Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

n dụng tư tưởng hồ chí minh về cán bộ vào việc nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện thạch hà hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.53 KB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN CƢỜNG

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN THẠCH HÀ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013
1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

NGUYỄN CƢỜNG

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀO VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
Ở HUYỆN THẠCH HÀ HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Linh Khiếu

Hà Nội – 2013

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu
của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Cƣờng

3


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ……………………………………………………………

1

1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………………………..

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ………………………………………


2

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ………………………………

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………...

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ………………………..

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ……………………………

5

7. Kết cấu của luận văn ………………………………………………

5

Chƣơng 1: MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ

6

1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ ………


6

1.2. Tiêu chuẩn của người cán bộ …………………………………….

9

1.3. Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ..

18

1.4. Vấn đề sử dụng cán bộ....................................................................

31

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐỘI
NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ HUYỆN THẠCH HÀ

42

2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế- xã hội ở huyện
Thạch Hà....................................................................................................

42

2.2. Vị trí và vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Thạch Hà. ..................................................................................................

44

2.3. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà....


47

2.4. Một số vấn đề về phương pháp lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà. .........................................................................
4

53


Chƣơng 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN THẠCH HÀ
THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH.

64

3.1. Tình hình nhiệm vụ mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao vai trò lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. .............................................

64

3.2. Mục tiêu nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Thạch Hà. ...................................................................................

68

3.3.Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà hiện nay....................


69

KẾT LUẬN. .............................................................................................

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................

91

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, thế giới đã xảy ra biết bao nhiêu biến động to
lớn trên rất nhiều phương diện, nhưng công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn
giành được những thành tựu quan trọng, được bạn bè thế giới khâm phục.
Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, sự nghiệp đổi mới của nước ta đang đứng
trước những thời cơ và cả thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo, phán
đoán, xử lý kịp thời mới có thể giữ vững ổn định chính trị và tiếp tục phát triển
kinh tế. Để đáp ứng và giải quyết được những yêu cầu, nhiệm vụ đó, điều đầu
tiên và cấp thiết nhất đối với Đảng ta là phải có được một đội ngũ cán bộ vừa
“hồng” vừa “chuyên” từ Trung ương đến cơ sở. Bởi vì như V.I. Lênin người
thầy của giai cấp vô sản đã từng nói: “Trong lịch sử chưa hề có giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”[38, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã
khẳng định: Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc có thành công hoặc
thất bại cũng do đội ngũ cán bộ tốt hay kém, có cán bộ tốt việc gì cũng xong.

Vì thế hơn lúc nào hết, chúng ta phải trở lại nghiên cứu một cách thấu đáo tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng
hiện nay, đặc biệt là vai trò lãnh đạo và phong cách công tác của người cán bộ.
Đó cũng là quan điểm chỉ đạo của Đảng ta trong giai đoạn cách mạng mới, thời
kỳ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá”:
Cán bộ là khâu quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn
luyện, xây dựng được đội ngũ cán bộ tận tuỵ, kiên cường, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng [15, tr.113].
1


Hiện nay, do những tác động ngày càng mạnh mẽ của mặt trái kinh tế thị
trường dẫn đến hậu quả là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên bị tha
hoá về phong cách, lối sống, làm mất niềm tin trong nhân dân. Mặt khác, một
bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mắc bệnh: độc đoán, chuyên quyền, phong
cách làm việc thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao vai
trò lãnh đạo của cán bộ được đặt lên hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng
nói riêng và trong hệ thống chính trị nói chung. Vấn đề này còn đặc biệt có ý
nghĩa đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh. Bởi ở đây vấn đề cán bộ không chỉ chứa đựng những đặc điểm chung mà
còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, quản
lý... làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công việc, đòi hỏi
cần có những giải pháp nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Với mong muốn được góp phần làm sáng tỏ thêm những quan điểm, tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện
Thạch Hà, chúng tôi chọn: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào

việc nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
huyện Thạch Hà hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp
Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề quan
trọng, thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác
cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau. Có những công trình đi vào nghiên cứu
toàn bộ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, có công trình chỉ đi
sâu nghiên cứu một khía cạnh trong công tác cán bộ. Thời gian qua, các công
trình nghiên cứu của các tác giả được công bố dưới dạng chuyên đề, đề tài, các
bài đăng trên các sách, báo, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học. Đó là nguồn tư
2


