Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đánh giá thực trạng công tác dồn điền, đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.45 MB, 105 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM






NGUYỄN THU HOÀI



ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DỒN ĐIỀN,
ĐỔI THỬA TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TẠI HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH



CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
MÃ SỐ : 60.85.01.03



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO VIỆT HÀ



HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp


Page i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc./.

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Nguyễn Thu Hoài








Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bản luận văn này, tôi đã nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận
tình của:
- PGS.TS. Cao Việt Hà, Phó trưởng khoa Quản lý đất đai - Học viện Nông

nghiệp Việt Nam – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện
đề tài;
- Các thầy, cô giáo khoa Quản lý đất đai, Ban Đào tạo-Học viện Nông nghiệp
Việt Nam;
- Phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng Nông nghiệp, phòng Thống kê
huyện Kiến Xương; các phòng, ban và UBND các xã, thị trấn thuộc huyện Kiến
Xương; Sở Tài nguyên và Môi trường Thái Bình và các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cá nhân, tập thể và cơ quan nêu trên đã giúp
đỡ, khích lệ và tạo những điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình thực hiện luận
văn.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Nguyễn Thu Hoài


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iii

MỤC LỤC

Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các từ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục hình viii

MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài. 1
2 Mục đích, yêu cầu của đề tài. 2
2.1 Mục đích. 2
2.2 Yêu cầu. 2
3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
3.1.Ý nghĩa khoa học 2
3.2 Ý nghĩa thực tiễn 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Cơ sở lý luận của công tác dồn điền đổi thửa. 3
1.1.1 Vấn đề manh mún đất đai ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp 3
1.1.2 Nhu cầu tích tụ và tập trung ruộng đất. 4
1.1.3 Những kinh nghiệm về tích tụ và tập trung ruộng đất của một số nước
trên thế giới 5
1.1.4 Một số nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau DĐĐT 10
1.2 Tổng quan về DĐĐT. 11
1.2.1 Khái niệm về công tác dồn điền đổi thửa. 11
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 12
1.2.3 Tình hình nghiên cứu DĐĐT ở Việt Nam 14
1.2.4 Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh miền Bắc. 16
1.3 Cơ sở pháp lý của công tác DĐĐT 18
1.4 Cơ sở thực tiễn của công tác dồn điền đổi thửa 19
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

1.5 Các yếu tố có ảnh hưởng chi phối đến công tác dồn điền đổi thửa 22
1.6 Tình hình xây dựng nông thôn mới tại tỉnh Thái Bình 22
1.6.1 Mục đích xây dựng mô hình nông thôn mới 23
1.6.2 Yêu cầu xây dựng mô hình nông thôn mới 23
1.6.3 Nguyên tắc thực hiện 23

1.6.4 Nội dung xây dựng mô hình nông thôn mới 24
1.7 Tình hình DĐĐT thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới tại
tỉnh Thái Bình 25
1.7.1 Mục đích DĐĐT 26
1.7.2 Yêu cầu của DĐĐT 26
1.7.3 Nguyên tắc DĐĐT 27
1.7.4 Trình tự thực hiện DĐĐT tại Thái Bình 28
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 31
2.1 Đối tượng nghiên cứu 31
2.2 Phạm vi nghiên cứu 31
2.3 Nội dung nghiên cứu 31
2.3.1 Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình 31
2.3.2 Biến động sử dụng đất trong giai đoạn xây dựng nông thôn mới
2010-2013 31
2.3.3 Thực trạng công tác dồn điền, đổi thửa ở huyện Kiến Xương 31
2.3.4 Đề xuất các giải pháp hợp lý và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả công tác dồn điền, đổi thửa trên địa bàn tỉnh Thái Bình. 31
2.4 Phương pháp nghiên cứu 31
2.4.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 31
2.4.2 Phương pháp điều tra khảo sát thu thập số liệu thứ cấp: 32
2.4.3 Phương pháp phỏng vấn nông hộ: 32
2.4.4 Phương pháp tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường. 33
2.4.5 Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: 35
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 36
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình 36
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 36

3.1.2 Các nguồn tài nguyên 39
3.1.3 Tình hình phát triển kinh tế – xã hội. 42
3.1.4 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 51
3.2 Biến động sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điển đổi thửa. 52
3.3 Thực trạng công tác dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp phục vụ xây
dựng nông thôn mới tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. 54
3.3.1 Căn cứ pháp lý về dồn điền đổi thửa của huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái bình 54
3.3.2 Quy trình tổ chức thực hiện. 56
3.3.3 Quá trình tổ chức thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa của huyện
Kiến Xương. 57
3.3.4 Hiệu quả sử dụng đất sau dồn điền, đổi thửa 58
3.3.5 Ý kiến nông hộ được phỏng vấn đối với việc DĐĐT 69
3.4 Đánh giá chung về kết quả đạt được sau công tác DĐĐT 72
3.4.1 Những mặt đạt được 72
3.4.2 Những mặt hạn chế 80
3.5 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dồn điền
đổi thửa tỉnh Thái Bình. 80
3.5.1 Nhận xét chung về công tác dồn điền, đổi thửa 80
3.5.2 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác DĐĐT 83
3.5.3 Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất sau DĐĐT 89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 92
1 Kết luận 92
2 Kiến nghị 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BCH Ban chấp Hành
CĐRĐ Chuyển đổi ruộng đất
CPSX Chi phí trung gian
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DĐĐT Dồn điền đổi thửa
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
HĐND Hội đồng nhân dân
KHKTNN Khoa học kĩ thuật nông nghiệp
KHKT Khoa học kĩ thuật
KT-XH Kinh tế – xã hội
MTTQ Mặt trận tổ quốc
NTM Nông thôn mới
NTTS Nuôi trồng thủy sản
QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất
UBND Ủy ban nhân dân





