Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở hà tĩnh thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.69 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

TRẦN THỊ BÍCH THỦY

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HÀ TĨNH
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

TRẦN THỊ BÍCH THỦY

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HÀ TĨNH
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Đình Cúc


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Trần Thị Bích Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................2
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, VAI TRÒ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP CƠ SỞ ....................................................................................................8
1.1. Lý luận và vai trò của lý luận trong hoạt động thực tiễn ..........................8
1.2. Lý luận chính trị - chất lượng, hiệu quả dào tạo bồi dưỡng lý luận
chính trị ......................................................................................................................... 12
1.3. Đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
- yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam .................15
1.4. Vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong hệ thống chính trị và
vai trò của lí luận chính trị đối với hoạt động lãnh đạo của đội ngũ này ........21
Tiểu kết Chương 1 ...........................................................................................35
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TĨNH ...........................................36
2.1. Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt ở Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay ...................................................................36

2.2. Những quan điểm cơ bản và một số giải pháp nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở
Tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn tới .....................................................................58
2.2.1. Những quan điểm cơ bản ...............................................................58
2.2.2. Những giải pháp chủ yếu ...............................................................60
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................80
KẾT LUẬN .....................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................83

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những người có vai trò hết sức quan trọng
trong các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội. Vì vậy,
đội ngũ cán bộ này, phải là những người thật sự tiêu biểu, có lập trường giai
cấp và bản lĩnh chính trị kiên định; có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ học
vấn, năng lực công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao. Trong
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
đang đứng trước những thử thách mới. Đúng như Đảng ta đã nhận định:
"Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên
ngoài, cán bộ đảng viên hàng ngày hàng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân
tố rất phức tạp kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng trước những thử thách mới" [08, tr.137].
Trong tình hình thực tế hiện nay "không t cán bộ, đảng viên phai nhạt lí
tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất, đạo đức, sức chiến đấu của một bộ
phận tổ chức cơ sở đảng suy yếu" 08, tr.67 . Vì vậy, nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức và trình độ lí luận chính trị cho cán bộ chủ chốt theo
yêu cầu giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng là một trong những

vấn đề có tính thời sự.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "cán bộ là cái gốc của mọi
công việc", "công việc thành hay bại là do cán bộ tốt hay kém". Đảng ta luôn
xác định: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền
với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Do đó, đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở luôn là khâu then chốt
trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào.

2


Trước khi thành lập Đảng, dưới hình thức các tổ chức cách mạng yêu
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị, xây dựng lực lượng cán bộ để lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh
giải phóng dân tộc. Đội ngũ cán bộ luôn là yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh
và sức chiến đấu của Đảng, của chính quyền nhân dân, đứng lên đấu tranh giành
chính quyền, dành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong giai đoạn
đầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Ngày nay, trước những yêu cầu của nhiệm vụ mới, tiếp tục sự nghiệp đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ càng trở nên cấp bách. Đại hội XI của Đảng đã xác định "Tiếp tục
đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa t nh chiến đấu, t nh thuyết
phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Ch Minh, quan điểm đường lối của Đảng, ch nh sách pháp
luật của Nhà nước” [15, tr. 256]
Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ là nội dung thường xuyên
của công tác xây dựng Đảng, vừa là đòi hỏi thiết yếu của việc đổi mới, nâng cao
chất lượng tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đó, việc đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đóng vai trò then chốt.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm, (khoá IX) khẳng định:
"Hệ thống ch nh trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận

động nhân dân thực hiện đường lối, ch nh sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
huy động mọi khả năng phát triển kinh tế xã - hội, tổ chức cuộc sống của dân cư.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng hệ thống
ch nh trị hiện nay".
Cơ sở là nơi cuộc sống có nhiều diễn biến phong phú, sinh động, đa dạng
và phức tạp. Để thực hiện được nhiệm vụ thực sự là cầu nối giữa nhân dân với
Đảng, Nhà nước, đưa các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đến với
3


