Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Công tác xây dựng đảng ở đảng bộ huyện đức thọ từ 1999 đến nay thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.68 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

PHAN THỊ THÚY HỢI

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN
ĐỨC THỌ TỪ 1999 ĐẾN NAY –
THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013
i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

PHAN THỊ THÚY HỢI

CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ HUYỆN
ĐỨC THỌ TỪ 1999 ĐẾN NAY –
THỰC TRẠNG, KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Xuân Tuất



Hà Nội – 2013

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của
riêng tơi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực .
Các kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phan Thị Thúy Hợi

iii


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5

6. Đóng góp của luận văn

5

7. Kết cấu của luận văn

5

Chương 1: NHỮNG YÊU CẦU MỚI TRONG CÔNG TÁC

6

XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY
1.1. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng

6


1.2. Xây dựng đảng vững mạnh về tổ chức

14

1.3. Tăng cường công tác dân vận

22

1.4. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giá sát, kỷ luật của Đảng

23

1.5. Đổi mới phương thức lãnh đạo

26

Chương 2: CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG Ở ĐẢNG BỘ

39

HUYỆN ĐỨC THỌ TỪ NĂM 1999 ĐẾN NAY
2.1. Khái quát tình hình huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh

39

2.2. Đảng bộ huyện Đức Thọ chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, từ năm 1999 đến nay

42


2.3. Một số kinh nghiệm

63

2.4. Phương hướng và giải pháp

66

KẾT LUẬN

74
76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

iv


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền. Xây
dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là
một đảng cách mạng chân chính để làm trịn vai trị lãnh đạo và cầm quyền, đưa
sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thắng lợi là vấn đề
có tầm quan trọng chiến lược của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Với vai trị, vị trí quan trọng đó, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng xác định:
“Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then
chốt”. Vào lúc này, xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang là địi hỏi bức xúc khơng
chỉ với bản thân Đảng mà còn đối với cả thực tiễn sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

Làm cho Đảng lãnh đạo vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới, nâng cao năng lực
cầm quyền của Đảng, giữ vững vai trò lãnh đạo, phát huy được uy tín và ảnh
hưởng của Đảng trong xã hội, đó cũng là mong muốn và nguyện vọng sâu xa
của toàn dân tộc.
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức đi liền với đổi
mới và chỉnh đốn Đảng. Đó là đổi mới phương thức lãnh đạo, đổi mới tổ chức
bộ máy cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình, đặc điểm mới hiện nay
khi Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, nhà
nước pháp quyền, dân chủ hóa, mở cửa và hội nhập quốc tế.
Đảng cầm quyền, bên cạnh những thuận lợi to lớn cũng có khơng ít
những khó khăn, nguy cơ, thách thức. Càng đi vào đổi mới, phát triển kinh tế
thị trường, mở cửa hội nhập, càng cần phải coi trọng công tác xây dựng Đảng;
đây là nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, mục tiêu,
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đồng thời, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay rất to lớn,
nặng nề, khó khăn, địi hỏi Đảng phải nâng tầm lãnh đạo cao hơn nữa, nâng sức
chiến đấu mạnh hơn nữa. Đảng ta, bên cạnh mặt tích cực, phát huy bản chất và
truyền thống tốt đẹp, đang đứng trước các yêu cầu, nhiệm vụ mới, phải khắc
1


phục, đẩy lùi những yếu kém, tiêu cực, phức tạp gây băn khoăn, lo lắng trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá sự nghiệp đổi mới
của đất nước ta nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong
bối cảnh tình hình trên, Đảng ta ln nhấn mạnh phải đặc biệt coi trọng công
tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống
cịn đối với Đảng và chế độ ta.
Thực tiễn gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng hết sức quan

tâm đến công tác xây dựng Đảng, Ban Chấp Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng Đảng, nhờ đó,
tạo những chuyển biến tích cực trong cơng tác xây dựng Đảng. Tuy nhiên, so
với mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, kết quả đạt được vẫn chưa như mong
đợi. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (2012) đã ra Nghị
quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nhằm đáp ứng yêu
cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực
sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương
thức lãnh đạo.
Là một bộ phận hữu cơ của Đảng, Đảng bộ huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh),
trong quá trình xây dựng và phát triển, đã ln qn triệt và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xây dựng Đảng vào trong hoàn
cảnh thực tiễn của Đảng bộ, và đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong cơng
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, luôn được đánh giá là Đảng bộ trong sạch, vững
mạnh của Hà Tĩnh. Từ thực tiễn công tác xây dựng Đảng, đặc biệt trong thời kỳ
đổi mới, Đảng bộ cũng đúc kết được những bài học kinh nghiệm quý.
Để làm rõ những kết quả, thành tích đạt được, đồng thời khắc phục
những hạn chế và đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, việc
2


nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ huyện Đức Thọ (Hà
Tĩnh) vì thế có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cấp thiết.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài “Công tác xây dựng Đảng ở Đảng bộ
huyện Đức Thọ từ 1999 đến nay - thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” làm
Luận văn Thạc sĩ, chun ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là đề tài giành được sự quan

tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các chuyên gia. Có thể kể đến một số
cơng trình tiêu biểu sau:
- Trần Đình Nghiêm (chủ biên) (2002), Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên)
(2004), Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2008), Vị trí cầm quyền và vai trị lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
- Ngơ Huy Tiếp (2011), Những vấn đề lý luận về công tác tư tưởng của
Đảng hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Tơ Huy Rứa (2012), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ
chức của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các cơng trình này đã tập trung làm rõ và trình bày một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò cầm quyền
của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Với những phân tích sắc sảo, những dẫn liệu cụ thể, sinh động, giàu sức
thuyết phục, các cuốn sách đề cập nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nhiều tác
động khác nhau cả về thực tiễn và lý luận đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng trong quá trình đổi mới đất nước. Trên cơ sở đó, các tác giả đã phân tích
những bài học kinh nghiệm, khẳng định những quan điểm mang tính nguyên
tắc, mục tiêu, phương hướng và luận giải những giải pháp đổi mới cả về nội
3


dung, phương thức, phương pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của cơng tác
xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Ngồi ra, cịn có các bài viết đăng trên Tạp chí chun ngành đề cập đến
cơng tác xây dựng Đảng thời kỳ này, như: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây

dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và cán bộ kiểm tra”, Tạp chí Kiểm tra, số 112004; “Đảng bộ tỉnh Nghệ An tiếp tục đổi mới và tăng cường cơng tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 4-2010; “Quan điểm của
Đảng về phòng, chống suy thối phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2-2012;…
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào đi sâu nghiên
cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của TCCS Đảng ở Hà Tĩnh, cụ thể hơn
là trên địa bàn huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở phân tích rõ tình hình xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ
huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh) trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1999 đến nay), đúc kết
một số kinh nghiệm, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng bộ huyện Đức Thọ trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện nhiệm vụ:
+ Làm rõ lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam;
+ Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được về công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng của Đảng bộ huyện Đức Thọ; rút ra bài học kinh nghiệm và đề
ra những giải pháp chủ yếu trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở Đảng bộ Huyện Đức
Thọ (Hà Tĩnh).
4


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Giới hạn, phạm vi lý thuyết: nghiên cứu lý luận về xây dựng, chỉnh

đốn Đảng.
+ Giới hạn về không gian, thời gian: tập trung nghiên cứu công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng ở huyện Đức Thọ trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1999 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
+ Luận văn được nghiên cứu trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng Đảng.
+ Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh
Hà Tĩnh, Đảng bộ huyện Đức Thọ về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
+ Kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác về công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để
triển khai đề tài.
+ Các phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát,
phương pháp logic, thống kê, so sánh, phương pháp quy nạp kết hợp nghiên
cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp chuyên gia,...
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
đặc biệt là công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cấp cơ sở.
- Góp phần tổng kết q trình xây dựng, chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng của
Đảng bộ huyện Đức Thọ kể từ khi quán triệt thực hiện nghị quyết Trung ương 6
lần 2 khóa VIII đến nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu có tính
khả thi nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI ở thực tiễn cơ sở đạt
kết quả, góp phần xây dựng Đảng bộ huyện Đức Thọ trong sạch, vững mạnh.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, 8 tiết, kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.
5



Chương 1
NHỮNG YÊU CẦU MỚI TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
Tổng kết thực tiễn hơn 80 năm hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đặc biệt hơn 25 năm Đảng lãnh đạo đất nước tiến hành cơng cuộc đổi mới cho
thấy vai trị lãnh đạo của Đảng và cơng tác xây dựng Đảng ln ln có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) của Đảng đã khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Nội dung yêu cầu của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng thể hiện rất
rõ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và không ngừng
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; Nghị quyết Trung ương 9 (khóa IX,
khóa X); Đại hội XI của Đảng xác định phương hướng, mục tiêu của công tác
xây dựng Đảng, trong đó, một trong các nhiệm vụ cần tập trung là: tiếp tục tự
đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân và tính
tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, tầm trí tuệ cao; Nghị quyết Trung
ương 4 khóa XI đặt cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cấp bách.
Hiện nay, trong bối cảnh xu hướng tồn cầu hố diễn ra mạnh mẽ, bên
cạnh sự hợp tác, hội nhập phát triển kinh tế, giao lưu văn hố thì tình hình
chính trị thế giới có những chuyển biến sâu sắc, biểu hiện những bất ổn đó là
chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
lãnh thổ, tài nguyên, hoạt động can thiệp lật đổ, chạy đua vũ trang, khủng bố…
Các khuynh hướng chính trị, tư tưởng diễn biến đa chiều.