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG


STT Tên bảng Trang


1.1 Tình hình tích tụ ruộng đất của các trang trại ở một số nước Âu, Mỹ 6
1.2 Tình hình tích tụ ruộng đất ở một số nước Châu Á 7
1.3 Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước 14
3.1 Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội huyện Kiến Xương giai
đoạn 2007- 2013 43
3.2 Kết quả sản xuất ngành nông nghiệp huyện Kiến Xương giai đoạn
2007-2013 46
3.3 Biến động sử dụng đất nông nghiệp giai đoạn thực hiện dồn điển đổi
thửa 2010-2013 53
3.4 Kết quả DĐĐT tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. 58
3.5 Tổng hợp diện tích giao thông, thủy lợi nội đồng huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái Bình. 60
3.6 Hiệu quả kinh tế một số loại hình sử dụng đất chủ yếu trên địa bàn
huyện Kiến Xương 63
3.7 Số trang trại sản xuất nông nghiệp sau DĐĐT ở huyện Kiến Xương 65
3.8 Ý kiến của nông hộ được phỏng vấn đối với việc DĐĐT 70
3.9 Diện tích đất công ích trước và sau DĐĐT tại một số xã của huyện
Kiến Xương 73
3.10 Giá thầu đất công ích trước và sau DĐĐT tại các xã nghiên cứu đại diện 73
3.11 Quyết định đầu tư máy móc sau khi dồn điền đổi thửa 76
3.12 Tác động về mức cơ giới hoá sau đồn điền đổi thửa 77
3.13 Mức thu nhập bình quân của các loại hộ trước và sau DĐĐT
tại huyện Kiến Xương 79
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC HÌNH

TT


Tên hình Trang
3.1

Cơ cấu các ngành kinh tế huyện Kiến Xương giai đoạn 2007- 2013
43
3.2

Bê tông hóa giao thông nội đồng sau dồn điền, đổi thửa ở xã Vũ
Ninh, huyện Kiến Xương
61
3.3

Đồng ruộng sau khi thực hiện dồn điền, đổi thửa ở xã Bình
Nguyên, huyện Kiến Xương
62
3.4

Trang trại chăn nuôi lợn ở xã Bình Định, huyện Kiến Xương
65
3.5

Trang trại chăn nuôi ở xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương
66
3.6

Trang trại lúa - cá - vịt ở xã Bình Nguyên
66
3.7


Sau dồn điền, đổi thửa cơ giới hóa được đưa vào phục vụ sản xuất
76
3.8

Mức thu nhập bình quân của các hộ trước và sau DĐĐT tại huyện
Kiến Xương
80





Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng nền tảng cho sự sống và mọi hoạt
động sản xuất của con người đều bắt nguồn từ đất đai. Đất đai là yếu tố cấu thành
nên lãnh thổ của mỗi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, đất đai cung cấp nguồn
nước cho sự sống, cung cấp nguồn nguyên liệu và khoáng sản, là không gian của sự
sống đồng thời bảo tồn sự sống. Đất đai là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các
công trình văn hóa, an ninh quốc phòng.
Thời gian qua trong công cuộc cải cách kinh tế nông nghiệp, nông thôn, Đảng
và nhà nước ta luôn có những chính sách mới về đất đai nhằm thúc đẩy nền nông
nghiệp phát triển, điển hình là luật Đất đai năm 1993, theo đó đất đai được giao đến
tận tay người nông dân. Với chính sách mới về quyền sử dụng đất đã làm thay đổi
mối quan hệ sản xuất ở nông thôn, người nông dân thực sự trở thành người chủ mảnh
đất của mình, đó là động lực cho sự phát triển vượt bậc của nền nông nghiệp.

Nhưng thực tế, khi chia ruộng đất cho nông dân theo Nghị định 64/NĐ-CP
ngày 27/9/1993 của Chính phủ, chúng ta đã thực hiện phương châm công bằng,
ruộng tốt cũng như xấu, xa cũng như gần đều được chia đều tính trên nhân khẩu
nông nghiệp, dẫn đến tình trạng ruộng đất bị phân tán, manh mún không đáp ứng
được nhu cầu phát triển của nền nông nghiệp thời kỳ đổi mới.
Thực hiện kế hoạch triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 của Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục
tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, Thái Bình được chọn là 1 trong 5 điểm trong
toàn quốc để thực hiện xây dựng nông thôn mới. Trước thực trạng ruộng đất hiện
nay vẫn còn manh mún, phân tán, không đáp ứng yêu cầu của quy hoạch xây dựng
nông thôn mới; ngày 31/12/2008 Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thái Bình đã có Thông
báo số 442-TB/TU về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 07-NQ/TU của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh khoá XVI về dồn điền, đổi thửa nông nghiệp nhằm hoàn thiện xây
dựng hệ thống giao thông, mương máng nội đồng; hình thành các vùng sản xuất
hàng hoá tập trung phù hợp với điều kiện đất đai, lợi thế canh tác từng địa phương;
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

đáp ứng được yêu cầu quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
Từ thực tế trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá thực trạng
công tác dồn điền, đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình" với mong muốn làm rõ hơn hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp của việc dồn điền, đổi thửa nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; phấn đấu đưa Thái Bình thành tỉnh nông
thôn mới vào năm 2020.
2. Mục đích, yêu cầu của đề tài.
2.1. Mục đích.
Đánh giá thực trạng công tác dồn điền đổi thửa phục vụ quy hoạch xây dựng
nông thôn mới tại huyện Kiến Xương của tỉnh Thái Bình
Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy nhanh công tác dồn điền đổi thửa ở các

xã khác trong tỉnh.
2.2. Yêu cầu.
- Nghiên cứu đánh giá các điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội tác
động đến quá trình sử dụng đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh Thái Bình;
- Làm rõ quá trình thực hiện và kết quả đạt được của công tác dồn điền, đổi
thửa đất nông nghiệp phục vụ quy hoạch nông thôn mới; hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp sau khi thực hiện công tác dồn điền, đổi thửa tại huyện Kiến Xương tỉnh
Thái Bình;
- Đề xuất các giải pháp hợp lý và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả
công tác dồn điền đổi thửa trên địa bàn tỉnh Thái Bình;
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1.Ý nghĩa khoa học
Góp phần xây dựng cơ sở lý luận và hoàn thiện quy trình DĐĐT phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và quy hoạch xây dựng NTM trên địa
bàn tỉnh Thái Bình.
3.2.Ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
sản xuất nông nghiệp sau công tác DĐĐT.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cơ sở lý luận của công tác dồn điền đổi thửa.
1.1.1. Vấn đề manh mún đất đai ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp
Ở Việt Nam, khái niệm manh mún ruộng đất xuất hiện từ khi phân chia
ruộng đất cho hộ nông dân theo Nghị định số 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính
phủ về giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản
xuất nông nghiệp.