liệu quý báu giúp chúng tôi lĩnh hội, kế thừa trong quá trình nghiên cứu đề tài
của mình.
Có thể nêu một số công trình tiêu biểu sau: Phương pháp và phong
cách Hồ Chí Minh của GS. Đặng Xuân Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1997; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của PGS.TS Bùi
Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 2002; Đạo đức, phong cách, lề lối làm
việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Ban Tổ chức cán
bộ Chính phủ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cán bộ, chuyên đề khoa học cấp nhà nước KX.02, chủ nhiệm đề tài: GS
Đặng Xuân Kỳ; Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đảng viên
hiện nay, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ, chủ nhiệm đề tài: TS. Hoàng Trang,
2002; Tập kỷ yếu hội thảo khoa học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và
công tác cán bộ do Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức gồm
hàng trăm bài nghiên cứu, đề cập nhiều khía cạnh trong công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh...

Bên cạnh các tác phẩm nêu trên, còn một số luận án, bài báo của các nhà
nghiên cứu đã thực hiện và công bố thời gian qua như: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về đào tạo và huấn luyện cán bộ của Dương Xuân Ngọc, tạp chí Xây dựng
Đảng, số 7, 2003; Lênin, Hồ Chí minh nói về vai trò luân chuyển cán bộ của
Nguyễn Trọng Phúc, Tạp chí Cộng sản, số 9, 2002; Thực hiện tốt lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về: “cần, kiệm, liêm, chính”; chống tham ô, lãng phí và
quan liêu của tác giả Trần Đình Quảng, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số
289, 2003; Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp lãnh đạo và việc
xây dựng, rèn luyện phương pháp, phong cách công tác của cán bộ chính trị
trong quân đội ta hiện nay của tác giả Bùi Thế Đăng, Tạp chí khoa giáo số 5,
2005; Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp tỉnh
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Thanh Hoá, Luận văn Thạc
sỹ khoa học kinh tế, tác giả Cẩm Bá Tiến, 2002...
3


Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ dưới nhiều góc độ khác nhau như vấn đề rèn
luyện đạo đức, năng lực của cán bộ, một số nội dung quan trọng của tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ... Song có thể nói cho đến
nay, chưa có nhà khoa học nào đi sâu nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ vào việc nâng cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch
Hà, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

Để đạt tới mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ làm rõ:
- Phân tích, tìm hiểu một số nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ.
- Đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn huyện
Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và thực trạng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là vấn đề lớn.
Luận văn chỉ nghiên cứu một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở và vai trò lãnh đạo của họ ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh
hiện nay.
4


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng và Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với các phương
pháp cụ thể như: lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, trừu tượng và cụ thể,
ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,..
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
huyện Thạch Hà, đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở đây.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài làm rõ thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ

-có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy, học tập và tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.- Cung cấp những luận
chứng về cơ sở khoa học và thực tiễn để tham mưu cho lãnh đạo tiến hành nâng
cao vai trò lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được kết cấu làm 3 chương, 11 tiết.

5


Chƣơng 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về cán bộ
Cán bộ là một danh xưng rất đẹp, đầy niềm tự hào và vinh dự trong nhân
dân ta. Nói đến cán bộ là nói đến một lớp người mới, sẵn sàng chịu đựng mọi
gian khổ, hy sinh cho cách mạng, gắn bó mật thiết với nhân dân, gần gũi với
dân chúng. Ở nước ta, khái niệm cán bộ được sử dụng phổ biến từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Trong đời sống xã hội, theo cách hiểu thông
thường, cán bộ được coi là tất cả những người thoát ly, làm việc trong các cơ
quan đảng, nhà nước, đoàn thể, quân đội, được hưởng lương.
Trong Từ điển Tiếng Việt, xuất bản năm 1993, khái niệm cán bộ được
định nghĩa là:
Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị)
Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường không có chức vụ.
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn

đề cán bộ và công tác cán bộ. Người coi vấn đề cán bộ là một trong những vấn
đề then chốt quyết định đến sự thành bại của cách mạng. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”, và “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ
máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ
máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách của chính phủ, của Đoàn thể
thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực
hiện được”. [49, tr. 54]. Do đó, Người yêu cầu mỗi cán bộ phải luôn tự rèn
luyện, phải luôn giữ được tư cách của người cán bộ cách mạng. Trước hết, theo
Hồ Chí Minh người cán bộ cách mạng phải là người luôn giữ chủ nghĩa cho
vững, ít ham muốn về vật chất, ngày đêm nghĩ đến sự nghiệp cách mạng, sẵn
6


sàng hi sinh tất cả vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và nhân loại. Đó là những
con người biết phân biệt giữa “thiện” và “ác”, “chính” và “tà”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh yêu cầu những người cán bộ khi đã tự nguyện đi làm “công bộc” của dân thì
trước hết phải thực hiện nghiêm túc bốn đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư”, một lòng vì nước, vì dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của cán bộ
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành hay bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng.
Trong đội ngũ cán bộ thì cán bộ lãnh đạo (cán bộ chủ chốt) là nòng cốt
của đội ngũ ấy. Đó là những người tham gia một tập thể lãnh đạo của tổ chức
Đảng, cơ quan chính quyền, hành chính, sự nghiệp, đoàn thể hay tổ chức quản
lý kinh doanh…từ cấp trung ương đến cấp cơ sở. Trong sự nghiệp đổi mới,
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt. Để thực hiện tốt được những nhiệm vụ chiến lược quan trọng đó,
Đảng xác định phải đổi mới công tác cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, coi đó là khâu đột phá. Trong Báo cáo chính trị của Đảng tại Đại

hội toàn quốc lần thứ VI nêu rõ: “Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích
quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách
có ý nghĩa cách mạng” [11, tr.126].
Trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng giai cấp vô sản và
chính đảng của mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững được chính
quyền thì phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ trung thành, đáp ứng được
nhiệm vụ cách mạng. Cán bộ đích thực phải là những cán bộ cách mạng chuyên
nghiệp, là rường cột của đất nước. Đội ngũ cán bộ và vai trò lãnh đạo của Đảng
có mối quan hệ biện chứng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ
vững mạnh làm cho Đảng vững mạnh, tạo được uy tín trong quá trình lãnh đạo
của Đảng. Hồ Chí Minh rất tâm đắc với quan điểm của V.I. Lênin: “Không một
7


phong trào cách mạng nào vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định
và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo” [38, tr.158].
Theo V.I. Lênin không có một đội ngũ cán bộ đông đảo về số lượng, đặc
biệt đảm bảo về chất lượng thì không thể nói tới quyền lãnh đạo. V.I. Lênin cho
rằng: “Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh quyền
lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, ngày càng nhiều những
người phụ tá…, biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý
đến kinh nghiệm của họ” [41, tr.407].
Khi bàn về vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh
luôn đặt cán bộ trong tổng hoà các mối quan hệ đa chiều. Hồ Chí Minh xác
định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình dân chúng
báo cáo cho Đảng, cho chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy
cán bộ là gốc của mọi công việc” [49, tr.269]. Trong quá trình tổ chức thực
hiện, cán bộ phải nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thu nhận được

những kinh nghiệm thực tiễn để phản ánh với Đảng và Nhà nước, hoàn thiện
đường lối, chính sách ngày càng phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc
sống. Tuy nhiên, để có đủ trình độ năng lực, có thể đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ, Đảng phải coi trọng công tác giáo dục, huấn luyện, đào tạo cán bộ.
Người nói: huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là tiền vốn của đoàn thể. Có vốn thì mới
làm ra lãi. Bất cứ chính sách công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức
là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn” [50, tr.46].
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng, bởi vì chủ trương chính sách của nhà nước có đúng, nhưng
cán bộ yếu kém, cán bộ làm sai thì cũng không có hiệu quả. Hồ Chí Minh nói
một cách sâu sắc rằng: Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất
bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và
nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách dù đúng mấy cũng vô ích. Hồ
8