6


Đất nước đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức: sự tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, âm mưu diễn
biến hồ bình của các thế lực thù địch trong và ngồi nước. Tình trạng suy thối
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Những biểu hiện xa rời mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp…,
các thế lực thù địch tiếp tục tấn cơng vào vai trị lãnh đạo của Đảng, chống phá
Đảng và Nhà nước ta trên tất cả các mặt,... Đó là những thách thức và nguy cơ
lớn đan xen mà Đảng ta đã, đang và sẽ tiếp tục phải đối diện. Do đó, vấn đề xây
dựng Đảng càng phải được coi trọng.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường
lối đổi mới, khơng dao động trong bất cứ tình huống nào là điều kiện tiên
quyết, yêu tố quyết định để Đảng phải vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng đủ
sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng ở mỗi thời kỳ lịch sử.
Tăng cường công tác giáo dục, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hồn cảnh cụ thể của cách mạng Việt
Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo
có ý nghĩa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ
Nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho mọi hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh
chính trị, Đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng
của nhân dân”[21, tr.20-21].
Hiện nay, trên thế giới, chủ nghĩa cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang
tìm mọi cách xuyên tạc, nhằm phủ nhận mọi giá trị của học thuyết Mác – Lênin
về Đảng. Do đó, trong cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng cần tăng

cường cơng tác giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên.
7


Phải xem giáo dục lý luận Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm
vụ trọng yếu, là chiến lược trong cơng tác chính thị, tư tưởng của Đảng trong
mọi giai đoạn cách mạng “...toàn Đảng nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác – Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[28, tr.139]. Vấn đề này là yêu cầu đảm bảo cho
thế giới quan Mác – Lê nin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh được thấm nhuần
trong tồn Đảng và giữ được vị trí chi phối trong đời sống tinh thần xã hội, góp
phần xây dựng đội ngũ đảng viên “có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, có thái độ tích cực đối với cong
cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đoạ để thực hiện
nhiệm vụ đổi mới” [17, tr.23].
Giáo dục giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cán bộ, đảng viên phải tiến hành thường xuyên nhằm trang bị về
mặt lý luận, giác ngộ chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, vững vàng trước
những khó khăn, thách thức, nhạy bén về chính trị, kịp thời phát hiện và kiên
quyết đấu tranh với các thủ đoạn, hành động “diễn biến hồ bình, bạo loạn lật
đổ” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, kiên quyết đấu tranh với
những nhận thức, quan điểm mơ hồ, lệch lạc, hành vi sai trái, đề cao trách
nhiệm chính trị.
Cơng tác giáo dục là cả một quá trình, phải làm cho mục tiêu, lý tưởng
của Đảng ngày càng ăn sâu, bám chắc vào đời sống chính trị tinh thần của tồn
Đảng, tồn dân. Bởi, càng đi vào đổi mới, hội nhập nhiệm vụ chính trị càng
nặng, phải kiên định vững vàng, kiên định bản chất cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên phải thực sự
trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống
xã hội. Phải tăng cường đoàn kết thống nội bộ, thường xuyên tổng kết thực tiễn,

phát triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa;
8


Nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết phục của cơng tác chính trị, tư
tưởng, bằng việc nghiên cứu đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên
truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân , đặc biệt đối với thế hệ
trẻ phải thường xuyên được bồi dưỡng lòng yêu nước , lý tưởng độc lập dân tộc
và chủ nghiã xã hô ̣i ; tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, động viên các nhân tố
mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy
tinh thần sáng tạo, tự lực, tự cường, tạo ra phong trào hành động cách mạng gắn
với các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trở
thành một thành tố tích cực tác động trực tiếp đến sự phát triển của các lĩnh vực
trên tạo cơ sở tiếp tục phát triển đất nước toàn diện, bền vững.
Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng; thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư.
Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Do đó, tăng giác ngộ lý tưởng cộng
sản, giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống và kiến thức năng lực
thức tiễn cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ cơ bản và cấp bách, nhằm
khơng ngừng nâng cao chính trị, tư tưởng của Đảng, để họ xứng đáng là những
chiến sĩ tiên phong, gương mẫu, có giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, hành
động theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở mỗi thời kỳ.
Để Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, khơng sa vào chủ nghĩa cá
nhân, cán bộ, đảng viên phải giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, phải tích
cực học tập, rèn luyện, nêu cao tính đảng, phải thấm nhuần và thực hành đạo

đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Đảng phải là “trí tuệ,
danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”[51, tr.122]. Giáo dục, rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Tiếp tục chỉ đạo và tổ chức thực hiện rộng khắp, có chiều sâu, thiết thực và hiệu
quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
9


gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh phịng, chống
tham nhũng, lãng phí, chống suy thối về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên, tạo sự chuyển biến thực sự trong thực hiện Cuộc vận
động, mà trọng tâm là “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Xây dựng và
thực hiện các chuẩn mực đạo đức phù hợp với từng đối tượng, xây dựng cơ chế
giám sát về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường việc đôn đốc,
kiểm tra, sơ kết việc chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động, phát hiện, tuyên truyền,
cổ vũ, nhân rộng các điển hình tiên tiến tập thể và cá nhân học tập và làm theo
tấm gương đạo đức của Bác.
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới tồn diện địi hỏi về chính trị, tư tưởng
khơng đơn thuần chỉ là hoạt động tuyên truyền đơn giản, công thức, mà cần và
phải có mặt trong cả tiến trình sự kiện, hiện tượng, phong trào để có tiếng nói
có sức thuyết phục, gắn lý luận, vận dụng lý luận vào thức tiễn đối với tất cả
tiến trình kinh tế, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại. Bên cạnh đó phải coi
trọng giáo dục phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc gắn với
việc phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu
những thành tựu và tinh hoa văn hóa nhân loại, hình thành hệ giá trị con người
Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp hố – hiện đại hố.
Để thực hiện được nhiệm vụ xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, làm trịn vai trị lãnh đạo cách mạng Viê ̣t Nam, thì hoạt động
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng Đảng phải tập trung các nội dung sau:
Thứ nhất, coi trọng hơn nữa công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đấu

tranh bảo vệ, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Tăng cường giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, cán bộ chủ chốt các
cấp, các ngành, bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận
dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo sự thống nhất cao trong
Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; xây dựng nội bộ vững mạnh, củng cố vững
chắc bên trong là chính, lấy “thế trận lòng dân” làm nền tảng.
10


Các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị, cơ quan, đồn thể cần chủ
động triển khai có hiệu quả đấu tranh trực tiếp trên mặt trận tư tưởng, lý luận.
Sử dụng và phát huy hiệu quả các phương tiện của công tác tư tưởng đấu tranh
phê phán những quan điểm tư tưởng, lý luận phản động, sai trái của các thế lực
thù địch, không để lây lan và tác động xấu trong xã hội.
Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn hoạt động tập hợp lực lượng, móc nối
trong ngồi, khơng để cơng khai hố, quốc tế hố các tổ chức chính trị đối lập
trong nước chống Đảng, Nhà nước. Tập trung giải quyết một bước căn bản, có
hiệu quả các vấn đề ở những vùng trọng điểm và các vùng tập trung đông đồng
bào dân tộc thiểu số, không để các thế lực thù địch lợi dụng gắn vấn đề dân tộc
với vấn đề tơn giáo để kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn, gây mất ổn
định chính trị.
Thứ hai, tiếp tục triển khai có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện tốt cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nâng cao chất lượng sinh hoạt, học
tập của các tổ chức đảng ở cơ sở, tăng cường tính chiến đấu của tổ chức đảng
và đảng viên. Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội, nhất là
kỷ luật phát ngơn. Có biện pháp kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về

chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
trong xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, loại bỏ tư tưởng cơ hội, thực
dụng, tình trạng thoái hoá biến chất trong Đảng, lối sống thực dụng trong một
bộ phận cán bộ có chức, có quyền, có tiền, những hình ảnh xấu về người cán bộ
cách mạng trong nhân dân, tác động tiêu cực đến sự đồng thuận về tư tưởng
trong xã hội, những “đồng minh tự nhiên” của chiến lược “Diễn biến hồ bình”.
Thứ ba, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh có hiệu quả
chống tham nhũng, quan liêu và các tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc hoạch định các chủ
trương, đường lối; xây dựng và quản lý Nhà nước; thực hiện tốt chính sách dân
11


tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục,
phổ biến pháp luật, phòng chống tham nhũng, lãng phí trong hệ thống chính trị
và xã hội. Đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng các thiết chế
tuyên truyền vận động, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ
trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống, tham gia xây dựng Đảng, kiểm tra,
giám sát cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, phát hiện và đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng.
Mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Chủ
động, kịp thời cung cấp, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Sớm phát hiện và giải quyết khẩn trương các vấn đề bức xúc, các điểm
“nóng” về khiếu kiện, đình cơng..., giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Khắc
phục tình trạng vơ kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối. Chủ
động có các phương án ngăn chặn và làm thất bại âm mưu lợi dụng các vấn đề
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tơn giáo”, “dân tộc” để gây rối chính trị của các thế
lực thù địch.
Củng cố, mở rộng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng với các tổ chức thành viên, thực sự phát huy vai trị là cơ sở chính

trị của chính quyền nhân dân, là nơi phối hợp hành động của các tầng lớp
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia
với Đảng và Nhà nước thực hiện quyền dân chủ, chăm lo, bảo vệ lợi ích
chính đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng,
chính quyền, thực hiện giám sát của nhân dân đối với hoạt động, lối sống của
cán bộ, đảng viên và các cơ quan Nhà nước; giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ nhân dân.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quan hệ của các tổ
chức đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để phát
huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản
lý điều hành của Nhà nước, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
12