Khái niệm manh mún ruộng đất được hiểu trên hai khía cạnh sau đây:
Một là, sự manh mún về mặt ô thửa, trong đó một đơn vị sản xuất (thường là
nông hộ) có quá nhiều mảnh ruộng với kích thước quá nhỏ và bị phân tán ở nhiều
xứ đồng;
Hai là, sự manh mún thể hiện trên quy mô đất đai của các đơn vị sản xuất, số
lượng ruộng đất quá nhỏ không tương thích với số lượng lao động và các yếu tố sản
xuất khác.
Cả hai kiểu manh mún trên đều dẫn đến tình trạng là hiệu quả sản xuất thấp,
hạn chế khả năng đổi mới và ứng dụng các tiến bộ KHKT, nhất là vấn đề cơ giới
hoá, thuỷ lợi hoá trong nông nghiệp, dẫn đến việc sử dụng đất kém hiệu quả, làm
cản trở bước tiến của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vì thế người ta
luôn tìm cách khắc phục tình trạng này.
Manh mún ruộng đất xảy ra ở nhiều nơi, nhiều nước khác nhau trên thế giới
và ở nhiều thời kỳ của lịch sử phát triển. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này rất đa
dạng, có thể là do đặc điểm phân bố địa lý, sức ép dân số, nhưng cũng có thể là do
ý thức của con người như tính chất tiểu nông của nền sản xuất kém phát triển, đặc
điểm tâm lý của cộng đồng dân cư nông thôn, hệ quả của chính sách đất đai, kinh tế,
xã hội hay sự quản lý lỏng lẻo kém hiệu quả
Tình trạng manh mún ruộng đất là một trong những nhược điểm của nền
nông nghiệp nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển và được coi là một trong
những rào cản của phát triển sản xuất hàng hoá trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

trồng trọt, vì vậy rất nhiều nước đã và đang thực hiện chính sách khuyến khích tập
trung đất đai. Việt Nam cũng đang thực hiện chính sách này trong mấy năm gần
đây. Dưới quan điểm kinh tế nếu manh mún ruộng đất làm cho lao động và các
nguồn lực khác phải chi phí nhiều hơn thì việc giảm mức độ manh mún ruộng đất sẽ
tạo điều kiện để các nguồn lực này được sử dụng ở các ngành khác hiệu quả hơn.
Như vậy, trên tổng thể nền kinh tế sẽ mang lại lợi ích khi ta giảm mức độ manh

mún ruộng đất.(Đỗ Kim Chung,2001)
1.1.2. Nhu cầu tích tụ và tập trung ruộng đất.
a) Xu hướng tích tụ và tập trung ruộng đất trong nền kinh tế thị trường.
Theo quy luật chung của sự phát triển sản xuất sẽ diễn ra quá trình tích tụ,
tập trung và quá trình hợp tác, liên kết trong quá trình sản xuất, chế biến, tiêu thụ
nông sản. Quá trình tích tụ, tập trung và xã hội hóa trong sản xuất nông nghiệp tát
yếu sẽ diễn ra theo hai hướng: tập thể hóa ruộng đất và tư liệu sản xuất và từng
bước tích tụ và tập trung ruộng đất gắn với phân công lao động trong nông thôn,
nông nghiệp trên cơ sở phát triển kinh tế hộ gia đình.
b) Nhu cầu tích tụ ruộng đất để phát triển hàng hóa quy mô lớn
Tích tụ và tập trung ruộng đất là một yêu cầu đặt ra trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của các nước. Sau hơn 20 năm đổi mới nhất là từ khi
Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nền kinh tế nói chung và nền
nông nghiệp Việt Nam nói riêng đã hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới . Sự hội
nhập đã tạo ra nhiều cơ hội mới để phát triển, song cũng nảy sinh thách thức mới
cần phải giải quyết để tồn tại và phát triển như vấn đề kỹ thuật, tổ chức sản xuất,
hàng rào thuế quan và các vấn đề như:
- Không thể chấp nhận một nền sản xuất nông nghiệp manh mún trong khi
cả nước tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường.
- Không thể xây dựng thương hiệu nông sản quốc gia nếu mỗi tỉnh, mỗi hộ
nông dân tiếp tục tự túc, tự cấp trên mảnh đất nhỏ bé của mình.
- Sự cần thiết phải có diện tích rộng lớn liền vùng, liền khoảnh để sản xuất hàng
hóa. Nếu như cứ để ruộng đất như hiện nay thì không bao giờ có sản xuất hàng hóa.
Mà không có vùng sản xuất hàng hóa thì không bao giờ có tiêu thụ theo hợp đồng .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

- Ruộng đất được tích tụ, tập trung sẽ khuyến khích nông dân, các nhà đầu tư
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Một khi các nhà đầu tư nông nghiệp
có thể tích tụ, tập trung ruộng đất ở quy mô thích hợp, đóng ghóp của họ sẽ không

