Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (956.72 KB, 82 trang )





LUẬN VĂN:

Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái
Nguyên hiện nay










mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới đất nước, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế. Điều đó tạo ra nhiều cơ hội, cho sự phát triển đất
nước. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng gặp không ít những thách thức, khó khăn.
Bởi vì, trong bối cảnh hiện nay trước sự biến đổi phức tạp của tình hình kinh tế, chính trị
trên thế giới, trước chiến lược diễn biến hòa bình của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù
địch trong và ngoài nước đang tìm mọi cách chống phá chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh
vực, đặc biệt chúng thường xuyên chống phá chúng ta trên lĩnh vực tư tưởng nhằm làm
cho hệ tư tưởng tư sản chiếm vị trí thống trị trong đời sống tinh thần của cán bộ và nhân


dân ta. Hơn nữa, do ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường đang hình thành lối sống
thực dụng trong một bộ phận cán bộ. Trong cơ chế thị trường xuất hiện sự may rủi làm
nảy sinh tư tưởng cầu may dễ dẫn đến thế giới quan tôn giáo, duy tâm.
Để đưa đất nước phát triển sánh kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ cán bộ
nói chung, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng có đủ bản lĩnh chính trị, phẩm
chất cách mạng và năng lực lãnh đạo và chỉ đạo những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, tư
tưởng của Đảng và nhà nước. Đại hội X của Đảng đã nêu lên những tiêu chí về cán bộ
trong thời kỳ mới
Cán bộ phải là người có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với
Tổ quốc, với Đảng, hết lũng phấn đấu vỡ lợi ớch của nhõn dõn, của dõn tộc; cú
bản lĩnh chớnh trị vững vàng, không dao động trước những khó khăn, thử thách;
có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực,
trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tụn trọng tập thể, gắn bú với nhõn dõn
[16, tr.136].
Với ý nghĩa như vậy, yêu cầu bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng không
chỉ là quan trọng và cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp Trung ương, cấp tỉnh,
thành, huyện mà còn quan trọng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã, phường,

thị trấn). Bởi vì, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là người trực tiếp lãnh đạo và tổ chức thắng lợi
mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước tại cơ sở. Đồng
thời, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cũng là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, thường xuyên lắng
nghe, giải quyết và đề đạt ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân với Đảng và Nhà
nước. Mặt khác thế giới quan duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
trong công cuộc đổi mới vừa qua tuy đã có bước phát triển nhưng nhìn chung vẫn còn thấp,
chưa ngang tầm nhiệm vụ đòi hỏi của địa phương, điều đó cũng đã gây cản trở không ít cho
công cuộc đổi mới ở cơ sở.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi, nằm trong vùng trung du và miền núi Bắc bộ, ở
phía Đông bắc của Tổ quốc. Tỉnh Thái Nguyên mới được tái lập tháng 1/1997, có vị trí
chiến lược an ninh - quốc phòng thuận lợi, tài nguyên khoáng sản khá phong phú và là

nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống. Khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Thái
Nguyên để đưa đồng bào dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước xây dựng cuộc
sống văn minh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần cùng cả nước thực hiện
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là
nhiệm vụ vô cùng khó khăn đặt ra trước Đảng và nhân dân ta mà trực tiếp là Đảng bộ và
nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên có một vai trò rất quan
trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, tư tưởng và an ninh - quốc
phòng của tỉnh Thái Nguyên. Tuy vậy, đứng trước yêu cầu của quá trình đổi mới đất
nước họ đã biểu hiện những hạn chế về trình độ, phẩm chất, năng lực tư duy sáng tạo, tổ
chức thực tiễn…trong đó có sự hạn chế về thế giới quan duy vật biện chứng.
Để đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình mới, đội ngũ này phải không ngừng học
tập, rèn luyện về mọi mặt, trong đó cần phải nâng cao trình độ lý luận; thực hiện nguyên
tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng niềm tin, lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Đây chính là lý do tác giả luận
văn chọn đề tài: “Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
Triết học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Gắn liền với quá trình làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, do yêu cầu thực tiễn công
cuộc đổi mới đất nước đặt ra, từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay đã có một số
bài viết, đề tài nghiên cứu ở những góc độ khác khau liên quan đến tình hình nghiên cứu
đề tài:
- Lê Xuân Vũ (1986), “Thế giới quan Mác-Lênin trong đời sống tinh thần của
nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 1986, (6).
- Trần Thanh Hà (1993), Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng
viên người dân tộc Khơ-Me ở đồng bằng sông Cửu long trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Thước (1993), Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí

thức Việt Nam, Luận án phó tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
- Bùi ỉnh (1998), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng đối với cán bộ
đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thái Bình (2000), “Triết học Mác-Lênin với việc năng cao thế giới quan
và phương pháp luận khoa học cho sinh viên”, Tạp chí sinh hoạt lý luận Phân viện Đà
Nẵng, (43).
- Nguyễn Văn Vinh (2001), Phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho sĩ
quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học
viện chính trị quân sự, Hà Nội.
- Trần Viết Quân (2002), Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Bùi Kiến Thưởng (2004), Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng
cho học viên trường chính trị tỉnh Hà Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

- Nguyễn Thị Luyến (2005), Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Tất cả những bài viết, đề tài nghiên cứu trên đã đề cập tới:
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan Mác-Lênin nói riêng, cấu trúc,
chức năng của chúng.
- Vai trò và tính tất yếu xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để hình thành thế giới quan
duy vật biện chứng. Những nguyên tắc phương pháp luận chung trong việc xây dựng thế
giới quan duy vật biện chứng cho nhân dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm xây dựng thế giới quan duy vật

biện chứng cho một số đối tượng cụ thể đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu “Vấn đề bồi dưỡng
thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái
Nguyên hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở của tỉnh
nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích làm rõ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với hoạt động
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên.
- Đánh giá thực trạng thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh
Thái Nguyên.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu thế giới quan của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (xã,
phường, thị trấn) ở tỉnh Thái Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện
chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thời gian từ năm 2006 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của triết học
Mác-Lênin như: Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội với ý thức xã hội, mối quan hệ giữa điều

kiện khách quan và nhân tố chủ quan, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn.
Luận văn còn dựa trên quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước cũng như nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên.
Luận văn kế thừa, chọn lọc những tư tưởng của các bài viết, các công trình nghiên
cứu của các tác giả có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phân tích và tổng hợp; quy nạp -
diễn dịch; lịch sử - logíc và phương pháp điều tra xã hội học (khảo sát thực tế).
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
Bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ cán bộ này.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật
biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.