Chí Minh chỉ rõ, vai trò của người cán bộ trong xã hội mới không phải là “ông
quan cách mạng”, càng không phải là người có “quyền sinh, quyền sát” như
vua chúa thời phong kiến, mà chỉ là người đại diện, người đại biểu của nhân
dân, có trách nhiệm thi hành nhiệm vụ của nhân dân giao phó. Vai trò hết sức
quan trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng còn thể hiện ở chỗ: nếu
thiếu họ thì không có cách mạng, mục tiêu đề ra không thể hoàn thành, cán bộ
có vai trò quyết định đối với công việc “Muôn việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém” [49, tr.240].
Đối với Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên của Đảng đều có thể xem là cán bộ.
Người vẫn thường dùng khái niệm: “cán bộ, đảng viên” để chỉ đội ngũ cán bộ
nói chung, có khi họ không nắm chức vụ gì, nhưng vẫn có vai trò lãnh đạo vì
họ là một thành viên của Đảng, mà Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền
và toàn thể nhân dân thực hiện nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh

đặc biệt quan tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, nhất là đội ngũ lãnh
đạo chủ chốt ở cơ sở. Bởi vì đội ngũ này là những người gần dân nhất, cách
mạng có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ này.
Người viết: “Cấp xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành
chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi” [49, tr. 371].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và có liên
hệ chặt chẽ với nhau trong tổ chức của Đảng. Nếu cán bộ lãnh đạo ở cấp Trung
ương là những cán bộ cấp chiến lược có trách nhiệm hoạch định, hoặc gắn với
việc hoạch định chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, thì cán bộ lãnh đạo
cấp cơ sở lại có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng và hệ thống chính
trị cơ sở vững mạnh, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
1.2. Tiêu chuẩn của ngƣời cán bộ
Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của người cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ không phải từ
ý muốn chủ quan của bản thân, mà do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
9


mạng. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, đất nước được độc lập, nhân
dân được tự do, hạnh phúc để đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành đòi hỏi những người cán bộ phải vừa có “đức” vừa có “tài” vừa
“hồng” vừa “chuyên” sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, luôn đặt
lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
1.2.1. Đạo đức cách mạng là gốc của người cán bộ
Theo Hồ Chí Minh đã là người cán bộ cách mạng thì phải có đạo đức
cách mạng. Giữ được đạo đức cách mạng mới có thể trở thành người cán bộ
cách mạng chân chính. Bởi vì: Mọi việc thành công hay thất bại, chủ yếu là do
cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không, Người cho rằng: Người
đảng viên, người cán bộ tốt, muốn trở nên người cách mạng chân chính, không

có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì
Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công, vô tư. Mình
đã chí công, vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những tính tốt ngày càng
tăng thêm. Người nhấn mạnh: Người cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng
làm nền tảng, mới hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người coi đạo đức của
người cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, suối; “Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài
giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [49, tr.252 - 253].
Hồ Chí Minh cho rằng: “Làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng
nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [53, tr.283].
Ngay từ những năm đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản, trong
tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã chỉ rõ tư cách của người cách mạng
trong các mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với việc.
10


Từ giữa những năm 20 của thế kỉ XX cho đến khi qua đời (2/9/1969), Hồ Chí
Minh đã nhiều lần nhấn mạnh đến các tiêu chí, phẩm chất đạo đức của người cán bộ
Đảng viên. Trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh nhiều lần
đề cập đến những phẩm chất cơ bản của người cán bộ, đảng viên:
Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền
thống Nho giáo phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên,
mệnh đề này đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào đó nội dung mới. Nếu
như trước kia, trung quân là trung thành với vua, vì vua là Thiên tử gánh vác
mệnh Trời trông coi vận nước, nước là nước của vua, thì nay phạm trù đó đã

được mang nội hàm mới: Trung với Đảng, trung với nước. Còn hiếu trước đây
chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ, nay
nội dung đó đã được mở rộng, ý nghĩa lớn lao hơn nhiều, không chỉ bó hẹp
trong phạm vi gia đình mà với toàn dân tộc.
Như vậy, tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không
những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, mà còn
vượt qua những hạn chế truyền thống đó. Trung với nước là trung thành với sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ
nhân của đất nước. Hiếu với dân là thương dân, là phục vụ hết lòng để được
dân tin yêu, quý mến. Hiếu với dân trong đó có cha mẹ mình, phải biết phấn
đấu hi sinh, đem lại độc lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho dân, sống cuộc sống
của dân, nói tiếng nói của dân. Hiếu với dân là mỗi cán bộ, Đảng viên phải biết
tin vào dân, dựa và dân, gần gũi, giúp đỡ dân, lo cho cuộc sống của dân ngày
càng tốt hơn. Người nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc
gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [48, tr.47]. Chính quyền phải có trách
nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ
ở, làm cho dân có học hành.
Hiếu với dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là mỗi cán bộ dù ở bất cứ
cương vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải xuất phát từ dân, thực hành dân chủ,
11


“Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm” [56,tr.223].
Hồ Chí Minh dạy rằng, Đảng và Chính phủ trước hết là người lãnh đạo,
và là công bộc của nhân dân chứ không phải là “quan cách mạng”, không phải
để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do
của tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu

gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam
không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh đã nói “điều chủ chốt nhất” của
đạo đức cách mạng là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng”, là “tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân”, là “trung với nước,
hiếu với dân”, hơn nữa là “tận trung, tận hiếu” thì mới xứng đáng vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thực trung thành của nhân dân.
Hai là, gần dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương con người
Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là danh nhân văn hoá, trước hết bởi tư
tưởng nhân văn cao cả của Người. Đối với cán bộ, một trong những yêu cầu
hàng đầu mà Người đặt ra là tinh thần hy sinh, phục vụ nhân dân, tin tưởng và
yêu mến nhân dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, yêu thương đồng bào, yêu
nhân loại. Đối với Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người trước hết được dành
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột: từ người phu
đường đến người bạn tù trong ngục tối và cả em bé đang nằm trong nôi.
Hồ Chí Minh yêu thương dân tộc, yêu thương con người và đó là điểm
xuất phát để Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng
nhân loại khỏi áp bức bất công. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”
[48, tr.161]. Tình yêu thương bao la và sâu sắc này mang lại sức mạnh cho Hồ
12


Chí Minh, cho những người cách mạng vượt qua muôn trùng thử thách, khó
khăn trên đường cách mạng.
Với Hồ Chí Minh, yêu thương con người không phải chỉ tồn tại như
một đạo lý mà phải được thể hiện sinh động trong hoạt động hàng ngày giữa
người với người. Điều đó đòi hỏi mọi người phải luôn luôn chặt chẽ, nghiêm
khắc với bản thân mình, rộng rãi, độ lượng với người khác, phải biết cách

nâng con người lên chứ không phải là hạ thấp, càng không phải là vùi dập
con người.
Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở sự bao
dung đối với những người có sai lầm, khuyết điểm, nhưng đã nhận rõ sai lầm,
khuyết điểm và đang cố gắng sửa chữa. Chính tình yêu thương đó đã đánh thức
những gì tốt đẹp nhất mà Hồ Chí Minh tin tưởng rằng trong mỗi người đều có,
tuy nhiều, ít có khác nhau. Với sự khoan dung và lòng bác ái, Hồ Chí Minh đã
cảm phục được không chỉ nhân dân tiến bộ yêu chuộng hoà bình trên thế giới,
mà còn làm cho ngay chính kẻ thù cũng kính phục nể sợ.
Yêu thương con người còn được thể hiện bằng lẽ sống: sống có tình, có
nghĩa. Hồ Chí Minh trước lúc đi xa còn dặn lại cán bộ, đảng viên phải có tình
đồng chí, yêu thương lẫn nhau. Tình yêu thương được thể hiện trên nguyên tắc
phê bình và tự phê bình một cách chân thành, nghiêm túc, giữa những người có
cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp. Nó hoàn toàn xa lạ với thái
độ dĩ hoà vi quý, bao che khuyết điểm cho nhau. Nó càng xa lạ với thái độ yêu
nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh, là nguy cơ đưa đến những tổn thất cho Đảng,
cho cách mạng. Hồ Chí Minh nói:
Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có
Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình
nghĩa đồng bào đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Biết chủ
nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu
sách mà sống không có tình có nghĩa, thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin
[ 56, tr. 554].
13


Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi
người. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường
xuyên nhất, từ “Đường cách mệnh” cho đến bản “Di chúc” cuối cùng.

Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống Việt Nam.
Người đã giữ lại những gì tốt đẹp nhất của quá khứ, lọc bỏ những gì không còn
phù hợp và đưa vào những nội dung mới, với mục tiêu vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi chữ: cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ, rất cụ
thể và dễ hiểu đối với mọi người.
Theo Hồ Chí Minh: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng; lao động có
kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh,
không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ: Lao động là nghĩa
vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Cần tức là: “Siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai…” [49,tr.632].
Nghĩa là cần thì việc gì, dù khó khăn đến mấy cũng làm được…
Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời” [49, tr.633].
Lười biếng là kẻ địch của chữ cần và cũng là kẻ địch của dân tộc.
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của
của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to cho đến cái nhỏ,
nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi” [49, tr.636] , không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu
bù. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của người. Hồ Chí Minh
còn ví cần mà không kiệm như thùng không đáy, “Kiệm tức là không lãng phí
thời giờ, của cải nhân dân”.
Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải của nhân
dân, không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của nhân dân.
Phải “trong sạch, không tham lam”. “ Không tham địa vị. Không tham tiền tài.
14


Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang
minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham

làm, ham tiến bộ” [49, tr.252].
Hồ Chí Minh đã chỉ ta những hành vi trái với chữ liêm như: “Cậy quyền
thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư”
“Dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc, nguy hiểm, không dám làm, là tham vật uý lao.
Gặp giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh uý tử” [49, tr.640 - 641].
Hồ Chí Minh khẳng định một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ.
Chính: “ Nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn” [49, tr.643].
Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ,
luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới,
luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: Để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho được, cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó
khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy
cũng tránh. Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước, cho dân.
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính, Hồ Chí Minh
còn ví hình ảnh như một cây cần phải có gốc, rễ, cần phải có cành, lá, hoa quả
mới hoàn toàn. Con người cũng phải hoàn toàn như vậy, đối với người cán bộ
cách mạng thì không thể thiếu bốn đức ấy. Bởi người cán bộ phải làm gương
trước, tức là làm cái cho người ta soi sáng để sửa, do vậy cán bộ cách mạng
phải chính trước mới giúp được người thành chính.
Mình không chính mà muốn người khác chính là điều không thể. Mỗi
cán bộ, đảng viên cần, kiệm, liêm, chính là vô cùng cần thiết. Bởi vì: “Cán bộ
các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”
[49, tr.641].
15



Chí công vô tư: Người nói “đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc”, “khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”, “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Đối lập với chí công
vô tư là dĩ công vi tư, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Chí công vô tư về thực chất là nối tiếp cần, kiệm, liêm, chính; cần, kiệm,
liêm chính sẽ dẫn đến chí công vô tư; ngược lại đã chí công, vô tư một lòng vì
nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện cần, kiệm, liêm, chính và có
nhiều tính tốt khác. Theo Hồ Chí Minh đã chí công vô tư thì khuyết điểm ngày
càng ít mà những tính tốt ngày càng thêm.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm cho
con người vững vàng trước mọi thử thách: “giàu sang không thể quyến rũ,
nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, và có thể: “trợn
mắt coi khinh ngàn lực sỹ, cúi đầu làm ngựa đám nhi đồng”.
Bốn là, có tinh thần quốc tế trong sáng
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất
quan trọng nhất của đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó được
bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân. Người cán bộ cách mạng phải
nêu cao tinh thần quốc tế vô sản thuỷ chung trong sáng. Đó là tinh thần đoàn
kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô
sản đều là anh em” .
Quan niệm đạo đức về tinh thần quốc tế trong sáng của Hồ Chí Minh được
thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đó là, đoàn kết với nhân dân lao động
các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi áp bức bóc
lột; đoàn kết giữa những nguoiwf vô sản anh em trên toàn thế giới để đánh đổ
chế độ tử bản xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới; đoàn kết với
nhân dân tiến bộ vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội; đoàn kết quốc tế gắn
liền với chủ nghĩa yêu nước. Với người, chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn
đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa sô
vanh, vị kỷ, dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi, kỳ thị dân tộc.