thể chỉ thay đổi cung cách sản xuất manh mún mà còn tạo ra những đổi mới thật sự
ở nông thôn.
Tập trung ruộng đất của các trang trại quy mô nhỏ thành những trang trại quy
mô lớn, tạo điều kiện để áp dụng KHKT tiên tiến vào sản xuất, thâm canh tăng năng
suất sinh học, năng suất lao động, tăng khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa,
giảm chi phí trung gian và giá thành nông sản. Vì vậy, việc tích tụ ruộng đất trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp hầu như đã trở thành quy luật, diễn ra ở nhiều
nước trên thế giới. Từ những ô thửa nhỏ trở thành cánh đồng lớn, máy móc cơ giới
tha hồ xoay chuyển, ruộng đồng ngày càng được cải tạo, công cuộc dồn điền, đổi
thửa đã làm thay đổi diện mạo bộ mặt nông nghiệp, nông thôn
c) Tích tụ tập trung để tạo dựng quyền sử dụng đất nông nghiệp.
Hiện nay việc cấp GCNQSDĐ đã hoàn thành cơ bản. Thị trường quyền sử
dụng đất trong nông nghiệp nông thôn là một thị trường tiềm năng. Tuy nhiên chưa
được phát triển.
Theo một kết quả điều tra nghiên cứu về thị trường quyền sử dụng đất nông
nghiệp: Các hộ gia đình, cá nhân có xu hướng giữ đất để sản xuất, bình quân số hộ
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thuê quyền sử dụng đất chỉ chiếm 1-2%. Việc
thế chấp quyền sử dụng đất diễn ra khá phổ biến chủ yếu là để đầu tư vào nông
nghiệp và các nhu cầu bức xúc của đời sống. (Đỗ Kim Chung,2001)
1.1.3. Những kinh nghiệm về tích tụ và tập trung ruộng đất của một số nước trên
thế giới
Tích tụ và tập trung ruộng đất là một yêu cầu đặt ra trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn của các nước. Tập trung ruộng đất của các trang trại
quy mô nhỏ thành những trang trại quy mô lớn, tạo điều kiện để áp dụng KHKT
tiên tiến vào sản xuất, thâm canh tăng năng suất sinh học, năng suất lao động, tăng
khối lượng và tỷ suất nông sản hàng hóa, giảm chi phí trung gian và giá thành nông
sản. Vì vậy, việc tích tụ ruộng đất trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp hầu như
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6


đã trở thành quy luật, diễn ra ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, chủ trương,
biện pháp và mức độ tích tụ ruộng đất ở mỗi quốc gia không giống nhau. (Nguyễn
Điền, 2001)
1.1.3.1. Tích tụ ruộng đất ở một số nước
Ở các nước Âu, Mỹ bình quân ruộng đất trên đầu người khá cao, tốc độ đô
thị hóa nhanh, nhu cầu lao động cho công nghiệp nhiều, chính quyền khuyến khích
việc đẩy nhanh tốc độ tích tụ ruộng đất, mở rộng quy mô trang trại bằng các chính
sách và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích sản xuất kinh doanh của các trang trại
lớn. Tuy nhiên, để tránh tích tụ ruộng đất vượt hạn mức trong từng địa phương, một
số nước như Anh, Pháp có biện pháp quản lý thông qua Hội đồng quy hoạch đất đai
của từng tỉnh, huyện, với Hội đồng quản trị gồm những đại diện nông dân địa
phương, những chuyên viên ruộng đất và hai ủy viên của Chính phủ (thuộc Bộ
Nông nghiệp và Bộ Tài chính). Hội đồng này mua đất trên thị trường tạo ra quỹ đất
dự trữ và bán lại công khai cho các hộ nông dân theo giá thị trường.
Ở Pháp, tuy không đề ra các hạn mức cụ thể, nhưng để đề phòng tích tụ
ruộng đất quá mức, Nhà nước đã có biện pháp can thiệp vào thị trường ruộng đất,
thông qua Hội đồng quy hoạch ruộng đất địa phương để mua bán đất của nông dân,
lập quỹ đất dự trữ, điều tiết thị trường bất động sản. (Nguyễn Điền, 2001)
Bảng 1.1. Tình hình tích tụ ruộng đất của các trang trại ở một số nước Âu, Mỹ
Tên nước
Quy mô trang trại (ha)
Năm 1950 Năm 1970 Năm 1990
Mỹ 86,00 151,00 185,00
Anh 36,00 55,00 75,00
Pháp 14,00 23,00 29,00
Nguồn: Nguyễn Điền, 2001
1.1.3.2.Tích tụ ruộng đất ở một số nước Châu Á.
a) Ở Nhật Bản
Các nước thuộc Châu Á bình quân ruộng đất thấp, quy mô trang trại nhỏ nên
việc tích tụ ruộng đất không dễ dàng như các nước Âu, Mỹ. Ngay ở Nhật Bản là

một nước có trình độ công nghiệp hóa cao trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có tình
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

trạng như vậy.
Ở Nhật Bản, sau cải cách ruộng đất năm 1950, chủ trương hạn chế việc bán
ruộng đất đã gây trở ngại cho việc tích tụ ruộng đất. Về sau đã thay đổi chủ trương này
nhưng việc tích tụ ruộng đất cũng chậm chạp. Tuy nhiên, hạn chế việc chia nhỏ quy mô
ruộng đất của các hộ nông dân. Một hộ có nhiều con, theo tập quán chỉ có người con
trai trưởng mới có nhiệm vụ tiếp tục ở nông thôn làm ruộng và chăm sóc cha mẹ, còn
các con khác phải đi làm nghề khác, không chia ruộng cho tất cả các con.
Bảng 1.2. Tình hình tích tụ ruộng đất ở một số nước Châu Á
Tên nước
Quy mô trang trại (ha)
Năm 1950 Năm 1970 Năm 1990
Nhật Bản 0,80 1,10 1,40
Đài Loan 1,12 0,83 1,21
Hàn Quốc 0,86 0,94 1,20
Thái Lan 3,50 3,56 4,52
Nguồn: Nguyễn Điền, 2001
b) Ở Trung Quốc.
Từ thời kỳ phong kiến đến nay, quyền sở hữu ruộng đất luôn là yếu tố trung
tâm trong mối quan hệ với chính quyền và nông dân Trung Quốc. Hiến pháp Trung
Quốc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý; nông
dân chỉ có quyền sử dụng đất nông nghiệp theo hợp đồng là 30 năm. Quyền sử dụng
đất thuộc sở hữu tập thể, nông dân không được quyền chuyển nhượng, cho thuê vào
mục đích phi nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là chính quyền địa phương có thể thu
hồi đất bất cứ lúc nào. Công nghiệp hóa và đô thị hóa trong 30 năm qua đã làm cho
hàng chục triệu nông dân bị mất đất canh tác. Những cuộc biểu tình phản đối của
nông dân bị mất đất là nguyên nhân chính gây bất ổn xã hội ở Trung Quốc hiện nay.