nhân dân… đội ngũ cán bộ cơ sở phải có năng lực, trình độ, phẩm chất, bản lĩnh
và kinh nghiệm. Để đáp ứng yêu cầu đó, những năm qua, nhiều quy định về
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn; quy định
chế độ chính sách đối với công chức cơ sở cùng nhiều chủ trương nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở… đã được Đảng và Nhà nước ban hành và
từng bước thực hiện. Tuy nhiên, một mặt, việc triển khai và cụ thể hoá các quy
định chính sách còn nhiều bất cập, mặt khác, bản thân những quy định, chính
sách đó còn có những mặt chưa phù hợp, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Nhìn
một cách tổng thể, mặc dù chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở có nhiều tiến bộ,
nhưng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém và bất cập; hoạt động của hệ thống
chính trị cấp cơ sở vẫn gặp nhiều khó khăn, lúng túng, chưa tạo được động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cả nước nói chung, Hà Tĩnh nói riêng
có nhiều đóng góp quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ của Đảng, Nhà
nước, góp phần đưa tỉnh Hà Tĩnh và cả nước phát triển, tuy nhiên, trong thời
gian qua, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở còn nhiều bất cập trên nhiều phương
diện như phẩm chất, năng lực, tư duy lý luận, trình độ chuyên môn…
Để đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, cán bộ lãnh đạo
nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở Hà Tĩnh nói riêng phải được rèn

luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó chú trọng đến đào tạo, bồi dưỡng
lí luận chính trị.
Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính
trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh - thực trạng và giải pháp” làm
luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề về lý luận chính trị và đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị đã
có nhiều công trình nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu:
4


Vũ Ngọc Am: “Đổi mới công tác giáo dục lý luận ch nh trị, tư tưởng
cho cán bộ cơ sở”, Nxb Chính trị quốc gia 2003; “Một số vấn đề đổi mới
phương pháp giáo dục lý luận ch nh trị”, Nxb thông tấn 2009.
Hai cuốn sách này đã nêu ra những nội dung chung về phương pháp
giáo dục chính trị tư tưởng, tập trung đưa ra một số giải pháp cơ bản trên cơ
sở nghiên cứu lý luận và yêu cầu chung.
Đề tài “Đổi mới tư duy lý luận vào việc đổi mới nội dung, chương trình
bài giảng và giáo trình giảng dạy lý luận Mác - Lênin trong nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ V” (Đề tài cấp bộ do giáo sư Nguyễn Đức Bình
làm chủ nhiệm năm 1991).
Mục tiêu của đề tài nhằm hình thành một hệ thống giáo trình giáo khoa
mới về lý luận Mác - Lênin vận dụng ở nước ta.
Đề tài “Những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hình thành
chương trình trung cấp lý luận ch nh trị trong các trường đào tạo cán bộ của
Đảng và Nhà nước ở tỉnh, thành phố đến năm 2000” (Chủ nhiệm: thạc sỹ
Tống Trần Sinh - đề tài cấp bộ, tháng 4 năm 1995).
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này góp phần đóng góp xây dựng
chương trình học tập trung cấp lý luận chính trị cho Trường chính trị tỉnh,
thành phố và các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, đáp ứng việc đào tạo,

bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp cơ sở trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Đề tài 0206 - KHXH “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp huyện thuộc diện tỉnh ủy quản lý trong thời kỳ phát triển mới của Tỉnh Hà
Tĩnh” (Cơ quan chủ trì: Ban tuyên giáo tỉnh ủy, chủ biên: Nguyễn Thiện,
tháng 6 năm 2006).
Đề tài này đề cập đến một số nội dung về lý luận, tầm quan trọng và vai
trò của công tác cán bộ trước yêu cầu mới, đặc biệt là trình độ của cán bộ, chủ
yếu là cán bộ cấp huyện ở Hà Tĩnh…
5


Nhìn chung, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ từ cơ sở
lý luận đến thực tiễn và xây dựng hệ thống giải pháp khoa học, đồng bộ cho
vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên
địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc nghiên cứu để tài
này góp phần vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
cấp cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà
Tĩnh, khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ vừa thiếu, vừa yếu như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Hệ thống những vấn đề lí luận và bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở, bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao
chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lí luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà
Tĩnh, từ đó vận dụng vào thực tiễn của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ những vấn đề chung về lý luận chính trị và vai trò đào tạo lý
luận chính trị đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục lý luận chính trị
cho cán bộ cấp cơ sở ở Tỉnh Hà Tĩnh và nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất một số giải pháp trong công tác đào tạo lý luận chính trị cho
cán bộ cấp cơ sở ở tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn vừa qua,
tìm ra nguyên nhân thành công, tồn tại, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở ở Hà Tĩnh trong thời gian sắp tới.
6