Thứ tư, đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động phòng, chống nguy cơ “tự
diễn biến” trong cán bộ, đảng viên.
Ở đây hiểu “tự diễn biến” là khái niệm chỉ sự vận động bên trong của
mọi sự vật, hiện tượng. “Tự diễn biến” có thể xảy ra trên các mặt tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống. Quan trọng nhất là phải phòng, chống nguy cơ “tự
diễn biến” về tư tưởng chính trị. Song khơng coi nhẹ mặt đạo đức, lối sống. Sự
suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến tha hố về tư tưởng
chính trị. “Tự diễn biến” có thể có trong Đảng, trong hệ thống chính trị, trong
xã hội; có thể có trong đảng viên, công chức, nhân dân, nhưng nguy hiểm hơn
cả là trong cán bộ , nhất là cán bộ có chức , quyền, cán bộ trung cao cấp , cán bộ
lãnh đạo, quản lý chiến lược vĩ mô . “Tự diễn biến” là quá trình từ bỏ dần tư
tưởng của chủ nghiã xã hô ̣i , hướng dần theo những tư tưởng khác. Hiện tượng
“tự diễn biến” về tư tưởng chính trị rất khơng đơn giản, cần được phân tích,
nhận diện chính xác. Do đó, việc xác định đâu là biểu hiện “tự diễn biến” địi
hỏi phải lấy lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của người lao động làm tiêu chí

xem xét, đánh giá với phương pháp khoa học, tránh “chụp mũ”, quy kết vội
vàng; đồng thời, không thể mất cảnh giác cho rằng “khơng có vấn đề gì”. “Tự
diễn biến” là một hiện tượng mà sự nảy sinh và phát triển của nó có nguyên
nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Cuộc đấu tranh phòng , chống “diễn biến hồ bình” chỉ đạt được kết quả
khi nó được gắn liền với cuộc đấu tranh đẩy lùi

, khắc phục các nguy cơ nội

sinh, như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực

,

nguy cơ chệch hướng xã hô ̣i chủ nghi ̃a và nguy cơ tham nhũng, tệ quan liêu, sự
suy thoái về phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Các nguy cơ này có
mối liên hệ, tác động lẫn nhau. Sự yếu kém, những sai lầm, khuyết điểm của
chúng ta là mảnh đất “màu mỡ” cho chiến lược “Diễn biến hồ bình”, bạo loạn
lật đổ của kẻ thù. Sự tác động của “diễn biến hồ bình” thúc đẩy tạo ra những
nhân tố “nội xâm”, “tự diễn biến” hết sức nguy hiểm, cho nên phải chủ động
phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến
đột biến bất lợi.
13


Đấu tranh chống “diễn biến hồ bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ
chức là trách nhiệm của tồn Đảng, toàn dân, toàn quân, mà trước hết, trực tiếp
là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng. Vì vậy, từng cấp uỷ, từng ngành, từng địa
phương, các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch và chương trình hành động
đấu tranh chống “diễn biến hồ bình” nói chung, trên lĩnh vực chính trị, tư
tưởng, tổ chức nói riêng phù hợp với điều kiện và tình hình ở đơn vị mình, địa

phương mình; phải đặt dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; gắn với việc xây dựng, giữ vững và
phát huy nhân tố nội lực mang tính quyết định.
1.2. Xây dựng Đảng vững mạnh về tổ chức
Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có
giác ngộ nhất của giai cấp cơng nhân, Đảng là người đưa yếu tố tự giác nhất
vào phong trào cơng nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục,
động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, là
Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo, định hướng sự phát triển trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành cơng. Do đó, việc chăm lo xây
dựng Đảng trở thành một Đảng chính trị cầm quyền thực sự trong sạch, vững
mạnh, là nhiệm vụ cấp bách.
Công tác tổ chức của Đảng là một khoa học. Vì vậy, trong quá trình lãnh
đạo xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức, các cấp ủy, tổ chức đảng phải tuân
thủ và vận dụng sáng tạo các quan điểm chỉ đạo chủ yếu: Tất cả các tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập và đổi mới, kiện toàn phải phù hợp với đặc
điểm của hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ do một đảng duy nhất lãnh đạo; phù hợp với nhiệm
vụ, đặc điểm của cách mạng trong mỗi thời kỳ. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy
phải nhằm bảo đảm các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động có hiệu lực,
14


hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng quan liêu, trùng lặp, chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi tổ chức, bảo đảm hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị. Việc kiện tồn tổ chức bộ
máy phải bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống trong tồn Đảng và hệ thống chính