Một thực tế là ruộng đất ở Trung Quốc rất manh mún, mỗi hộ nông dân chỉ
sử dụng một khoảnh đất nhỏ, bình quân 0,67 ha/hộ. Những nông dân này ra thành
phố kiếm việc làm đã lên tới con số 200 triệu người trong những năm qua – phải
nhờ người thân canh tác những thửa ruộng đó. Quá trình cải cách nông nghiệp chia
làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ năm 1978 - 1984 và giai đoạn 2 từ năm 1985 – 1990
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

sau đó đề ra phương hướng phát triển nông nghiệp nông thôn cho thập kỷ 90. Cách
thực hiện cải cách nông nghiệp của nước này trong những năm qua là khoán ruộng
đất cho những nông hộ theo nguyên tắc: Thứ nhất, tôn trọng nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, không được áp đặt. Hai là phải đảm bảo nguyên tắc số lượng và
giá trị ngang bằng (Nghĩa là những thửa ruộng có cũng cấp độ hoặc đã được cải tạo
nâng độ màu mỡ thì khi điều chỉnh phải quy đổi theo hệ số để đền bù về mặt kinh
tế). Chỉ thị số 18 năm 1900 của Trung Quốc quy định “Ổn định quan hệ ruộng đất
nhận khoán không có nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về mảnh ruộng và
số lượng mảnh ruộng khoán, những thửa ruộng quá phân tán, không tiện cho việc
canh tác thì có thể căn cứ nguyện vọng quần chúng mà điều chỉnh.
Theo xu hướng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đặc biệt là trong nông
nghiệp, Trung Quốc đang tiến hành chủ trương dồn điền đổi thửa. Nước này dự
kiến sẽ tăng lên 1,7 triệu hà đất trồng trọt tỉnh tới năm 2020 thông qua việc DĐĐT
hiện nay. Công tác tăng cường hiệu quả trong nông nghiệp đang được chính phủ
Trung Quốc quan tâm chặt chẽ trong thời gian gần đây, do một diện tích đất lớn đã
bị đô thị hóa, chuyển đổi mục đích sử dụng trong những năm công nghiệp hóa.
Hiện nay Trung Quốc vẫn tiếp tục chuẩn bị ra dự thảo cải cách ruộng đất
theo hướng tự do hóa thị trường và hạn điền sử dụng đất canh tác cho nông dân từ
30 năm hiện nay lên 70 năm như với đất ở. Điều này sẽ tạo động lực mới cho công
cuộc tích tụ ruộng đất phát huy hiệu quả cao. ( Nguyễn Điền, 2001)
c) Ở Đài Loan
Sau năm 1949 dân số tăng đột ngột do sự di dân từ lục địa ra. Lúc đầu chính

quyền Tưởng Giới Thạch thực hiện cải cách ruộng đất theo nguyên tắc phân phối
đồng đều cho nông dân. Ruộng đất được trưng thu, tịch thu, mua lại của các địa chủ
rồi bán chịu, bán trả dần cho nông dân, tạo điều kiện ra đời các trang trại gia đình.
Năm 1953, ở Đài Loan đã có đến 679.000 trang trại với quy mô bình quân là 1,29
ha/trang trại; đến năm 1991 số trang trại đã lên đến 823.256 với quy mô bình quân
chỉ còn 1,08 ha/trang trại. Tuy nhiên, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
sau này đòi hỏi phải mở rộng quy mô của các trang trại gia đình nhằm ứng dụng
tiến bộ KHKT, giảm CPSX, hạ giá thành sản phẩm, nhưng do người Đài Loan coi
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

ruộng đất là tiêu chí đánh giá vị trí của họ trong xã hội nên mặc dù có thị trường
nhưng ruộng đất vẫn không được tích tụ. Để giải quyết tình trạng này, năm 1983
Đài Loan công bố Luật Phát triển nông nghiệp, trong đó công nhận phương thức
sản xuất ủy thác của các hộ nông dân, có nghĩa là Nhà nước công nhận việc
chuyển quyền sở hữu đất đai. Ngoài ra, để mở rộng quy mô, các trang trại trong
cùng thôn xóm hợp tác với nhau ở một số khâu như làm đất, mua bán chung một
số vật tư, nông sản, nhưng không chấp nhận phương thức tập trung ruộng đất, lao
động để sản xuất.(Tạ Đình Thi, 2007)
Vấn đề hạn điền ở một số nước được đặt ra chủ yếu là trong thời kỳ cải cách
ruộng đất, quy định hạn mức ruộng đất của những người có nhiều ruộng được giữ
lại, vượt quá hạn mức Nhà nước sẽ trưng mua để bán lại cho nông dân thiếu đất như
ở Nhật Bản và Đài Loan. Đến thời kỳ công nghiệp hóa phát triển thì vấn đề hạn điền
thường không cần đặt ra.
Theo Macheal Lipton (2002), nền nông nghiệp của các nước đang phát triển
ở Châu Á được đặc trưng bởi các yếu tố sau đây:
+ Tỷ lệ lao động nông nghiệp, nông thôn khá lớn và dư thừa;
+ Nền nông nghiệp thâm canh sản xuất lương thực, đặc biệt là trồng lúa nước
chủ yếu dựa vào đầu tư lao động của nông hộ với quy mô nhỏ;
+ Sự tăng tưởng của khu vực nông nghiệp có tính chất quyết định đến tăng

trưởng kinh tế nông thôn.
Để xóa đói giảm nghèo cần tạo thêm công ăn việc làm cho lực lượng lao
động nông thôn. Thành quả của những cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại công ăn
việc làm và tạo điều kiện cho các nông hộ phát triển kinh tế. Nhưng nếu việc tập
trung ruộng đất, phát triển trang trại không hợp lý thì có nguy cơ làm tăng thất
nghiệp, do đó tích tụ ruộng đất phải đi đôi với giải quyết việc làm cho những người
đã cho thuê hoặc bán ruộng đất cho người khác. Việc làm ở đây bao gồm các công
việc ngay trong lĩnh vực nông nghiệp như làm thuê cho các trang trại (kể cả làm
thuê cho chính người mình cho thuê ruộng đất). Tuy nhiên chủ yếu vẫn là tạo việc
làm ngoài nông nghiệp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