Về mặt thực tiễn luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy cho Trường Chính trị tỉnh Thái Nguyên.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
thế giới quan duy vật biện chứng
và những nhân tố ảnh hưởng tới thế giới quan duy vật biện chứng của đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở
ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay


1.1. quá trình hình thành Thế giới quan duy vật biện chứng và vai trò của thế
giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
1.1.1. Quá trình hình thành thế giới quan duy vật biện chứng
Để tồn tại, loài người phải thích nghi với thế giới xung quanh và tìm cách biến đổi
thế giới đó theo những yêu cầu cuộc sống của mình. Muốn vậy, con người cần phải hiểu
biết về thế giới cũng như về chính bản thân mình. Trong quá trình tìm hiểu đó, con
người gặp hàng loạt vấn đề cần được làm rõ, ví dụ như: Thế giới quanh ta là gì? Nó có
bắt đầu và kết thúc không? Sức mạnh nào chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con
người là gì? Quan hệ của nó với thế giới bên ngoài ra sao? Nó có thể biết gì và làm gì
với thế giới đó? Vì sao có người tốt, kẻ xấu? Cuộc sống con người có ý nghĩa
gì?…Những câu hỏi như vậy được đặt ra với mức độ khác nhau đối với con người từ
thời nguyên thuỷ cho đến ngày nay và cả mai sau. Giải đáp những vấn đề cơ bản thiết
thực nói trên, sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm của họ về thế
giới, về vai trò của con người trong thế giới. Đó chính là thế giới quan.
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ nhưng khái niệm thế giới quan có tính
lịch sử, nó xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVIII do nhà triết học cổ điển Đức là Cantơ
nêu ra. Sau đó khái niệm thế giới quan được sử dụng rộng rãi trong tất cả các tác phẩm
của các nhà triết học Đức nửa đầu thế kỷ XIX. C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng khái
niệm thế giới quan trong các tác phẩm của mình. Sau C.Mác và Ph.Ăngghen các nhà triết
học duy vật khác cũng sử dụng khái niệm này. Vào thế kỷ XX khái niệm thế giới quan
được các nhà triết học Liên Xô và các nhà triết học các nước nghiên cứu và định nghĩa
dưới nhiều cấp độ khác nhau. Chẳng hạn, G-Getx cho rằng: “Chúng tôi hiểu thế giới
quan như một hệ thống nhất định những lời giải đáp những vấn đề về cội nguồn của thế

giới về nguồn gốc, về ý nghĩa cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội” [18, tr.42].
Hoặc trong Từ điển triết học (Liên Xô) bản dịch ra tiếng việt có ghi như sau: “Thế giới
quan là toàn bộ những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và
quan hệ của từng người, của một tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay của xã hội nói
chung đối với thực tại”[62, tr.539]. Trong Từ điển triết học có viết: “Thế giới quan là hệ
thống những quan điểm, khái niệm và quan niệm về toàn bộ thế giới xung quanh con

người; đó là toàn bộ những quan điểm về thế giới, về những hiện tượng trong tự nhiên và
trong xã hội, các quan điểm triết học xã hội và chính trị, luân lý, mỹ học, khoa học”[63,
tr.906]. Từ điển tiếng Việt đã nêu rõ: “Thế giới quan là quan niệm thành hệ thống về thế
giới, về các hiện tượng tự nhiên và xã hội”[64, tr.901].
Từ những quan niệm khác nhau về thế giới quan ở trên, ta có thể hiểu: Thế giới
quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể (có thể là của một người, một tập
đoàn người, một giai cấp hay toàn xã hội) về thế giới, về vị trí, vai trò của con người
trước thế giới đó, tạo thành cơ sở lý luận định hướng hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người.
Thế giới quan bao hàm cả nhân sinh quan, tức toàn bộ những quan niệm về cuộc
sống của con người và loài người. Thế giới quan ra đời, hình thành phát triển, luôn luôn
gắn với sự phát triển của thực tiễn xã hội và sự hiểu biết thế giới, nhận thức khoa học của
con người nhằm giúp con người khám phá, chinh phục và cải tạo thế giới khách quan.
Cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, thế giới quan được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau, song có ba hình thức cơ bản đó là: thế giới quan thần thoại,
thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Trong ba hình thức thế giới quan chủ
yếu nói trên thì thế giới quan triết học là hình thức thế giới quan có trình độ phát triển cao
hơn, sâu sắc hơn so với thế giới quan thần thoại và tôn giáo. Trong thế giới quan triết học
lại bao gồm nhiều loại khác nhau như: thế giới quan duy tâm, thế giới quan duy vật siêu
hình và thế giới quan duy vật biện chứng.
Thế giới quan thần thoại là phương thức cảm nhận thế giới rất đặc trưng cho “tư
duy nguyên thuỷ”; đó là hình thái biểu hiện một cách tập trung và khái quát thế giới quan
của người nguyên thuỷ. Trong thần thoại các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín

ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái có thật và cái hoang đường…hoà quyện vào nhau,
diễn tả thế giới quan của cả một cộng đồng người, một dân tộc. Với sự ra đời của tôn
giáo, thế giới quan tìm được hình thái mới để thể hiện tính đa dạng cũng như để củng cố
và thâm nhập sâu hơn vào cuộc sống thường ngày của con người. Thế giới quan thần
thoại còn tiếp tục được tồn tại ở nhiều giai đoạn phát triển về sau này của xã hội và ở
nhiều nơi trên thế giới với những hình thức, mức độ khác nhau.