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn: Học thuyết Mác - Lênin về vai trò của lý
luận đối với hoạt động thực tiễn; tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ.
Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra, đánh giá...
Ngoài ra luận văn rất coi trọng các phương pháp nghiên cứu tài liệu đối
với các đề tài khoa học xã hội và nhân văn về nội dung này.
6. Đ ng g p của luận văn
Làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của công tác giáo dục chính trị cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Phân tích, đánh giá thực trạng của công tác đào tạo lý luận chính trị cho
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Hà Tĩnh trong thời gian qua.
Bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp giáo dục lý luận chính
trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ỏ Hà Tĩnh trong giai đoạn tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng trong việc nghiên cứu
để xây dựng tiêu chuẩn, kế hoạch, xác định mục tiêu, phương pháp trong công
tác đào tạo lí luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, từ đó đổi mới nội

dung, phương pháp giảng dạy, tuyên truyền lí luận chính trị ở trường chính trị
tỉh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 6 tiết.
Chƣơng 1. Lí luận chính trị, vai trò lí luận chính trị đối với hoạt động của
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Chƣơng 2. Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lí
luận chính trị cho cán bộ cấp cơ sở ở Tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay.
7


Chƣơng 1
MỘT SỐ NỘI DUNG VỀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ
1.1. Lý luận chính trị và vai trò của lý luận chính trị trong hoạt
động thực tiễn
1.1.1. Lý luận chính trị
Lý luận chính trị ra đời và được hình thành trên cơ sở nền tảng tư tưởng
của học thuyết mác-xít, một hệ thống hoàn chỉnh và khoa học với những quan
điểm triết học, kinh tế học và chính trị xã hội.
Được xây dựng trên cơ sở tiếp thu một cách chọn lọc những tinh túy
của các khoa học triết học, mà trực tiếp là triết học cổ điển Đức, đại diện là
phép biện chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩ duy vật của Phoiơbăc; kinh
tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp cùng với sự
tổng kết kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới,
sự ra đời của chủ nghĩa Mác là một biến chuyển cách mạng vĩ đại trong khoa
học tự nhiên và xã hội.
Đánh giá về học thuyết của Mác, Ăngghen khẳng định, Mác đã nêu ra

hai phát hiện vĩ đại nhất, đó là: quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết về
giá trị thặng dư. Bằng phát hiện thứ nhất, Mác đã thực hiện một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới, chỉ ra quy luật phát triển
của xã hội loài người. Với phát hiện thứ hai, Mác đã vạch rõ quy luật riêng
biệt của sự vận động phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của xã hội tư
bản nói chung. Toàn bộ học thuyết tư bản của Mác cấu thành ba bộ phận: triết
học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hôị khoa học, dựa trên cơ sở khoa học là
phép duy vật biện chứng, hay nói như Lênin, phép biện chứng duy vật chính
8


là linh hồn của chủ nghĩa Mác. Chính vì vậy, học thuyết của Mác không chỉ
giải thích thế giới một cách khoa học, đúng đắn mà còn có khả năng cải tạo
thế giới. Đánh giá về những giá trị của học thuyết Mác, Lênin đã khẳng định:
"… l luận đó là l luận lần đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng
trở thành khoa học l luận đó đã dựng lên cơ sở vững chắc cho khoa học ấy
và vạch rõ con đường mà chúng ta cần phải theo" [19, tr.230], "L luận đó đã
chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của một đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng… là tổ
chức cuộc đấu tranh đó mà mục đ ch cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy
ch nh quyền và tổ chức xã hội XHCN" [19, tr. 231].
Với sức mạnh khoa học và cách mạng, chủ nghĩa Mác luôn tìm thấy
sức sống, sức sáng tạo của mình trong đời sống thực tiễn cách mạng và không
ngừng được bổ sung, phát triển ngày càng phong phú bằng những luận điểm,
kết luận khoa học mới trở thành lí luận tiên phong dẫn dắt phong trào cách
mạng thế giới. Từ một học thuyết mang tính tư tưởng, với tính khoa học và
cách mạng, học thuyết vĩ đại của Mác đã trở thành vũ khí lí luận giúp cho giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đấu tranh cải tạo xã hội, đưa xã hội ngày
càng phát triển.
Trên nền tảng tư tưởng học thuyết Mácxít, V.I.Lênin đã phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Mác trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc. V.I. Lênin đã

chứng minh rằng, trong những điều kiện mới, cách mạng XHCN có thể giành
thắng lợi ở một nước và một số nước trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa; đồng
thời với phát hiện đó, ông đã xây dựng thành công học thuyết về nhà nước,
đặc biệt về đảng của giai cấp công nhân, coi đó là điều kiện cơ bản quyết định
thắng lợi trong cuộc cách mạng vô sản cũng như cách mạng XHCN. Với
những cống hiến vĩ đại của mình, Lênin đã góp phần tiếp tục phát triển, hoàn
thiện chủ nghĩa Mác. Với sự kết hợp của chủ nghĩa Mác và sự phát triển chủ
nghĩa Mác bởi V.I.Lênin, chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời. Lí luận chính trị được