1.1.4. Một số nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau DĐĐT
Thực tế nhiều năm qua, việc thực hiện chính sách đất đai nhất là những năm
đổi mới về công tác quản lý và sử dụng đất đai đã có nhiều đề tài, dự án nghiên cứu
về chính sách đất đai. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã đi sâu đánh
giá hiệu quả tác động của chính sách đất đai đến quá trình sử dụng đất, và mức độ
phù hợp của luật đất đai trong từng giai đoạn phát triển KT - XH của đất nước. Từ
đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hơn các chính sách về đất đai, cụ thể:
- Báo cáo tóm tắt đề tài khoa học "Điều tra và đánh giá hệ thống chính sách đất
đai được áp dụng hiện nay đối với các ngành và địa phương". Trong đề tài đã đề cập
đến vấn đề các quyền của người sử dụng đất, trong đó có quyền chuyển đổi đã đưa ra
nhận định "CĐRĐ diễn ra mạnh mẽ ở nhiều địa phương như: Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh
Phúc ", về nguyên nhân là do đất đai manh mún sử dụng không thuận tiện.
- Nghiên cứu của Chu Văn Thỉnh về "đánh giá tình hình quản lý và chính
sách đất đai qua các thời kỳ (Từ năm 1970 đến nay), với định hướng quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2010". Trong đề tài đã đề cập đến các vấn đề về thực hiện
bẩy nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai, các nội dung được đánh giá chi
tiết, cụ thể.

- Hội nghị chuyên đề về "CĐRĐ nông nghiệp, khắc phục tình trạng phân tán,
manh mún trong sản xuất" do Tổng cục Địa chính chủ trì năm 1998. Trong hội nghị, các
tỉnh đưa ra nhiều phương án chuyển đổi, nhiều ý kiến đóng góp thiết thực và những bài
học kinh nghiệm thực tế khi tiến hành làm điểm CĐRĐ.
- Nghiên cứu của Vũ Thị Bình, Quyền Đình Hà, năm 2006 về "Thực trạng công
tác CĐRĐ và hiệu quả sử dụng đất của nông dân vùng đồng bằng sông Hồng".
Các nội dung nghiên cứu đã đưa ra nhận định: Việc CĐRĐ tiết kiệm được
CPSX và thay đổi tập quán canh tác của nông hộ góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Đồng thời CĐRĐ còn tạo nền móng cho một bước phát triển mới trong
nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
- Nhóm nghiên cứu của trường Đại học nông lâm Thái Nguyên đã nghiên
cứu đề tài "Kết quả của công tác DĐĐT ở một số tỉnh miền Bắc - Đề xuất các bước
cần làm trong DĐĐT cho vùng trung du và miền núi". Trên cơ sở nghiên cứu công
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

tác dồn đổi ruộng đất ở một số tỉnh, đề tài đã đưa ra một số nhận xét về kết quả đạt
được, những khó khăn, tồn tại, các bước thực hiện trong công tác DĐĐT ở một số
tỉnh miền Bắc.
Các công trình nghiên cứu, ứng dụng của các Nhà khoa học đã khẳng định sự
đổi mới về chính sách đất đai đã mang lại sự thành công bước đầu trong lĩnh vực
quản lý và sử dụng đất. Các tỉnh đều đã đề ra chủ trương CĐRĐ là phù hợp với
nguyện vọng của nông dân, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Những kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Sau CĐRĐ những lợi ích mang lại
là rất lớn, không chỉ đối với Nhà nước, xã hội mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho
người nông dân. Nó góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra những bước ngoặt mới
cho nền nông nghiệp phát triển trình độ sản xuất hàng hoá cao. Tuy nhiên CĐRĐ
trong nông nghiệp cũng đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về đất đai phải được
hoàn thiện theo xu hướng hiện đại, cập nhật và chính xác nhằm khai thác có hiệu

quả tài nguyên đất, bảo đảm hài hòa lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội và lợi ích hộ
nông dân trong sử dụng đất.
1.2. Tổng quan về DĐĐT.
1.2.1. Khái niệm về công tác dồn điền đổi thửa.
“Khái niệm dồn điền đổi thửa (DĐĐT) (Land consolidation) là việc tập hợp,
dồn đổi các thửa ruộng nhỏ thành thửa ruộng lớn. Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiện
DĐĐT: Một là để cho thị trường ruộng đất, và các nhân tố phi tập trung tham gia
vào, Nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế này vận hành tốt hơn; Hai là thực hiện các
biện pháp can thiệp hành chính, tổ chức phân chia lại ruộng đất, thực hiện các quy
hoạch có chủ định. Theo cách này, các địa phương đều xác định là DĐĐT sẽ không
làm thay đổi các quyền của nông hộ đối với ruộng đất đã được quy định trong pháp
luật. Tuy nhiên, việc thực hiện quá trình này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận
ruộng đất của các nhóm nông dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân
ruộng đất ở các nhóm xã hội khác nhau” (Đào thế Anh,2001).
Bản chất của quá trình này là dồn ghép những ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn,
sắp xếp quy hoạch lại ruộng đất, khắc phục tình trạng manh mún, phân tán ruộng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

đất, tổ chức thiết kế lại đồng ruộng, hệ thống thủy lợi giao thông nội đồng; nâng cao
hệ số sử dụng đất; đẩy nhanh chuyển dịch sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa;
phát triển kinh tế hộ và trang trại, củng cố quan hệ sản xuất, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Dồn điền đổi không phải là 1 tiêu chí trong xây dựng NTM nhưng dồn điền
đổi thửa giúp tăng diện tích trên một thửa ruộng, tạo thuận lợi cho hộ canh tác, thực
hiện Cơ giới hoá nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; từng bước phân công lao động trong
từng địa bàn, tạo việc làm, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích sản xuất.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
- Ở Nhật Bản: Để chấn hưng nền nông nghiệp, năm 1961, Chính phủ đã ban