16


1.2.2. Người cán bộ phải có tài năng để tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng
Đạo đức được xác định là yêu cầu đầu tiên, quan trọng nhất, là gốc của
người cán bộ cách mạng, nhưng Hồ Chí Minh cũng không bao giờ xem nhẹ tài
năng. Người yêu cầu người cán bộ phải vừa có đức, vừa có tài. Người luôn
nhấn mạnh đến năng lực lãnh đạo và thực hành công việc của người cán bộ.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ tốt nhất thiết phải là người có đủ phẩm chất và năng
lực, mà những phẩm chất và năng lực đó phải được biểu hiện bằng những việc
làm cụ thể, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Quý trọng người hiền tài, “chiêu hiền đãi sĩ” được thể hiện rất rõ trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Ngay từ khi chuẩn bị giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã
có bài viết nổi tiếng để tập hợp người tài cho cách mạng Việt Nam: “Nước nhà
cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số hai mươi triệu
đồng bào chắc không thiếu người có tài, có đức”.… “nay muốn sửa đổi điều
đó, trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi
nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải
báo cáo ngay cho Chính phủ biết.
Báo cáo phải nói rõ: tên, tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở
của người đó.
Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo ngay cho đủ”
[48, tr.451].
Tài năng không bỗng dưng mà có, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ cách
mạng phải luôn chăm lo, rèn luyện, thực hiện lời dạy của Lênin là: “Học, học nữa,
học mãi !”. Và chính Người là tấm gương sáng về tinh thần tự rèn luyện nâng cao
trình độ, không ngừng học tập để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Tài luôn đi đôi với đức. Đức và tài có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Hồ Chí Minh luôn kết hợp chặt chẽ hai yêu cầu này khi đánh giá, giáo dục, sử

dụng cán bộ. Hồ Chí Minh giải thích: đạo đức và tài năng là hai mặt không thể
tách rời trong mỗi người cán bộ cách mạng. Người luôn coi trọng tiêu chí đạo
17


đức, lấy đức làm gốc, làm nền tảng của người cách mạng. Nhưng người không
bao giờ xem nhẹ tài năng. Cán bộ có tài mới làm được việc. Theo người: “cán
bộ có đức, không có tài như ông Bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được
ai” [52, tr.184]
Người yêu cầu cán bộ cách mạng phải vừa “hồng” vừa “chuyên”, trong
Di chúc trước lúc đi xa, Người đã để lại những lời căn dặn tâm huyết của mình
đối với thế hệ trẻ “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ,
đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”
vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và cần thiết” [56, tr.498].
Người cán bộ có tài là người có trình độ năng lực, giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ, giàu về kinh nghiệm, có nhiều sáng kiến. Muốn trở thành người có
tài, Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ cách mạng không những phải thường
xuyên nâng cao trình độ mà phải biết tự rèn luyện, học hỏi đúc kết từ thực tiễn
hoạt động cách mạng. Người nói: “sáng kiến không phải cái gì kỳ lạ. Nó chỉ là
kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh, trong những điều
kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực” [49, tr.244].
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đạo đức của người cán bộ cách mạng
là đạo đức hành động chứ không phải là điều mong muốn, là lời nói suông. Do
đó, đức phải gắn liền với tài. Nếu có đức mà không có tài thì cũng vô dụng.
Song có tài mà không có đức thì lại nguy hiểm, vì nó có thể làm điều xấu và
gây ra cái ác một cách có tính toán. Đức là nhân tố làm cho tài năng trở lên hữu
ích đối với con người và xã hội. Theo Hồ Chí Minh không thể tách rời cũng
không thể tuyệt đối hoá mặt này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia và ngược
lại giữa hai mặt đức và tài.

1.3. Phƣơng pháp lãnh đạo và phong cách công tác của ngƣời cán bộ
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thường
xuyên quan tâm đến việc xây dựng và sửa đổi cách lãnh đạo, cũng như lối làm
việc của tổ chức Đảng và của cán bộ, đảng viên.
Phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác hay nói theo cách mà Hồ
Chí Minh thường dùng chính là cách lãnh đạo và tác phong làm việc. Những
18