9


hình thành, bao gồm ba bộ phận cơ bản: Triết học, Kinh tế chính trị học,
CNXH khoa học. Ở Việt Nam, lí luận chính trị được mở rộng thêm với việc
nghiên cứu về Lịch sử Đảng, Xây dựng Đảng, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà
nước - pháp luật và một số môn lí luận cơ bản khác.
Cùng với các lí luận khoa học khác, lí luận chính trị đã thực sự trở
thành một khoa học hướng dẫn cho Đảng Cộng sản - đội tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động hoàn thành sứ mệnh lịch sử vĩ đại
của mình.
Ngoài ra có thể hiểu lí luận chính trị là hệ thống các quan điểm, chủ
trương, đường lối, chính sách của một đảng, của một giai cấp để giành giữ và
thực thi quyền lực nhà nước.
1.1.2. Vai trò của lí luận trong hoạt động thực tiễn
Với những đặc trưng cơ bản trên, lí luận có vai trò hết sức to lớn đối
với hoạt động thực tiễn, Lênin đã từng khẳng định: "Không có lí luận cách
mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng" 16, tr.30 . Hay cụ thể
hoá hơn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ ra: "Không có lí
luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" 25, tr.243 . Vai trò của lí luận đối
với thực tiễn rất rõ:

- Giúp con người nhận thức đúng đắn thế giới khách quan, xã hội, có
định hướng đúng trong hoạt động thực tiễn
Hoạt động thực tiễn là dạng hoạt động đặc biệt của con người tác động
vào thế giới khách quan nhằm cải tạo biến đổi nó phục vụ cho con người, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội. Để hoạt động này có hiệu quả, con
người cần phải nhận thức đúng đắn thế giới khách quan cùng với những quy
luật vận động nội tại của nó, trên cơ sở đó hướng sự vận động đi theo đúng
quỹ đạo thúc đẩy xã hội phát triển. Lí luận khoa học đã trang bị đầy đủ những
tri thức cần thiết cho con người để thực hiện điều này.
10


- Có khả năng dự báo, đưa ra những phương hướng, giải pháp hiệu
quả cho hoạt động thực tiễn.
Lí luận khoa học với việc nghiên cứu, phát hiện ra xu hướng vận động
phát triển của các sự vật, hiện tượng, không những giúp con người nhận thức
được quy luật vận động của thế giới khách quan, của xã hội mà còn có khả
năng dự báo, vạch ra những phương hướng, biện pháp để thực hiện việc cải
tạo, biến đổi nó đi theo những mục tiêu đã định nhằm phục vụ cho lợi ích của
con người, của xã hội. Vì vậy, lí luận không chỉ giúp con người cải tạo thế
giới, mà còn giúp con người thực hiện hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả.
Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Lí luận như cái kim chỉ
Nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế" 25, tr.233
- Tạo điều kiện cho con người có niềm tin, sức mạnh vật chất trong
hoạt động thực tiễn.
Nói về vai trò của lí luận đối với thực tiễn, Mác cũng chỉ rõ: "Vũ khí
của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ kh , lực lượng
vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng l luận cũng có thể
trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [21,
tr.580 . Thực tế đã xác minh điều đó. Lí luận là dạng hoạt động tinh thần,

thuộc hình thái ý thức xã hội, nhưng khi vận dụng vào trong hoạt động thực
tiễn, nó đã thực sự trở thành sức mạnh vật chất. Nhờ có lí luận chỉ dẫn cho
hoạt động thực tiễn, con người hoàn toàn chủ động trong hoạt động của mình,
trên thực tế, tăng thêm sức mạnh vật chất để chiến thắng tất cả những khó
khăn trở ngại, đạt được mục tiêu cơ bản trong cách mạng. Dưới góc độ chính
trị - xã hội, Mác nói điều này còn có một ý nghĩa rộng lớn hơn. Đó là, khi
nhận thức đúng đắn quy luật vận động của xã hội, quần chúng lao động biết
phải đấu tranh với ai, chống lại thế lực nào, bằng con đường biện pháp gì thì
dù họ có yếu cũng trở thành một lực lượng có sức mạnh vô địch có thể nhấn