hành chính sách nông nghiệp, đưa nền nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.
Để thực hiện mục tiêu này, Bộ Nông nghiệp đề ra "sự nghiệp xây dựng ruộng đất”
với ba mục tiêu: rộng, chắc chắn, sâu.
+ Rộng: nâng diện tích thửa ruộng lên không dưới 0,3 héc ta.
+ Chắc chắn: cải tạo nền đất yếu, nhiều bùn, hay lún trên cơ sở thiết kế xây
dựng thoát nước cho từng thửa ruộng và từng khu vực để có thể sử dụng máy móc
thuận lợi.
+ Sâu: cải tạo tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày.
Để làm được các yêu cầu nêu trên cần phải làm được hai việc sau đây:
+ Về mặt hành chính: chuyển đổi từ các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn.
+ Về mặt kỹ thuật: gắn liền với việc xử lý kích thước thửa ruộng là việc xây
dựng hệ thống tưới tiêu và san ủi mặt bằng.
Công tác DĐĐT, xử lý ruộng đất như nêu trên là khó khăn phức tạp vì đất
đai thuộc sở hữu tư nhân và việc chuyển đổi phải tiến hành với một số biện pháp
như quy hoạch sử dụng đất mới phát huy hiệu quả trong sử dụng đất. Kết quả là
khoảng 2 triệu héc ta trong 2,7 triệu héc ta đất trồng lúa nước đã được chuyển đổi.
Trước chuyển đổi, bình quân có 3,4 thửa/hộ, sau chuyển đổi bình quân có khoảng
1,8 thửa/hộ. Việc chuyển đổi, xử lý đất nông nghiệp đã tăng sức sản xuất của đất
đai, tăng năng suất lao động; việc áp dụng máy móc vào sản xuất được thuận tiện và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

hiệu quả, tạo điều kiện để phát triển nông nghiệp hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh
trong nông nghiệp. Vì vậy cùng với các yếu tố khác, việc chuyển đổi đất nông
nghiệp đã góp phần quan trọng đưa năng suất lúa từ 3.000 kg gạo/ha/năm ở năm
1960 lên 6.000 kg gạo/ha/năm vào năm 1992.
- Ở Indonesia: Đồng bằng Java của Indonesia ruộng đất cũng bị manh mún.
Năm 1963, số trang trại có diện tích đất dưới 0,5 ha chiếm trên 52% trong tổng số
7,9 triệu nông hộ; trang trại có diện tích từ 0,5 héc ta đến 1,0 héc ta chiếm 27%, chỉ
có 0,4% loại trang trại có diện tích từ 4 đến 5 héc ta. Trong khi đó, 40% số trang trại

do người làm công quản lý chứ không do chủ đất quản lý. Tình trạng này đã ảnh
hưởng nhiều đến việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật của cuộc cách mạng xanh thời
đó. Ở Indonesia nói riêng và Đông Nam Á nói chung có sự gia tăng áp lực dân số
trên ruộng đất nhưng ít xảy ra phân cực giữa các loại nông hộ, các trang trại quy mô
lớn đến hàng chục héc ta chỉ là cá biệt, mặc dù số nông dân không có ruộng đất vẫn
tăng lên. Như vậy ruộng đất vẫn không tập trung được vào một số trang trại lớn mà
chỉ được trao đổi giữa các chủ nhỏ. Thậm chí, quy mô ruộng đi thuê ở tất cả các
nhóm hộ đều giảm xuống. Giá ruộng đất (địa tô) vẫn tăng lên, nhưng lãi từ việc đầu
tư thêm lao động giảm xuống, làm thay đổi một loạt các thể chế nông thôn, chủ yếu
là gia tăng số hộ cho thuê đất. Như vậy thị trường ruộng đất đã không vận hành
hoàn toàn theo nguyên lý kinh tế.
- Ở Thái Lan: Đồng bằng Chaophraya cách đây khoảng 120 năm dân cư vẫn
còn thưa thớt, chỉ khoảng 300 nghìn người với trên 2 triệu héc ta đất, nhưng sự đô
thị hóa nhanh ở Bangkok vài chục năm gần đây đã làm cho dân số vùng này tăng
nhanh (khoảng 3%/năm). Kể từ năm 1970, đất nông nghiệp giảm trung bình
khoảng 1%/năm. Các trang trại bị chia nhỏ khiến quy mô ruộng đất bị giảm dần,
từ 4,8 ha/hộ (năm 1950) xuống 4,5 ha/hộ (năm 1963), 4,1 ha/hộ (năm 1978) và 3,5
ha/hộ (năm 1993). Quy mô ruộng đất giảm còn do ruộng đất được phân chia thừa
kế cho con cái và công nghệ sản xuất chậm tiến bộ. Từ năm 1955 đến năm 1975,
giá thóc giảm khá thấp, trên thực tế giá nông sản thấp và sự bần cùng hóa của
nông dân luôn đi đôi với sự chia nhỏ quy mô sản xuất bởi vì lợi ích đầu tư vào
ruộng đất không cao và người dân cũng không có đủ vốn để đầu tư mua đất.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

Kể từ sau cách mạng nông nghiệp lần thứ 2 (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX), một loạt các trang trại nhỏ, manh mún năng suất thấp đã bị loại thải, thay vào
đó là các trang trại quy mô vừa, năng suất lao động cao. Ví dụ ở Pháp năm 1955 có
xấp xỉ 2,3 triệu nông hộ có quy mô 14 ha/hộ, đến năm 1993 chỉ còn 0,8 triệu nông
hộ với quy mô 35 ha/hộ. Ở Mỹ, năm 1950 cả nước có 5,65 triệu nông hộ với quy

mô bình quân 86 ha/hộ, đến năm 1992 chỉ còn 1,92 triệu nông hộ với quy mô 198,9
ha/hộ. Nhìn chung, tiến trình tích tụ ruộng đất và vốn nhanh chóng của các nông hộ
ở Châu Âu chủ yếu là nhờ thành tựu khoa học công nghệ phát triển trong quá trình
cơ giới hoá nông nghiệp của cuộc cách mạng công nghiệp.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu DĐĐT ở Việt Nam
1.2.3.1. Thực trạng về manh mún ruộng đất ở Việt Nam
Ở Việt Nam, tình trạng manh mún ruộng đất diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là
ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh trung du miền núi Bắc Bộ. Theo số liệu của Bộ
Tài nguyên và Môi trường, cả nước có khoảng 75 triệu thửa đất, trung bình một hộ
nông dân có khoảng 0,25 - 0,50 héc ta đất nông nghiệp, bình quân khoảng 7 - 8 thửa
đất/hộ. Khu vực có mức độ manh mún nhiều nhất là trung du miền núi phía Bắc,
đồng bằng sông Hồng và khu IV cũ.
Bảng 1.3. Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước
TT Vùng sinh thái
Tổng số
thửa/hộ (thửa)