trị, giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị; vừa xây dựng
các cấp ủy, cơ quan của Đảng vững mạnh, đủ sức thực hiện tốt chức năng,
nhiệm vụ, vừa phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đảng viên
trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã
hội. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải vừa kế thừa những thành quả và kinh
nghiệm đã đạt được, vừa đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội
nhập quốc tế.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức và q trình đổi mới, kiện
tồn tổ chức của cả hệ thống chính trị, đi đơi với phát huy trách nhiệm của các
tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đảng phải
chấn chỉnh tổ chức và bộ máy một cách toàn diện. Tổ chức của Đảng phải vững
mạnh trong toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, từ cơ quan lãnh đạo đến
các ban chuyên môn. Các cấp ủy Đảng phải thật sự có đủ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo phù hợp với yêu cầu của từng cấp” [65, tr.172].
Trước hết: Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng, trong đó cần đặc
biệt coi trọng làm tốt cơng tác chi bộ, bởi vì chi bộ là nền móng của Đảng;
“Mỗi chi bộ của Đảng là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết
chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ
đại của quần chúng”[44, tr.23]..
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng về tổ chức được tăng cường theo hướng đổi
mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng
cao chất lượng đảng viên; đổi mới công tác cán bộ gắn liền với rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, coi trọng bảo vệ chính trị
nội bộ.
15


Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của can bộ,

đảng viên.
Bước phát triển quan trọng trong xây dựng Đảng về tổ chức là Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa

(6-1997) đề ra Chiến

, hiện đại hóa đất nước .

Thực tiễn của quá trình thực hiện chiến lược cán bộ cho thấy sự cần thiết phải
triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ . Hội nghị lần
thứ chín , Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

(2-2009) đã tổng kết 10

năm thực hiện chiến lược cán bộ và chủ trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện
chiến lược cán bộ đến năm 2020. Trung ương Đảng cho rằng: "Đội ngũ cán bộ
nước ta có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt , đã tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế; là lực lượng nòng cốt cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Số đông cán bộ giữ được bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối
sống lành mạnh , gắn bó với nhân dân ", "cơng tác cán bộ đã bám sát nhiệm vụ
chính trị, thể chế hóa , cụ thể hóa được nhiều chủ trương , quan điểm, giải pháp
lớn đề ra trong cương lĩnh". Tuy nhiên, nhiều yếu kém, khuyết điểm trong công
tác cán bộ chậm được khắc phục . Đội ngũ cán bộ cịn nhiều mặt yếu . " Tình
trạng suy thoái về tư tưởng , chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa
cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm, thiếu tự
giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ phận không nhỏ

cán bộ diễn ra nghiêm trọng, kéo dài nhưng chậm có giải pháp hữu hiệu để
ngăn chặn và kịp thời xử lý, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với
chế độ".
16


Chỉnh đốn Đảng về tổ chức đòi hỏi phải nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần đặt ra. Trong
quá trình đổi mới, bị tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan nên
một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên thoái hóa , biến chất về đạo đức, lối
sống, phai nhạt lý tưởng cộng sản, sa vào tham nhũng, lãng phí. Trung ương
Đảng, trong nhiều nghị quyết đã nhấn mạnh yêu cầu đức và tài đối với cán bộ,
đảng viên, trong đó đức là gốc. Đảng đã mở cuộc vận động lớn "Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" từ ngày 3-2-2007. Cuộc vận động được
coi là sự kiện chính trị nổi bật, được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hưởng ứng
và đã ảnh hưởng lớn đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tiếp tục được
quan tâm thực hiện trong điều kiện hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức là một nhiệm vụ cấp bách nhằm bảo đảm “nâng cao ý thức tự
bảo vệ, tự đề kháng của cơ quan, đơn vị, cá nhân cán bộ, đảng viên trước các
thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của kẻ thù; trên cơ sở tiếp tục xây dựng hoàn
thiện các quy chế, chính sách quản lý cán bộ và cơng tác kiểm tra, giám sát cán
bộ, chống nguy cơ “tự diễn biến”. Do vậy, phải “chủ động phòng ngừa, đấu
tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ” ;
quán triệt tư tưởng chỉ đạo chú trọng cả hai nhiệm vụ “xây” và “chống” trong
đó lấy xây dựng là chính; đồng thời, phải chủ động và có giải pháp đúng tạo ra
khả năng “miễn dịch” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối
với thế hệ trẻ, là vấn đề có ý nghĩa sống cịn của Đảng, của chế độ.
Cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế và trong
nước hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đó là nhiệm vụ

rất quan trọng và cấp bách của toàn Đảng. Với vị trí, vai trị của mình sự vươn
lên của các Đảng bộ cơ sở sẽ là yếu tố tác động tích cực đến kết quả của q
trình đó.
Trên cơ sở nắm vững những yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng theo
quan điểm của các kỳ đại hội, nghị quyết hội nghị Trung ương, nội dung công
tác tổ chức Đảng cấp huyện cần tập trung các nội dung cơ bản sau:
17