11


chìm mọi thế lực phản động, để giải phóng mình và mở đường cho xã hội
phát triển. Từ ý nghĩa quan trọng đó, Lênin cũng đã khẳng định: "Chỉ có đảng
nào được một lí luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai
trò của một chiến sỹ tiên phong" 16, tr. 32
1.2. Lý luận chính trị - chất lƣợng, hiệu qủa đào tạo, ồi ƣỡng lí
luận chính trị
Để chủ nghĩa Mác - Lênin được tuyên truyền sâu rộng trong Đảng,
trong quần chúng, phải tiến hành giáo dục lí luận chính trị. Đây là công việc
hàng đầu của các Đảng Cộng sản nhằm thực hiện thành công mục tiêu xây
dựng CNXH, CNCS trên đất nước mình.
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là các thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến
trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các tài liệu nghiên cứu ở
nước ta, tuy nhiên cách tiếp cận này cũng theo nhiều chiều khác nhau.
Theo Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, 2005: “Đào tạo: làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu
chuẩn nhất định”; “Bồi dưỡng: làm cho năng lực hoặc phẩm chất tăng thêm”.
Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05 tháng 03 năm 2010 của

Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức (có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/05/2010), tại Điều 5 giải thích: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp
nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc
học” và “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng làm việc”.
Từ các cách tiếp cận trên, có thể đưa ra một quan niệm về đào tạo, bồi
dưỡng như sau: đào tạo là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp thích hợp để người được đào tạo có thể đảm nhận được một công việc
nhất định; bồi dưỡng là quá trình nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp
trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó.
12


Đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị là một bộ phận nằm trong quy trình
đó, nó trực tiếp truyền thụ và trang bị cho người học thế giới quan Mác Lênin, nhân sinh quan, đạo đức cách mạng. Từ thế giới quan, nhân sinh quan
cách mạng đó, người học có khả năng tư duy khoa học, có năng lực sáng tạo
trong hoạt động thực tiễn, củng cố lòng tin vào lí tưởng, mục tiêu cách mạng,
vào đường lối của Đảng.
Do đó, giáo dục lí luận chính trị là quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm
hình thành cho người học thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa thông qua việc truyền thụ những nguyên lí lí luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Trên cơ sở đó, giúp cho người học có tư duy khoa học, đạo đức
cách mạng, năng lực sáng tạo trong hoạt động thực tiễn.
Để đạt được những yêu cầu giáo dục trên, giáo dục lí luận chính trị phải
đảm bảo truyền thụ cho người học những tri thức khoa học sau:
- Lí luận Mac - Lênin (bao gồm ba bộ môn cơ bản: triết học Mác –
Lênin; kinh tế chính trị học Mác - Lênin; CNXH khoa học).
- Các môn lí luận chính trị cơ bản: Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử
Đảng, Xây dựng Đảng, Nhà nước, pháp luật.
- Những vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và

Nhà nước.
Đó chính là những nội dung cơ bản trong giáo dục lí luận chính trị.
Đương nhiên với từng đối tượng cụ thể, yêu cầu của nội dung chính trong
giáo dục có thể ở mức độ khác nhau.
Trong đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị, vấn đề được quan tâm hàng
đầu của quá trình này là chất lượng, hiệu quả của đào tạo, bồi dưỡng. Chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị là một tổng thể các tiêu chí nói lên
mức độ truyền đạt, trang bị của chủ thể đào tạo, mức độ, khả năng lĩnh hội,
13