Diện tích bình quân/thửa
(m
2
)
Trung
bình

biệt
Đất lúa
Đất trồng
màu
1 Trung du miền núi Bắc Bộ 10 – 20


150 150 – 300 100 - 150
2 Đồng bằng sông Hồng 7 – 10 47 300 – 400 100 - 150
3 Duyên hải Bắc Trung Bộ 7 – 10 30 300 – 500 200 - 300
4 Duyên hải Nam Trung Bộ 5 – 10 30 300 – 1000 200 - 1000
5 Tây Nguyên 5 25 200 – 500 1000 - 5000
6 Đông Nam Bộ 4 – 5 15 1000 - 3000

1000 - 5000
7 Đồng bằng sông Cửu Long 3 10 3000 - 5000

500 - 1000
Nguồn: (Đỗ Kim Chung, 2001)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

1.2.3.2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất
Tình trạng manh mún ruộng đất do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, sự phức tạp của địa hình, nhất là các vùng đồi núi, trung du. Do địa
hình bị chia cắt nên đất đai ở đa số các địa phương hầu như đều có 3 dạng địa hình:
đất cao, đất vàn và đất thấp trũng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng
manh mún ruộng đất;
Hai là, chế độ thừa kế chia đều ruộng đất cho con cái. Ở Việt Nam ruộng đất
của cha mẹ thường được chia đều cho tất cả các con sau khi tách hộ. Vì thế tình
trạng phân tán ruộng đất gắn liền với chu kỳ phát triển của nông hộ;
Ba là, tâm lý tiểu nông của các hộ sản xuất nhỏ. Do quy mô sản xuất nhỏ lẻ,
các hộ nông dân ngại thay đổi, nhất là thay đổi liên quan đến ruộng đất;
Bốn là, phương pháp chia ruộng bình quân theo nguyên tắc có tốt, có xấu, có
xa, có gần khi thực hiện Nghị định số 64/NĐ-CP của Chính phủ.
Việc chia nhỏ các thửa ruộng để có sự công bằng giữa các hộ đã tác động
không nhỏ làm tăng tình trạng manh mún ruộng đất. Quan điểm muốn bảo vệ sự

công bằng cho những người dân được chia ruộng và nhiều lý do sau đây khiến đa số
các địa phương chia nhỏ ruộng cho nông dân, đó là:
- Tất cả các hộ đều phải có ruộng gần, xa, tốt, xấu, cao, thấp. Có như vậy
mới thể hiện tính công bằng;
- Độ phì tự nhiên của đất ở các khu khác nhau phải chia đều cho các hộ;
- Do hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất khác nhau nên phải chia
đều ruộng đất cho các hộ;
- Có những chân đất thường không an toàn do các vấn đề như úng, hạn, chua,
mặn do đó việc chia đều rủi ro cho các hộ cũng là chỉ tiêu quan trọng trong khi
chia ruộng.
1.2.3.3. Những hạn chế của tình trạng manh mún ruộng đất đối với sản xuất nông
nghiệp và quản lý Nhà nước về đất đai ở địa phương
Tình trạng manh mún ruộng đất đã gây không ít khó khăn cho người nông
dân và các nhà quản lý. Cho đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề DĐĐT
và đã chỉ ra những tác động tiêu cực của sự manh mún ruộng đất, có thể khái quát
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

lại như sau:
- Hạn chế khả năng áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp, không giảm được chi
phí lao động đầu vào;
- Thửa ruộng quá nhỏ khiến nông dân ít khi nghĩ đến việc đầu tư tiến bộ kỹ
thuật để tăng năng suất;
- Thửa ruộng nhỏ, phân tán trên nhiều xứ đồng làm tăng rất nhiều công thăm
đồng, vận chuyển phân bón và thu hoạch, mặt khác nông dân không muốn trồng cây
hàng hoá do phải tăng công bảo vệ, do đó hạn chế đến việc thâm canh và chuyển
dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa;
- Quy mô ruộng đất nhỏ làm giảm lợi thế cạnh tranh của một số sản phẩm
nông nghiệp trong bối cảnh giá nông sản luôn có sự biến động bất ổn định;
- Nhiều thửa ruộng dẫn tới lãng phí đất canh tác do phải làm nhiều bờ ngăn,

trung bình phải mất 3,5% - 5,0% diện tích đất canh tác để đắp bờ vùng, bờ thửa;
- Gây khó khăn, phức tạp và tốn kém cho công tác quản lý đất đai, lập hồ sơ
địa chính và cấp GCNQSDĐ;
- Hạn chế việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất (chuyển đổi,
chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn quyền
sử dụng đất); vì vậy cản trở quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất để thực hiện
mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp.
1.2.4. Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh miền Bắc.
Từ năm 1997 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam có chủ trương lớn là thực
hiện dồn điền đổi thửa với mục đích là cho xuất hiện những vùng chuyên canh lớn.
Ở nhiều tỉnh cuộc vận động “Dồn điền, đổi thửa” đã được nông dân nhiệt
tình hưởng ứng, tạo điều kiện cho việc áp dụng tiến bộ KHKT và các khâu làm đất,
gieo trồng, chăm bón, thủy lợi, thu hoạch, chi phí giảm, năng suất tăng.
Năm 2003 cả nước có 75 triệu thửa đất, bình quân mỗi hộ có 6-8 thửa đất với
khoảng 0,3 – 0,5 ha/hộ, trong đó đất lúa từ 200 – 400m2/ thửa, đất rau và các loại
cây màu khác thường dưới 100 m2/ thửa, đất trồng cây lâu năm, cây cho thu nhập
cao còn manh mún hơn. Sau khi đồn điền đổi thửa, số thửa giảm từ 50 – 60% có nơi
đến 80%, diện tích mỗi thửa tăng bình quân gấp 3 lần. Việc đó đã tạo điều kiện cho

×