Trên cơ sở của thế giới quan thần thoại, thế giới quan tôn giáo xuất hiện. Thế giới
quan tôn giáo là sự phản ánh hiện thực khách quan một cách hư ảo, hoang đường. Nó ra
đời khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, khi trình độ hiểu biết, nhận thức của
con người về hiện thực khách quan còn hết sức thấp kém, khi con người còn bất lực trong
việc giải thích và tìm ra bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Vì vậy con người
đã thần thánh hoá các hiện tượng tự nhiên xã hội, đã gán cho chúng một bản chất “siêu tự
nhiên”, một sức mạnh “siêu thế gian”, lấy niềm tin không có cơ sở khoa học thay cho tri
thức. Về thực chất, thế giới quan tôn giáo có quan hệ rất chặt chẽ với thế giới quan duy
tâm. Tuy nhiên, cần thấy một khía cạnh khác của tôn giáo đó là sự thể hiện nguyện vọng
được giải thoát khỏi những đau khổ và vươn tới hạnh phúc của con người. Nền tảng trong
thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo bao hàm cả niềm tin vào khả năng đạt được
một cuộc sống tốt đẹp. Mặt tích cực đó làm cho tôn giáo đã tồn tại trong hầu hết các dân
tộc trên thế giới và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của xã hội với nhiều mức độ khác
nhau.
Như vậy, về bản chất, thế giới quan thần thoại thống nhất với thế giới quan tôn
giáo. Nhưng nếu thế giới quan thần thoại chưa có hệ thống, hỗn độn thì thế giới quan tôn
giáo có hệ thống nhất định. Có thể nói thế giới quan tôn giáo là sự hệ thống hoá thế giới
quan thần thoại và do đó cao hơn thế giới quan thần thoại. Tính quy luật chung của sự
hình thành thế giới quan tôn giáo là đi từ đa thần tới nhất thần. Do đó thế giới quan thần
thoại và thế giới quan tôn giáo cùng đồng hành cho tới ngày nay.
Tính tích cực của tư duy con người có bước chuyển biến về chất nhờ sự xuất hiện
của tầng lớp lao động trí óc trong xã hội cổ đại. Con người bước đầu có ý thức về mình
như một thực thể tách khỏi tự nhiên. Tư duy con người hướng sự “phản tư” (tiếng Hy

Lạp reflxio nghĩa là suy ngẫm, đánh giá) vào chính hoạt động của bản thân mình; từ đó
một phương thức mới của tư duy để nhận thức thế giới được hình thành - tư duy triết học.
Khác với thần thoại, triết học diễn tả thế giới quan của con người không phải bằng những
biểu tượng thần thoại hoặc niềm tin tôn giáo mà bằng một hệ thống các phạm trù. Các
phạm trù triết học đóng vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức thế giới.
Nó không chỉ nêu ra các quan niệm của mình về thế giới, mà còn chứng minh các quan

điểm đó bằng lý tính, bằng lý luận khoa học.
Ngay từ khi ra đời, triết học đã tồn tại như là hệ thống những quan điểm lý luận
chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Chỉ có triết học mới
có thể giải quyết được những vấn đề duy nhất của thế giới quan mà không một khoa học
cụ thể nào có thể làm được. ở đây, triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận, “hạt nhân” lý
luận của thế giới quan. Vì ngoài các quan điểm triết học, thế giới quan còn thể hiện ở các
quan điểm chính trị, kinh tế, đạo đức, thẩm mỹ…Tuy nhiên, các quan điểm đó đều dựa
trên cơ sở lý luận chung, đó là triết học.
Với ý nghĩa như vậy, triết học được xem như một trình độ tự giác trong quá trình
phát triển thế giới quan, là học thuyết về thế giới quan. Đương nhiên thế giới quan được
hình thành từ toàn bộ tri thức và kinh nghiệm sống của con người và xã hội loài người.
Tri thức do các khoa học cụ thể đưa lại là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành những quan
niệm nhất định về từng mặt, từng bộ phận của thế giới. Với phương thức tư duy đặc thù
của mình, triết học tạo nên hệ thống lý luận bao gồm những quan điểm chung nhất về
thế giới như một chỉnh thể, trong đó có con người và mối quan hệ của nó với thế giới
xung quanh.
Triết học bao giờ cũng đóng vai trò hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học là
sự thể hiện cô đọng tập trung nhất thế giới quan của mỗi giai cấp, mỗi thời đại lịch sử
nhất định. Nó thể hiện chiều sâu của tư tưởng, thể hiện trình độ cao của trí tuệ con người.
Thế giới quan triết học luôn giữ vai trò chủ đạo định hướng các hành vi và đạo đức, lối
sống của con người. Nó giúp cho con người nhận thức và hành động theo mục tiêu lý
tưởng của mình.

Như vậy, chúng ta thấy tình độ phát triển và hình thức biểu hiện của thế giới quan
phát triển từ thấp đến cao, từ chưa khoa học đến khoa học, từ thế giới quan thần thoại đến
thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. Từ thời cổ đại đến nay, cả ba hình thức
thế giới quan này vẫn đồng thời tồn tại trong sự đan xen, thâm nhập vào nhau. Chúng có
vị trí, vai trò khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, ở các cộng đồng người, các nhóm
xã hội và các cá nhân khác nhau.
Vấn đề trung tâm của mọi thế giới quan đều là mối quan hệ giữa con người với thế

giới, cho nên tất cả các hình thức thế giới quan ở giai đoạn tương đối phát triển của nó
đều có liên quan đến vấn đề cơ bản của triết học: đó là vấn đề quan hệ giữa vật chất và ý
thức cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định cái nào từ đó có thể phân chia
ra hai loại thế giới quan chủ yếu đối lập nhau là thế giới quan duy vật và thế giới quan
duy tâm.
Lịch sử triết học là lịch sử đấu tranh giữa hai đường lối triết học cơ bản: thế giới
quan duy vật và thế giới quan duy tâm. Thế giới quan duy tâm thường gắn liền với tôn
giáo và không thể đi đôi với khoa học. Thế giới quan duy vật gắn bó hữu cơ với khoa học
tự nhiên và thể hiện tư tưởng của các lực lượng xã hội tiến bộ, đang lên.Thế giới quan
duy vật cổ đại phản ánh thế giới một cách chất phác, mộc mạc nhưng về cơ bản đúng với
những hiện tượng khách quan muôn màu, muôn vẻ. Kế thừa những tinh tuý của thế giới
quan duy vật cổ đại, thế giới quan duy vật cận đại bằng phương pháp phân tích qua thực
nghiệm đã giải phóng khoa học tự nhiên ra khỏi thần học, khẳng định trí tuệ con người
đối với sự phản ánh hiện thực khách quan. Thế giới quan duy vật cận đại là hệ tư tưởng
của giai cấp tư sản cách mạng đang lên đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ lúc bấy
giờ nên nó là vũ khí tư tưởng đấu tranh lật đổ phong kiến. Với việc giai cấp vô sản bước
lên vũ đài lịch sử và sự ra đời của chủ nghĩa Mác, thế giới quan duy vật đã phát triển lên
giai đoạn cao của nó là thế giới quan duy vật biện chứng.
Nhờ sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng khoa học, chủ
nghĩa duy vật triết học của Mác là chủ nghĩa duy vật triệt để, duy vật không chỉ trong tự
nhiên mà cả trong xã hội. Thế giới quan duy vật biện chứng đã giải quyết mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và xã hội một cách đúng đắn nhất.