vận dụng của khách thể được thể hiện thông qua các kết quả giảng dạy, học
tập ở trong nhà trường, qua nội dung chương trình, hình thức, phương pháp
giáo dục. Nội dung chương trình đào tạo phải trang bị đầy đủ những tri thức
cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu của hoạt động thực tiễn để học viên có
thể vận dụng một cách hiệu quả vào công tác thực tiễn. Hình thức phương
pháp đào tạo phải phù hợp để học viên có thể nắm vững lí luận cơ bản, hiểu
biết tri thức đó một cách sâu sắc. Cuối cùng, tất cả điều đó phải được thể hiện
bằng thành tích, kết quả học tập cụ thể của học viên phản ánh một cách chính
xác, trung thực mức độ giảng dạy và học tập. Đó chính là chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng.
Hiệu quả đào taọ, bồi dưỡng lí luận chính trị thể hiện ở kết qủa vận
dụng kiến thức của học viên vào công tác thực tiễn khi công tác ở địa
phương. Vì vậy, có thể nói, hiệu quả đào taọ, bồi dưỡng là khả năng vận
dụng sáng tạo những kiến thức đã được học tập của người học vào hoạt động
thực tiễn. Trong giáo dục lí luận chính trị, điều này được thể hiện rất rõ: Đó
chính là năng lực chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn, khả năng xử lí những
tình huống cụ thể ở địa phương, là phẩm chất đạo đức, tư cách của người
cán bộ v.v..
Chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng quan hệ chặt chẽ với nhau.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng quyết định hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng. Hiệu
quả đào tạo, bồi dưỡng là thể hiện chất lượng đào tạo, bồi dưỡng. Không thể
nói chất lượng đào tạo, bồi dưỡng tốt, khi tạo ra một đội ngũ cán bộ chỉ có
bằng cấp mà hạn chế, yếu kém trong năng lực công tác. Vì vậy, có thể nói,
chất lượng đào tạo, bồi dưỡng là điều kiện, còn hiệu qủa của đào tạo, bồi
dưỡng mới là mục đích của đào tạo. Nói đến tầm quan trọng của hiệu quả đào
tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "L luận cốt để áp dụng vào công việc
thực tế, l luận mà không áp dụng vào thực tế là l luận suông" [25, tr.234].
14


1.3. Đào tạo, ồi ƣỡng lý luận chính trị cho cán ộ chủ chốt cấp cơ
sở - yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
1.3.1. Về sự cần thiết phải giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ
Về sự cần thiết phải giáo dục lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, MácĂngghen, Lênin đã từng đề cập đến. Các ông chỉ rõ sự cần thiết đó bởi những
lí do: Để học thuyết Mác thấm sâu vào trong cuộc sống, phát huy được hiệu
qủa trong hoạt động thực tiễn thì cần phải có những con người vận dụng và
thực hành nó. Vì "tư tưởng căn bản tốt không thực hiện được cái gì hết. Muốn
thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn"
[22, tr.181], đó là "bộ phận đứng trên xã hội", và bản thân họ "… bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục" 24, tr. 10 . Vì vậy, để trở thành
những nhà lãnh đạo giỏi, có khả năng xoay chuyển tình thế, thúc đẩy xã hội
phát triển, họ cần phải hiểu biết, nắm vững l í luận chính trị và có nghĩa vụ
phải nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện nó. Về vấn đề này Lênin cũng đã từng
nói: "… cần phải làm sao để những tư tưởng đó (chủ nghĩa Mác) bắt rễ sâu
hơn vào một thế giới được rèn luyện hơn, và phải làm cho đội tiên phong ấy…
thấm nhuần những tư tưởng đó" [22, tr.559].
Như vậy, Mác, Ăngghen, Lênin - những lãnh tụ thiên tài của giai cấp
công nhân đã chỉ ra rất rõ: muốn chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi, trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội, đòi hỏi phải có lực lượng tiên phong,

của giai cấp công nhân, đó là những cán bộ lãnh đạo. Đội ngũ này phải được
giáo dục, nhận thức, hiểu biết một cách sâu sắc về lí luận của chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở đó, họ được nâng cao về bản lĩnh chính trị, năng lực chỉ đạo hoạt
động thực tiễn để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
Mác, Ăngghen và Lênin coi việc giáo dục, bồi dưỡng lí luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi Đảng
Cộng sản, đồng thời coi đây là điều kiện dẫn đến mọi thắng lợi của các phong
trào cách mạng. Về điều này, Ăngghen đã từng nói khi nhận xét về giai cấp
15


vô sản, cũng như khi nói đến nguyên nhân chậm phát triển của phong trào
công nhân ở Anh. Ông cho rằng, nhờ được giáo dục lí luận chính trị, giai cấp
vô sản "… sẽ có khả năng đảm nhận vai trò lãnh đạo nhờ sự hơn hẳn về l
luận và kinh nghiệm thực tiễn của mình" [24, tr.484] và "… sự thờ ơ đối với
mọi l luận, một trong những nguyên nhân chủ yếu giải th ch tại sao phong
trào công nhân Anh tiến rất chậm, mặc dầu tổ chức tuyệt vời của một số công
đoàn cá biệt" [21, tr.632]
Bên cạnh việc tăng cường học tập, nghiên cứu lí luận, những cán bộ
lãnh đạo của Đảng còn cần phải phổ biến cho quần chúng nhân dân những
vấn đề mà mình rút ra được từ việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác, đưa lí
luận đó vào trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt đối với những người làm công
tác tư tưởng. Điều này đã được Lênin nói: "Không thể là một nhà lãnh đạo tư
tưởng mà lại không làm công tác l luận…, cũng như không thể là một nhà
lãnh đạo tư tưởng mà không hướng công tác đó theo những nhu cầu của sự
nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân những kết luận của l luận
đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại" [20, tr.382].
1.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp
cơ sở - yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với công tác xây dựng Đảng của
Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm, chú trọng đến công tác giáo
dục lí luận chính trị cho cán bộ. Người coi đây là điều kiện tiên quyết đảm
bảo cho Đảng vững mạnh, cho cách mạng giành được thắng lợi. Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Đảng muốn vững thì phải lấy chủ nghĩa Mác làm nòng cốt,
trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải làm theo chủ nghĩa ấy" [22,
tr.259]. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam, Hồ Chí Minh đã cho mở lớp bồi dưỡng lí luận chính trị cho
cán bộ. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc) với cuốn sách lí luận đầu
16