khái niệm cách lãnh đạo, lề lối làm việc từ khi bước vào đổi mới, dần dần được
thay bằng khái niệm phương thức lãnh đạo và phong cách công tác, nhưng về
nội dung, bản chất quan niệm của Hồ Chí Minh không có gì thay đổi.
Là một lãnh tụ của Đảng, hơn ai hết, Hồ Chí Minh sớm thấy rõ ý nghĩa
và tầm quan trọng của việc chấn chỉnh, xây dựng phương thức lãnh đạo của các
cấp uỷ Đảng và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên. Do đó, ngay trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp đang gay go ác liệt, năm 1947, Người đã viết tác phẩm
Sửa đổi lối làm việc. Bởi vì Người hiểu rằng, để đưa cách mạng đến thắng lợi,
trước hết Đảng phải hoạch định đường lối đúng. Nghị quyết của Đảng là nhân
tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu. Nhưng điều có ý nghĩa nhất là phải làm cho
nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng thấm sâu vào tâm lý quốc dân, đi
vào cuộc sống, biến nghị quyết của Đảng thành hành động của quần chúng, tạo
ra các đột phá trong các lĩnh vực cách mạng. Muốn cho công việc thành công
phải có cán bộ tốt, có năng lực và điều quan trọng là phải có phương pháp lãnh
đạo đúng. Hồ Chí Minh chỉ rõ những chức năng cơ bản của hoạt động lãnh đạo
là xác định đường lối, tổ chức lựa chọn và bố trí cán bộ; vận động, tuyên
truyền, tổ chức cho quần chúng thực hiện và kiểm soát việc thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng… Để làm tốt những chức năng trên, người chỉ ra
phương pháp lãnh đạo đúng phải tuân thủ ba khâu lớn:
1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất
định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng vì dân chúng chính là những

người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng
giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có
quần chúng giúp mới được [49, tr.285 - 286].
Trước hết phải quyết định mọi vấn đề cho đúng mà muốn quyết định mọi
vấn đề cho đúng thì “bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho
hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm đấu
19


tranh, lòng ham muốn, tình hình thiết thực của quần chúng (…) nếu cứ làm theo
ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình rồi đem cột vào cho quần chúng thì
khác nào “khoét chân cho vừa giầy”… “ai cũng đóng giầy theo chân, không ai đóng
chân theo giầy”. Điều đó đòi hỏi muốn có nghị quyết đúng, người lãnh đạo phải sâu
sát, lắng nghe ý kiến của cơ sở, của quần chúng, chú trọng nghiên cứu những sáng
tạo của địa phương, đơn vị… hết sức tránh việc tuỳ tiện, phiến diện, chủ quan trong
việc định ra những chủ trương lãnh đạo: “vì vậy muốn giải quyết vấn đề cho đúng,
ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại” [49, tr.286].
Sau khi có nghị quyết, thì việc tổ chức thi hành cho đúng là khâu có ý
nghĩa quyết định. Việc đó lại phụ thuộc ở việc lựa chọn, bố trí cán bộ phù hợp
với yêu cầu, nội dung, tính chất của nhiệm vụ, của công việc.
Trong việc bố trí, giao nhiệm vụ cho cán bộ, Hồ Chí Minh căn dặn khi
giao công tác cho cán bộ, cần phải chỉ rõ ràng, sắp đặt đầy đủ, vạch rõ những
điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra, những vấn đề quyết định rồi thả
cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán
bộ sẽ như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng
kiến. Và Người cũng dạy rằng, trước khi giao công tác cũng phải bàn kỹ với
cán bộ. Nếu họ gánh vác không nổi, chớ miễn cưỡng trao việc đó cho họ, khi
đã trao cho họ phải hoàn toàn tin họ. Không nên sớm ra lệnh này, trưa ra lệnh

khác. Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi việc gì mình cũng
nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không xong, cán bộ thì
vơ vẩn cả ngày, buồn rầu, nản chí. Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải đào tạo
một mớ cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới
thành công. Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”,
không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng” [49, tr. 281].
Người kịch liệt phê phán tệ quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng,
Người cho rằng những người mắc bệnh này thích ngồi bàn giấy hơn là đi xuống
cơ sở để hiểu đúng thực tế, thích dùng mệnh lệnh hành chính hơn là kiên nhẫn
giáo dục quần chúng một cách có lý, có tình. Do đó mà đường lối, chính sách
20


×