1.1.2. Cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng
Thế giới quan duy vật biện chứng được xây dựng trên những tiền đề kinh tế xã hội
và những tư tưởng, văn hoá tiên tiến của nhân loại, của thời đại, mà trực tiếp nhất là được
dựa trên cơ sở phản ánh khái quát, đúng đắn, đầy đủ và sâu sắc về mặt triết học những tư
liệu do khoa học và thực tiễn mang lại. Thế giới quan duy vật biện chứng bao gồm ba
nhân tố cơ bản đó là tri thức khoa học, niềm tin khoa học và lý tưởng cách mạng.
- Tri thức khoa học

Tri thức là yếu tố cơ bản để hình thành thế giới quan. Thế giới quan không thể có
được nếu không có tri thức. Bất kỳ thế giới quan nào trước hết cũng chứa đựng những tri
thức nhất định về thế giới.
Tri thức khoa học là sự hiểu biết đúng đắn sâu sắc của con người về thế giới, là kết
quả của quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn đúng đắn của con người trong hiện
thực khách quan. Tri thức khoa học của con người có nhiều loại khác nhau như những tri
thức về tự nhiên, về xã hội, về con người hoặc cũng có thể đi sâu vào một lĩnh vực
chuyên ngành hẹp như: tri thức về kinh tế, chính trị, văn hoá, tri thức về khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, tri thức về ngôn ngữ, tin học…Trong nội dung tri thức khoa học
của thế giới quan duy vật biện chứng, tri thức triết học Mác-Lênin đóng vai trò hạt nhân.
Bởi vì, chính triết học lý giải về mặt thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ các
sự kiện mà khoa học và thực tiễn đem lại và biểu hiện chúng dưới bức tranh khái quát về
hiện thực khách quan. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tri thức thì chưa hẳn đã có thế giới
quan duy vật biện chứng. Tri thức khoa học chỉ gia nhập vào thế giới quan duy vật biện
chứng khi nó trở thành niềm tin khoa học của con người. Chỉ khi đó thì tri thức mới trở
nên bền vững và sâu sắc, mới có giá trị định hướng và là sức mạnh cho con người vươn
lên cải tạo hiện thực.
- Niềm tin khoa học
Niềm tin khoa học là một nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật
biện chứng. Niềm tin khoa học là đúng đắn và vững chắc bởi nó có cơ sở là tri thức lý
luận khoa học với thực tiễn. Đó là sự hoà quyện một cách hữu cơ giữa tri thức, tình cảm
và ý chí cá nhân trong mỗi con người hay mỗi cộng đồng xã hội. Toàn bộ những tri thức

mà chủ thể đã lựa chọn và chấp nhận tạo nên sự rung cảm, cảm xúc, thái độ và ý chí sẵn
sàng, quyết tâm hành động theo những mục tiêu xác định.
Niềm tin khoa học được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học. Niềm tin khoa
học là nguồn gốc tích cực của mỗi cá nhân, mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp xã hội. Nó
có vai trò như là một động lực thúc đẩy con người vươn tới khát vọng nhận thức và cải
tạo thế giới hiện thực với tư cách chủ thể của thế giới quan. Niềm tin khoa học chi phối
một cách mạnh mẽ nhận thức, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và hành động cách

mạng của mỗi con người. Nó đòi hỏi hành động của mỗi người phải dựa trên cơ sở tri
thức khoa học và tuân theo những giá trị và chuẩn mực đúng đắn của xã hội. Nếu con
người làm một việc gì đó mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, của tư
tưởng, thì họ sẽ bị mất đi những xung động của ý chí, nghị lực, lòng nhiệt tình và sự cổ
vũ cần thiết đối với hiệu quả của bất kỳ công việc gì, đặc biệt là công việc có ý nghĩa to
lớn đối với xã hội và giai cấp của mình.
Con người trở thành người với ý nghĩa cao quý của nó chỉ khi nào được khích lệ
bởi một niềm tin chân chính: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh…là những
con người điển hình đã có một niềm tin khoa học vững chắc vào giai cấp vô sản. Các bậc
vĩ nhân đó không chỉ nắm vững chân lý mà còn là tấm gương sáng ngời về lối sống theo
niềm tin khoa học.
Niềm tin khoa học giúp cho con người tăng thêm nghị lực, củng cố ý chí, quyết
tâm, giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, những phút giây hiểm nghèo,
thậm chí sẵn sàng hy sinh bản thân mình vì những mục tiêu mà mình cho là cao cả.
Do vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở một tri thức khoa học sẽ có tác dụng thúc
đẩy xã hội phát triển.
- Lý tưởng cách mạng
Lý tưởng là hình thức đặc biệt của thế giới khách quan, là ý thức về cái đang tồn
tại và triển vọng phát triển của nó; là niềm tin nhìn vào thế giới như cái cần phải có theo
khát vọng của cá nhân, của một tập đoàn người hoặc là của một giai cấp hay của cả một
cộng đồng người rộng lớn.