tiên "Đường kách mệnh" do chính mình biên soạn, Người đã tổ chức lớp bồi
dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ - những hạt giống của cách mạng Việt
Nam. Bằng những hạt giống này, với phong trào "vô sản hoá" chủ nghĩa Mác
- Lênin đã được tuyên truyền sâu rộng trong giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động. Trong suốt qúa trình chỉ đạo cách mạng sau này,
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải không ngừng học tập lí luận
cách mạng và vận dụng sáng tạo lí luận đó vào trong hoạt động thực tiễn.
Người nói: "… mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học l luận, phải đem l luận
áp dụng vào công việc thực tế, phải chữa cái bệnh kém l luận, khinh l luận
và l luận suông" 25, tr.234-235 . Vì theo Người, phải có lí luận mới hiểu
được mọi công việc trong xã hội, trong phong trào, để từ đó đề ra được chủ
trương đúng và hành động đúng.
Mặt khác, học tập lí luận không chỉ nhằm nâng cao trình độ lí luận
chính trị, mà còn để hình thành trong mọi cán bộ những tư tưởng, đạo đức
cách mạng, giúp cho họ trở thành những con người vừa hồng, vừa chuyên.
Đương nhiên, để việc học tập có hiệu qủa cao phải có động cơ, phương pháp
học tập đúng đắn, phải có nội dung, chương trình học tập phù hợp, việc học
tập phải thực sự thiết thực phục vụ cho công tác hoạt động thực tiễn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Đảng ta tổ chức trường l luận cho

cán bộ là để nâng cao trình độ l luận của Đảng ta, đặng giải quyết sự đòi hỏi
của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể
làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng của
mình" [21, tr. 492].
Như vậy, mục tiêu trước hết mà vì nó mà Đảng đẩy mạnh công tác
giáo dục lí luận chính trị là để tạo ra sức mạnh cho Đảng, đảm bảo cho Đảng
lãnh đạo cách mạng thắng lợi. Vì muốn mạnh, muốn hoàn thành nhiệm vụ
chính trị của mình thì Đảng phải tự trang bị cho mình lí luận Mác - Lênin;
17


Đảng phải giáo dục mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng nắm vững những vấn đề
cơ bản của chủ nghĩa đó và thực hành nó trong hoạt động thực tiễn. Với tinh
thần đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ mục tiêu của công tác
giáo dục lí luận chính trị của Đảng phải coi việc nâng cao trình độ lí luận Mác
- Lênin cho cán bộ, đảng viên là một việc làm thường xuyên của Đảng.
Ngoài mục tiêu cơ bản trên, công tác giáo dục lí luận của Đảng còn
nhằm đến mục tiêu hết sức quan trọng đó là nâng cao năng lực, trình độ của
cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Đối với cán
bộ chủ chốt - những người trực tiếp triển khai đường lối của Đảng trong hoạt
động thực tiễn, điều kiện cơ bản không thể thiếu là phải có năng lực chuyên
môn cao, bao gồm cả năng lực về lí luận và thực tiễn. Chỉ có như vậy mới chỉ
đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Muốn vậy, cán bộ phải được đào tạo, bồi
dưỡng để nâng cao trình độ, trong đó giáo dục lí luận chính trị là một yêu cầu
cơ bản.
Đối với giáo dục lí luận chính trị, ngoài việc tăng cường giáo dục, học
tập cho toàn Đảng, Đảng đặc biệt chú trọng đến đội ngũ cán bộ chủ chốt. Điều
này đã được nói đến trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III:
Việc tổ chức học tập l luận Mác - Lênin một cách hệ thống trước hết
trong cán bộ cao cấp và trung cấp là rất cấp bách để đảm bào cho cán bộ,

