến thức khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong việc tư vấn, phản biện,
giám định xã hội về khoa học - công nghệ và kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển và hoạt động, Liên hiệp Hội và các
hội thành viên cũng còn một số thiếu sót cần được khắc phục. Liên hiệp Hội
và các hội thành viên còn chưa huy động được sức mạnh trí tuệ của đông đảo
trí thức trong nước và trí thức người Việt ở nước ngoài vào công cuộc xây
dựng đất nước. Một số hội thành viên còn lúng túng về nội dung, về phương
thức hoạt động. Nhà nước còn thiếu cơ chế, chính sách hỗ trợ tích cực cho
hoạt động của Liên hiệp Hội và các hội thành viên.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới đang đặt ra nhiều vấn đề bất
cập, đó là cách làm, phương pháp làm. Và qua đó, càng khẳng định vai trò
19