Trong cuộc sống của mình, con người không thể sống mà không có lý tưởng. Lý
tưởng là trạng thái hoàn hảo nhất mà người ta mong muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con
người hành động để thoả mãn các nhu cầu lợi ích. Những quan niệm của con người về
tương lai, về lý tưởng sẽ hình thành một hình thức tâm lý với tư cách là niềm hy vọng cao
cả tạo nên một sự khát khao hiến dâng cả bản thân mình cho tương lai.
Lý tưởng mang tính lịch sử, nó có thể tiến bộ hay lạc hậu tuỳ thuộc vào hình thái
của các quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, lý tưởng cũng mang tính giai cấp và
mang tính đảng nhất định. Lý tưởng của giai cấp vô sản khác với lý tưởng của giai cấp tư

sản; lý tưởng của Đảng cộng sản khác với lý tưởng của các đảng phản cách mạng…
Lý tưởng cách mạng là một nhân tố quan trọng trong thế giới quan duy vật biện
chứng về mặt định hướng cho toàn bộ hoạt động sống của cá nhân và tập đoàn xã hội
hoặc giai cấp. Nó là một nhân tố kích thích sự phấn đấu vươn lên làm chủ của con người,
làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Sự phát triển của một cá nhân hay của tập đoàn người nào đó không chỉ quy vào
sự tăng lên tri thức về thế giới, mà còn phụ thuộc vào sự tăng cường khả năng cải tạo thế
giới, biến thế giới đang có thành thế giới cần phải có để đáp ứng nhu cầu phát triển của
con người, của một tập đoàn hay của một giai cấp nào đó.
Các nhà kinh điển Mác-Lênin đặc biệt nhấn mạnh tính tất yếu phải chú ý đến quá
trình biến tri thức thành niềm tin, thành lý tưởng nhằm hướng chủ thể vào việc đạt tới
chân lý và cải tạo hiện thực. Sống có lý tưởng đúng đắn, cao thượng sẽ làm cho mỗi
người cách mạng có thái độ, lập trường sống, lao động, học tập và công tác tích cực, lành
mạnh. Từ đó giúp họ vươn tới những giá trị, mục tiêu cao đẹp, đích thực như: lòng nhân
ái, lòng vị tha và những phẩm chất chân, thiện, mỹ; đồng thời giúp cho họ biết đấu tranh
phòng chống, ngăn chặn và đẩy lùi mọi cái ác, cái xấu, cái tiêu cực và lạc hậu trong xã
hội.
Tóm lại, ba nhân tố cơ bản trong cấu trúc của thế giới quan duy vật biện chứng
luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động, đan xen và thâm nhập vào nhau
trong một chỉnh thể thống nhất. Trong ba nhân tố cơ bản cấu thành thế giới quan duy vật
biện chứng, nhân tố “tri thức khoa học”, là nhân tố quan trọng nhất, có vai trò quyết định

sự hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Còn nhân tố “niềm tin khoa
học” và “lý tưởng cách mạng” có vai trò trong quá trình biến tri thức thành hoạt động cải
tạo thế giới phục vụ cho con người.
1.1.3. Đặc điểm của thế giới quan duy vật biện chứng
Thế giới quan duy vật biện chứng là sản phẩm tinh thần của con người, phản ánh
hiện thực thông qua nhu cầu, lợi ích, lý tưởng của cá nhân và xã hội, phát triển cùng với
sự phát triển của nhận thức và thực tiễn xã hội.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn được hiểu là một hệ thống những tri thức về

tự nhiên, xã hội và con người cùng những định hướng giá trị của con người trong quan hệ
với hiện thực dựa trên việc giải quyết một cách duy vật biện chứng vấn đề cơ bản của
triết học. Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng đã đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong sự phát triển của thế giới quan triết học nói riêng, thế giới quan nói
chung. Vì vậy, thế giới quan duy vật biện chứng có những khác biệt căn bản với các thế
giới quan khác đã hình thành trong lịch sử.
Trước hết, thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học. Thế giới
quan duy vật biện chứng được hình thành trên cơ sở phản ánh khái quát về mặt triết học
những thành tựu khoa học và thực tiễn. Toàn bộ các tri thức của nhân loại, đặc biệt là các
tư tưởng triết học phương Tây từ thời cổ đại đã được C.Mác, Ph.Ăngghen, Lênin kế thừa
có phê phán. Các ông đã tìm ra những hạt nhân hợp lý không chỉ của chủ nghĩa duy vật
mà cả trong chủ nghĩa duy tâm, đặc biệt là chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Những tư
tưởng về kinh tế - chính trị, về chủ nghĩa xã hội không tưởng xuất hiện từ các thế kỷ
trước đều được C.Mác và Ph.Ăngghen kế thừa có chọn lọc. Chính điều đó đã làm cho
chủ nghĩa duy vật biện chứng như là sự kết tinh những tư tưởng tiến bộ của loài người.
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan mang tính cách mạng. Tính
cách mạng thể hiện ở chỗ, thế giới quan duy vật biện chứng nó là cơ sở khoa học để phê
phán chủ nghĩa duy tâm dưới mọi hình thức của nó, nó đối lập với chủ nghĩa duy vật tầm
thường và cả chủ nghĩa duy vật siêu hình. Nó không thừa nhận bất cứ một cái gì là tuyệt
đích, cuối cùng. Nó khẳng định sự phát triển là một nguyên lý phổ biến của thế giới
khách quan. Nó chống lại mọi sự bảo thủ, trì trệ, ngưng đọng từ tư duy cho đến hành

động. Vì vậy, nó tạo ra tinh thần cách mạng cho con người, tạo ra ý thức cải biến thế giới
khách quan để phục vụ cuộc sống của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng là vũ
khí tư tưởng sắc bén nhất cho các ngành khoa học chống lại các tư tưởng phản khoa học.
Đó là “một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ sự mê tín nào, một thế
lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”[32, tr.50].
Tính cách mạng của thế giới quan duy vật biện chứng còn thể hiện ở chỗ nó phục
vụ nhu cầu cải tạo thế giới tư bản chủ nghĩa thành thế giới mới cộng sản chủ nghĩa mà
giai cấp vô sản là người đi đầu trong cuộc cải tạo đó. C.Mác đã viết: “các nhà triết học đã

chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[37,
tr.12]. Như vậy, thế giới quan duy vật biện chứng có tính phê phán, tính chiến đấu cao.
Thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ giúp con người khám phá và giải thích thế
giới mà còn giúp con người tìm ra cách cải tạo thế giới.
Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học và cách mạng. Nó
không hình thành một cách tự phát ở mỗi người cách mạng; trái lại, nó chỉ có thể được
hình thành, phát triển một cách tự giác thông qua quá trình được giáo dục, bồi dưỡng, học
tập, rèn luyện và hoạt động thực tiễn cách mạng của chủ thể thế giới quan.
Bởi vậy, tuỳ theo trình độ nhận thức, học vấn, kinh nghiệm, và cương vị công tác
của mỗi người mà việc học tập, nghiên cứu và lĩnh hội tri thức khoa học nhằm nâng cao
trình độ thế giới quan duy vật biện chứng có những cấp độ khác nhau. Cho nên, việc giáo
dục, bồi dưỡng, nâng cao lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, thế giới quan duy vật
biện chứng nói riêng cho đội ngũ cán bộ phải được tiến hành đồng thời với việc bồi
dưỡng, nâng cao tri thức khoa học và khả năng, trình độ hoạt động thực tiễn của họ.
1.1.4. Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng đối với đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở
1.1.4.1. Vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm cán bộ được hiểu như sau: “Người làm công
tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa
học. Cán bộ chính trị. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức,
phân biệt với người thường không có chức vụ. Cán bộ tổ chức”[64, tr.109]. Cán bộ còn

có bộ phận được coi là lực lượng chủ chốt là “cái khung, sườn” - “bộ phận nòng cốt”
trong các quá trình hoạt động của xã hội. Đó là bộ phận “chủ chốt, quan trọng nhất, có
tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”[64, tr.174]. Cán bộ chủ chốt là
“những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong một tập thể, có quyền
ra những quyết định về chủ trương, có trách nhiệm và quyền điều hành một tập thể, một
đơn vị, một tổ chức để thực hiện những nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí
có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định”[39, tr.35-36]. Có
thể hiểu cán bộ chủ chốt là những người giữ vững cương vị lãnh đạo hay quản lý cao nhất

có tác dụng làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc một hệ thống tổ chức đặc biệt là trong
hệ thống chính trị.
Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) cơ cấu tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị nước ta được phân chia thành bốn cấp: Trung ương; tỉnh, thành phố,
huyện, quận và cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn). Trên một ý nghĩa nhất định, cấp cơ sở là
tế bào của xã hội, sự phát triển của toàn xã hội là do sự phát triển của các đơn vị cơ sở
hợp thành. Khi cơ sở còn yếu kém thì chưa thể nói đến sự vững mạnh của xã hội được.
Ngược lại sự phát triển của xã hội cũng sẽ là điều kiện đảm bảo cho các cơ sở còn yếu
kém phấn đấu vươn lên. Mối quan hệ giữa cấp cơ sở và toàn xã hội là mối quan hệ giữa
cái bộ phận và cái toàn thể.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở được xác định bao gồm cấp uỷ viên mà trước
hết là bí thư, phó bí thư Đảng uỷ, chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch, phó
chủ tịch Uỷ ban nhân dân, uỷ viên thường trực và những trưởng đầu ngành ở cơ sở là
người quyết định mọi công việc ở cơ sở và là người chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân
dân về sự thành công hay thất bại của sự nghiệp đổi mới ở cơ sở.
Trong quan niệm của người Việt Nam, danh xưng “cán bộ” càng có ý nghĩa cao
đẹp. Đó là một lớp người tiên phong, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khó, hy sinh cho cách
mạng, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân và dân tộc; là những người lãnh đạo và tổ chức
các phong trào cách mạng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Như vậy,
trong mọi trường hợp, cán bộ chính là lực lượng chủ chốt trong đội ngũ những người sử
dụng lực lượng thực tiễn để hiện thực hoá các tư tưởng, tổ chức thực hiện ý tưởng trong

cuộc sống. Trong lĩnh vực hoạt động chính trị, cán bộ là những người “đứng mũi chịu
sào” trong việc hoạch định thực thi các chính sách, quyết định không chỉ riêng lĩnh vực
hoạt động chuyên ngành, mà hơn thế nữa, họ là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về
sự phát triển của xã hội.
Cấp cơ sở là nơi nhân dân cư trú, sinh sống gắn bó chặt chẽ trong các quan hệ kinh
tế, dòng tộc và văn hoá. Cấp cơ sở có vị trí rất quan trọng, là cấp gần dân nhất, là cầu nối
giữa Đảng, nhà nước với nhân dân, là nơi trực tiếp tổ chức thực thi pháp luật, chính sách
của nhà nước, đưa đường lối chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội. Đồng

thời phản ánh tính hiệu lực của hệ thống thể chế, chính sách. Do đó, chất lượng hiện thực
hoá các chính sách của các thể chế nhà nước, hành chính phụ thuộc rất lớn vào cấp này.
Mọi đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước đều bắt nguồn
từ cơ sở và hướng về cơ sở. Cấp cơ sở đồng thời là nơi trực tiếp thoả mãn, đáp ứng các
nhu cầu hợp pháp của nhân dân, cung cấp dịch vụ cho nhân dân; là nơi xây dựng và phát
triển tiến trình dân chủ, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; là nơi trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất; là nền tảng cơ bản của xã hội; là
nơi có thể tổ chức huy động, phát huy cao độ nội lực của quần chúng nhân dân.
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cấp cơ
sở là nơi động viên triệt để sức người, sức của cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất tổ quốc.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ
trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cấp cơ sở càng có vị
trí vô cùng quan trọng. Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng xây dựng hệ thống chính trị cấp
cơ sở, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) đã nhấn mạnh: “Đổi mới và nâng
cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước”[14,
tr.165].
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn
hiện nay
Cấp cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức mọi hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội ở địa
phương, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; là nơi kiểm nghiệm, phản