Thực hiện đúng những nguyên lý về Đảng và xây dựng Đảng của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những nguyên tắc và quan điểm
đổi mới của Đảng, trước hết là phương hướng, nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng
trong giai đoạn mới.
Tiến hành củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng
trên cơ sở quan điểm hệ thống và tồn diện. Tính hệ thống quy định nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở Đảng phải gắn với nâng cao chất lượng của cấp trên
cơ sở, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở
Đảng gắn với củng cố và kiện toàn các tổ chức khác trong hệ thống chính trị và
với phong trào cách mạng của quần chúng ở đơn vị cơ sở. Tính tồn diện quy
định nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng phải tiến hành trên cả ba mặt
chính trị, tư tưởng và tổ chức; chú trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo và hoạt
động xây dựng nội bộ Đảng.
Phải xuất phát từ thực tế ở đơn vị cơ sở, từ sự đánh giá đúng đắn thực
trạng, xác định khâu yếu, những Đảng bộ yếu để tập trung giải quyết dứt điểm.
Không hữu khuynh, né tránh và cũng khơng nơn nóng đề ra u cầu xa rời thực
tế. Đặc biệt coi trọng củng cố và kiện toàn các tổ chức cơ sở Đảng ở những địa
bàn và lĩnh vực trọng yếu về kinh tế và chính trị.
Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện nâng cao vai trò
lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức cơ sở Đảng phải nắm rõ đường lối

của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, kế hoạch
công tác của cấp trên; những đặc điểm, tâm tư nguyện vọng của nhân dân ở cơ
sở và thực hiện việc bàn bạc, thảo luận dân chủ trong Đảng bộ và trong nhân
dân để xác định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu chính xác, chủ
động của Đảng bộ trong thời gian nhất định theo đúng chức năng lãnh đạo của
mình. Tổ chức Đảng khơng quyết định những vấn đề thuộc trách nhiệm quản
lý, điều hành của cơ quan nhà nước, của thủ trưởng và các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức xã hội. Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ vừa tồn diện, đồng thời
18


vừa tập trung giải quyết một số vấn đề bức bách ở đơn vị cơ sở đang đặt ra,
nhất là vấn đề về dân chủ hóa, đổi mới cơ chế quản lý sản xuất, chăm lo đời
sống nhân dân,... Thực tiễn những Đảng bộ trong sạch, vững mạnh trong nhiều
năm qua ở địa phương và cơ sở cho thấy, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ hình
thành trên cơ sở nghiên cứu kỹ, khai thác tốt những tiềm năng của địa phương,
cơ sở là chính, đồng thời coi trọng sự giúp đỡ của cấp trên (thường gọi là kết
hợp khai thác và phát huy có hiệu quả nguồn lực bên trong và bên ngoài). Thực
tiễn cũng cho thấy, nhiều “điển hình” khơng phát huy được tác dụng, bởi lẽ
nhiệm vụ chính trị khơng xuất phát từ thực lực của chính mình, dựa dẫm vào
cấp trên, khơng sát hợp và thiết thực đối với cơ sở, khoa trương, hình thức.
Điều quan trong là sau khi xác định đúng đắn phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu phấn đấu, bằng sự thuyết phục, bằng cơng tác tư tưởng và tổ chức,
bằng vai trị tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và bằng việc
phát huy quyền làm chủ của quần chúng, Đảng bộ tiến hành tổ chức thực hiện,
biến những quyết định đó thành quyết tâm và kế hoạch hành động của các tổ
chức trong hệ thống chính trị, thành những kết quả phát triển sản xuất, cơng tác,
giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội..., nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân ở đơn vị cơ sở.
Một trong những yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt

động của Đảng bộ cơ sở là bảo đảm thường xuyên tính phù hợp giữa tổ chức
Đảng với cơ chế quản lý mới với việc cải cách bộ máy hành chính ở đơn vị cơ
sở. Do vậy, mỗi Đảng bộ cơ sở được thành lập gắn với một đơn vị cơ sở trong
hệ thống tổ chức xã hội; khắc phục tình trạng vừa chồng chéo, vừa cắt khúc
giữa tổ chức Đảng với các tổ chức nhà nước, tổ chức kinh tế... và các đoàn thể
nhân dân ở cơ sở.
Củng cố và kiện tồn Đảng bộ cơ sở cịn bao hàm việc sắp xếp các chi
bộ, Đảng bộ bộ phận cho phù hợp theo hướng kết hợp giữa sản xuất, công tác
với vùng lãnh thổ, bỏ bớt đầu mối trung gian không cần thiết và với một số
lượng đảng viên vừa phải, tránh quá đông, tạo điều kiện để chi bộ thực hiện có
19