ánh và cung cấp một cách khách quan những căn cứ cho việc bổ sung, hoàn thiện đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Do đó, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vị trí, vai trò cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, luôn tăng cường xây dựng,
củng cố, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn đều khẳng
định, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có vững, có mạnh thì địa phương mới mạnh, quốc gia
mới mạnh được.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quyết định trong việc triển khai tổ
chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở

tại cơ sở. Đồng thời, đội ngũ này còn tạo nên những thành tựu, cung cấp những bài học
kinh nghiệm có giá trị, góp phần quan trọng cho sự phát triển chung của đất nước. Trên
thực tế hiện nay, một số xã, phường, thị trấn đang diễn ra tình trạng có một số chủ
trương, nghị quyết, chính sách pháp luật của Đảng và nhà nước đã thực hiện không đến
nơi đến chốn, thậm chí có lúc vi phạm nghiêm trọng gây hậu quả xấu. Nguyên nhân
chính ở những nơi đó là do thiếu những cán bộ có năng lực tổ chức thực hiện đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng một cách năng động, sáng tạo và phù hợp với địa
phương mình.
Cấp cơ sở là địa bàn sinh sống của đại bộ phận dân cư; nơi diễn ra mọi hoạt động
kinh tế xã hội của nhân dân; nơi trực tiếp và chủ yếu thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, thực
hiện sự quản lý của Nhà nước đối với nhân dân. Cho nên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở là cấp cuối cùng gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với bà con, là chỗ dựa của Đảng và
Nhà nước, là nhịp cầu quan trọng nối Đảng với dân, đưa tư tưởng của Đảng đến với dân
và phản ánh tình hình, nguyện vọng của nhân dân cho Đảng. Nhân dân tin Đảng, theo
Đảng hay không, phần lớn và trực tiếp thông qua cán bộ cơ sở mà trước hết là cán bộ chủ
chốt. Thông qua đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ý Đảng - lòng dân được thống nhất,
làm cho Đảng và Nhà nước có sơ sở ăn sâu, bám rễ trong quần chúng, tạo nên máu thịt
giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ
thống tổ chức bộ máy vững mạnh và phong trào cách mạng quần chúng ở cơ sở.

Đối với hệ thống tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những trụ
cột, là trung tâm đoàn kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ
chức đó. Họ tác động đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ cơ sở, đến
năng lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của các
đoàn thể quần chúng ở cơ sở. Hệ thống tổ chức bộ máy ở cơ sở có hoàn thành được
nhiệm vụ của mình hay không, trước hết là tuỳ thuộc vào đội ngũ cán bộ chủ chốt. Vì thế,
xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức
cách mạng là góp phần vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Đối với phong trào quần chúng tại địa phương, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

không những là người dẫn dắt, định hướng các phong trào, mà còn biết tổng kết kinh
nghiệm nhân lên các điển hình tiên tiến trong lao động sản xuất, trong xây dựng nếp sống
văn hoá và trong nhiều phong trào khác nữa tại cơ sở.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vững mạnh sẽ là một trong những nguồn cán
bộ quan trọng cung cấp cho Đảng và Nhà nước. Thật vậy, cán bộ cơ sở đều ở khâu đầu
tiên của hoạt động sản xuất, công tác, chiến đấu…nên họ có thực tế, có tri thức và bề dày
kinh nghiệm. Cơ sở còn là môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ rèn luyện và
trưởng thành.
Khi đề cập đến đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, Hồ Chí Minh từng khẳng định:
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở “không những là cái khâu liên hệ, mà là cái kho dồi
dào cho Đảng lấy thêm lực lượng. Nếu đội ngũ cán bộ này phát triển và củng cố thì Đảng
sẽ phát triển và củng cố; bằng không thì Đảng sẽ “khô héo”[43, tr.273-274]. Người còn
căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”[44, tr.510]. Đặc biệt đội ngũ cán bộ ở cơ sở được Người rất coi trọng: “Cấp xã là
người gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công
việc đều xong xuôi”. Cho nên, tại Hội nghị cán bộ miền núi tháng 9-1962, Người nhấn
mạnh: “Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ địa phương, cán bộ nữ và cán bộ xã về mọi mặt”.
Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể khẳng định đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt và là một trong những vấn đề có ý nghĩa

chiến lược, quyết định sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
Đứng trước những nhiệm vụ to lớn của thời kỳ đổi mới, trước những hoàn cảnh và
tình hình mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở phải là người rất trung thành,
luôn hăng say phấn đấu làm tròn nhiệm vụ, kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết
của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng. Mặt khác họ phải có đủ sức phụ trách, giải
quyết những công việc được giao phó. Vì vậy, họ phải hiểu biết toàn diện trên mọi lĩnh
vực, không chỉ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị mà còn phải
có kiến thức quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…có
khả năng tiếp nhận và xử lý thông tin nhạy bén phục vụ cho công tác lãnh đạo của Đảng,

Nhà nước và chính quyền tại địa phương. Có như vậy họ mới đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn đặt ra hiện nay.
Bước vào thế kỷ XXI, khi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng
phát triển một cách toàn diện cả về quy mô, tính chất và chiều sâu thì thực tiễn càng cấp
bách đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một sự đột phá có tính chất quyết định là tạo lập cho
được một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cấp cơ sở, đảm bảo
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng mới.
Trong những đòi hỏi gay gắt của công tác cán bộ, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
nổi lên như một nhiệm vụ quan trọng và bức thiết. Xuất phát từ yêu cầu phát triển nóng bỏng
của thực tiễn qua các giai đoạn, đồng thời trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm và truyền thống từ
lịch sử mà ngay từ Đại hội VI,VII,VIII và được cụ thể hoá tại Đại hội IX, Đảng ta xác định
tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: “Xây dựng, chỉnh đốn hệ thống các
học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp” [16, tr. 142].
Đào tạo, bồi dưỡng là khâu có ý nghĩa quyết định đến trình độ, chất lượng cán bộ.
Công việc này gồm nhiều hình thức khác nhau, nhưng trong đó việc đào tạo, bồi dưỡng
thế giới quan duy vật biện chứng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Bởi vì, thế giới
quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ có phương pháp nhận thức đúng đắn sự
vật, đề ra kế hoạch, định hướng và biện pháp thực hiện khoa học và hiệu quả.

1.1.4.2. Thế giới quan duy vật biện chứng ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức và
năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
C.Mác viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của
mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình” [35, tr.34].
Triết học mà C.Mác đề cập ở đây chính là triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Quan điểm cơ bản trên đây của C.Mác là cơ sở để hiểu rõ vai trò của thế giới
quan duy vật biện chứng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở.
- Thế giới quan duy vật biện chứng giúp người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở định
hướng đúng đắn trong cuộc sống

Thế giới quan duy vật biện chứng giúp người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nhìn rõ xu
thế phát triển tất yếu của thời đại, của đất nước, mở rộng tầm nhìn và từ đó họ cũng xác
định được tương lai tốt đẹp của chính địa phương mình. Trên cơ sở đó, họ sẽ hình thành
lý tưởng sống tốt đẹp, quyết tâm tu dưỡng, rèn luyện để đạt mục tiêu đó.
Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở xác
định rõ được quyền hạn và trách nhiệm của mình từ đó mà họ cố gắng rèn luyện đạo đức,
không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ
được giao.
Việc thấm nhuần thế giới quan duy vật biện chứng sẽ giúp cho người cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở tự phấn đấu rèn luyện để không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, giúp
họ hiểu rõ vai trò của quần chúng nhân dân do đó mà có thái độ tôn trọng dân, gần dân, đi
sâu, đi sát tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của dân, tuyên truyền vận động dân thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lôi cuốn dân vào con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội làm giàu đẹp quê hương, đất nước.
Thế giới quan duy vật biện chứng còn giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
biết nêu cao tinh thần bảo vệ cái đúng, cái tốt, lên án cái ác, cái xấu, cái tiêu cực; biết tỏ
rõ thái độ kiên quyết, dứt khoát trong dấu tranh phòng chống, ngăn chặn và đẩy lùi mọi
biểu hiện tiêu cực, suy thoái về đạo đức, lối sống đang tồn tại ở những hình thức, mức độ
khác nhau tại cơ sở.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho
họ tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tin vào đường lối của Đảng, của
giai cấp công nhân và sức mạnh của toàn dân. Từ đó họ sẽ hăng hái, quyết tâm vươn lên
để đạt tới những mục đích đã xác định. Nói cách khác, thế giới quan duy vật biện chứng
giúp cho người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở định hướng những giá trị ở tương lai tốt đẹp
hơn.
Chỉ có rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, vượt qua những cám dỗ của đời thường, tỉnh
táo vượt qua lối sống xa lạ; có những định hướng giá trị đúng đắn, biết trân trọng những
giá trị văn hoá, lịch sử, truyền thống cách mạng, của dân tộc, biết tôn trọng và nắm bắt
những quy luật khách quan mới giúp họ trở thành những con người có đức, có tài, cống

hiến sức lực của mình cho đất nước. Từ đó người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở sẽ ra sức
học tập, nghiên cứu về lý luận cũng như tổng kết thực tiễn để nâng cao khả năng của
mình về mọi mặt nhằm hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
- Thế giới quan duy vật biện chứng rèn luyện khả năng tư duy năng động, sáng tạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
Việc phát triển thế giới quan duy vật biện chứng sẽ góp phần nâng cao năng lực tư
duy lý luận, khắc phục tư duy siêu hình cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đáp ứng
yêu cầu công cuộc đổi mới. Thật vậy, đặc điểm của công tác lãnh đạo, quản lý của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở khác với cấp trung ương, tỉnh, huyện, những cấp chiến
lược, trung gian. Cấp cơ sở là cấp chiến thuật, cấp hành động, nên tư duy cán bộ cơ sở
thiên về tư duy hành động, tư duy cụ thể. Tất cả những công việc ở cơ sở hầu hết đều
mang tính cụ thể, từ việc ký tên, đóng dấu, tiếp dân, xử lý các tranh chấp…đến các
công việc chung hơn như ra các nghị quyết, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cũng như là sự cụ thể hoá các nghị quyết, chính sách của Đảng và nhà nước. Do quá
trình quen với việc giải quyết những sự vụ, sự việc gần như không gắn bó với nhau và
do hạn chế về thế giới quan duy vật biện chứng, nên tư duy cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
dễ rơi vào siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, phiến diện…
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có kinh nghiệm phong phú, đây là mặt mạnh trong
của đội ngũ này, càng quan trọng hơn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,

trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đặc biệt là ở cơ sở. Sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới ở cơ sở là những công việc hết sức mới mẻ và vô
cùng khó khăn, phức tạp, chúng ta không thể tìm mọi lời giải đáp từ trong sách vở
hoặc trong lý luận có sẵn cho những yêu cầu của thực tiễn cách mạng đặt ra. Chính
phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở đã đề ra những bài học kinh nghiệm
quý báu cho phong trào cách mạng vượt qua khó khăn và cũng từ đó, Đảng ta có cơ sở
rọi lại lý luận, bổ sung, sửa đổi, điều chỉnh lý luận, tổng kết, khái quát thành lý luận
mới, định hướng, chỉ đạo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cán bộ cơ sở nói chung và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng rất cần tri thức kinh
nghiệm. Kinh nghiệm đã giúp cho cán bộ cơ sở trong thời gian qua giải quyết được nhiều

vấn đề cụ thể, giản đơn ở cơ sở, nhưng nếu chỉ dừng lại ở kinh nghiệm hoặc tuyệt đối hoá
tri thức kinh nghiệm sẽ rơi vào bệnh kinh nghiệm, phương pháp tư duy siêu hình, tuyệt
đối hoá cái cụ thể, cái đơn nhất đem áp dụng nó vào cái phổ biến cái đa dạng, cái toàn
thể. Như vậy, cán bộ cơ sở không thể tránh khỏi lúng túng, bất lực, thậm chí giải quyết
sai lầm những vấn đề khó khăn, phức tạp do yêu cầu của công cuộc đổi mới ở cơ sở đặt
ra. Chỉ có trên cơ sở trang bị thế giới quan duy vật biện chứng, người cán bộ mới nâng
cao được trình độ, khả năng tư duy năng động, sáng tạo của mình, đi từ kinh nghiệm đến
lý luận khoa học, khắc phục tư duy siêu hình đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới ở cơ sở.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát
triển như vũ bão. Những thành tựu vĩ đại của nó được nhanh chóng áp dụng vào đời
sống xã hội, đem lại những bước phát triển kỳ diệu cho nhân loại, đưa loài người lên
một trình độ văn minh mới - văn minh trí tuệ. Nền văn minh đó đòi hỏi trình độ trí
tuệ, khả năng tư duy năng động, sáng tạo của đội ngũ cán bộ phải được nâng lên. Thế
giới quan duy vật biện chứng sẽ đảm bảo cho đội ngũ cán bộ nói chung và đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng có được phương pháp tư duy khoa học, nắm được quy
luật, xu hướng phát triển của thế giới, có cái nhìn toàn cục, phát hiện và xử lý tình
huống kịp thời các vấn đề nảy sinh ở cơ sở, đảm bảo sự phát triển kinh tế xã hội, giữ
vững được an ninh - chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của

×