hiệu quả hoạt động lãnh đạo sản xuất, công tác, gắn bó với nhân dân và làm tốt
cơng tác xây dựng nội bộ Đảng.
Mỗi chi bộ quản lý trực tiêp một số lượng đảng viên nhất định. Hoạt
động của chi bộ có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự trưởng thành của từng
đảng viên và chất lượng đội ngũ đảng viên. Với trách nhiệm của mình, các chi
bộ đặt trọng tâm vào công tác Đảng, làm tốt việc quản lý chặt chẽ từng đảng
viên, nắm được tư tưởng, trình độ, năng lực, sức khỏe và hoàn cảnh của họ để
tiến hành phân công và kiểm tra công tác, kiểm tra việc chấp hành Điều lệ
Đảng của từng người một cách cụ thể, qua đó mà có kế hoạch giáo dục, nâng
cao giác ngộ chính trị, kiến thức về mọi mặt và rèn luyện đảng viên trong thực
tiễn sản xuất, công tác, từng bước nâng cao chất lượng từng người và chất
lượng đội ngũ đảng viên. Hiện nay, ở các chi bộ, nhất là các chi bộ xã, phường,
thị trấn có cơ cấu đội ngũ đảng viên khá đa dạng, cần căn cứ vào yêu cầu lãnh
đạo của tổ chức Đảng và những đặc điểm của đội ngũ đảng viên đó để bố trí,
phân cơng cơng tác hợp lý, bảo đảm đảng viên nào cũng được giao một công
việc cụ thể, thích hợp.
Sinh hoạt Đảng có vị trí quan trọng trong việc củng cố, kiện toàn tổ chức

đảng mà trước hết là chi bộ đảng. Chất lượng sinh hoạt tác động trực tiếp đến
chất lượng lãnh đạo và xây dựng nội bộ Đảng. Do vậy, phải thường xuyên cải
tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Mỗi loại chi bộ có nội dung và
hình thức sinh hoạt cụ thể phù hợp với yêu cầu, tính chất và điều kiện công tác
ở đơn vị. Song, điều quan trọng là sinh hoạt chi bộ phải đúng kì, có nội dung và
bảo đảm tính chất của sinh hoạt Đảng.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ, trước tiên phụ thuộc vào sự chỉ đạo trực tiếp
của Đảng ủy cơ sở, vào sự chuẩn bị chu đáo của ban chi ủy về thời gian, nội
dung, cung cấp thông tin và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ
trong sinh hoạt Đảng. Chất lượng sinh hoạt chi bộ còn đòi hỏi mỗi Đảng viên
có trách nhiệm tham gia sinh hoạt điều đặn, tham gia vào lãnh đạo tập thể, đấu
tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực, nghiêm túc tự phê bình và phê
20


bình, xây dựng sự thống nhất trong nội bộ. Trong Đảng không chấp nhận
những đảng viên “đặc biệt”, coi thường sinh hoạt chi bộ, đến họp với tư cách
cấp trên, là người thủ trưởng. Trong công tác tổ chức, Đảng ta luôn nhấn mạnh:
Cải tiến sinh hoạt nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả đảng viên là
cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt nhiêm vụ do chi bộ phân công, phải chịu sự
giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt Đảng và về đạo đức, lối sống, quan hệ với quần chúng ở nơi
làm việc và nơi cư trú.
Thường xuyên chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và đổi mới đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt, bảo đảm cho họ có đủ phẩm chất và năng lực thực hiện công
cuộc đổi mới. Thường xuyên chăm lo công tác cán bộ là nhiệm vụ trọng tâm
của cấp ủy Đảng, là mắt xích quan trọng nhất mà cấp ủy Đảng phải nắm chắc
để thúc đẩy phong trào của địa phương. Sử dụng cán bộ hiện có, đồng thời
chuẩn bị tốt cán bộ kế cận. Xây dựng và thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, đáp ứng u cầu của cơng

cuộc đổi mới, có phẩm chất và năng lực, nhất là có phẩm chất chính trị vững
vàng, có năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn.
Thực hiện có nền nếp cơng tác quy hoạch cán bộ. Xác định rõ tiêu chuẩn
của từng loại cán bộ. Xây dựng Đảng và thực hiện cơ chế tuyển chọn cán bộ
trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc dân chủ, tập thể, trọng dụng tài năng. Từng bước
trẻ hóa đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính liên tục, tính kế thừa trong cơ quan lãnh
đạo mỗi cấp. Đổi mới chế độ, chính sách đối với cán bộ trên cơ sở quan điểm
khuyến khích, trọng dụng tài năng và những người làm việc có năng suất, có
hiệu quả cao, thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động. Kiên quyết
khắc phục chủ nghĩa bình quân. Đồng thời, cần có chính sách đãi ngộ đúng đắn
đối với những cán bộ đã có nhiều cơng lao cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Đối với công tác quản lý cán bộ, cần thực hiện đúng nguyên tắc tập thể,
dân chủ và trách nhiệm của thủ trưởng, của cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong
công tác quản lý cán bộ. Mỗi cán bộ lãnh đạo chịu trách nhiệm quản lý những
21


×