đảng viên ta nắm được những hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin và
biết sử dụng những hiểu biết đó vào việc xem xét và giải quyết những vấn đề
cụ thể …[25, tr. 154].
Vấn đề này càng được thể hiện rõ hơn trong các nghị quyết về công tác
đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị của Đảng. Nghị quyết 210 của Ban Bí thư
khoá (III), Nghị quyết số 23 của BCHTW (khoá III), Kết luận số 57-KL/TW
của BCH TW, Kết luận 94-KL/TW của BCHTW... đã thể hiện rất rõ điều
này. Để nâng cao trình độ lí luận chính trị của cán bộ, đi đến thực hiện tiêu
18


chuẩn hoá từng loại cán bộ, Ban Bí thư đã đề ra nhiệm vụ biên soạn giáo trình
và tiến hành giáo dục cán bộ, đảng viên theo ba cấp chương trình cơ bản: sơ
cấp, trung cấp, cao cấp; tổ chức hệ thống trường Đảng: Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, các trường Đảng tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính
trị huyện… Đồng thời, đề ra nhiệm vụ quy hoạch cán bộ với nội dung quan
trọng là tiêu chuẩn hoá trình độ lí luận chính trị của mỗi cán bộ ở các chức vụ.
Để cụ thể hóa quan điểm trên, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX khẳng định: "Trước hết phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng ch nh
trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cán nhân. Toàn Đảng
nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Ch Minh. Các cấp
uỷ và các chi bộ tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập, rèn luyện
không ngừng nâng cao trình độ ch nh trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ,
kiến thức lãnh đạo, quản l và công tác vận động nhân dân… " [12, tr.53].
Bên cạnh đó, văn kiện này cũng xác định: "Xây dựng chỉnh đốn hệ thống các
học viện, trường và trung tâm ch nh trị, nâng cao chất lượng hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, trước hết đối với cán bộ lãnh đạo và quản l các cấp,
chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập" [12, tr142]; "Cần
đổi mới mạnh mẽ chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học l luận,
coi trọng chất lượng và t nh hiệu quả" 12, tr.135 . Kết luận của Hội nghị

trung ương 6 (khoá IX) tiếp tục nhấn mạnh: "Trên cơ sở quy hoạch, đẩy mạnh
việc đào tạo, đào tạo lại cán bộ theo chức danh và cán bộ nguồn, nâng cao
chất lượng và hiệu qủa công tác đào tạo… " [13, tr. 231].
Phải nắm rõ các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, người cán bộ cấp cơ sở mới có khả năng vận dụng sáng tạo lí
luận đó vào hoàn cảnh cụ thể của từng lĩnh vực, từng địa phương mình phụ
trách. Qua đó, góp phần bổ sung, phát triển làm phong phú thêm đường lối,
chính sách của Đảng bằng những kết luận mới được rút ra trong quá trình hoạt

19


động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy: Đã lựa chọn đúng cán bộ
còn phải dạy bảo lí luận cho cán bộ. Chỉ thực hành mà không có lí luận cũng
như có một mắt sáng, một mắt mờ. Người còn chỉ rõ: "Có học tập l luận Mác
- Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao
sự hiểu biết và trình độ ch nh trị, mới làm tốt công tác Đảng giao phó cho
mình" 28, tr.247 . Đối với cán bộ chủ chốt, Bác càng nhấn mạnh sự cần thiết
phải không ngừng học tập, nghiên cứu lí luận Mác - Lênin và đó là lí luận
thiết thực, chỉ đạo cho hành động. Nắm lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin không
phải "để trang sức" mà nắm cái tinh thần xử trí đối với việc, đối với người,
đối với mình để "sống với nhau có tình có nghĩa", là nắm những chân lí phổ
biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế
của nước ta.
Từ những yêu cầu đặt ra đối với công tác giáo dục lí luận chính trị cho
cán bộ cho thấy, Đảng ta không chỉ quan tâm, đẩy mạnh giáo dục lí luận
chính trị cho cán bộ về mặt số lượng trên diện rộng, mà còn đặc biệt chú trọng
đến chất lượng công tác này. Đảng coi đây là yêu cầu quan trọng hiện nay. Vì
chỉ trên cơ sở nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lí luận chính trị, mới có
thể nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt trên các mặt như năng

lực chỉ đạo hoạt động thực tiễn cũng như phẩm chất, đạo đức cách mạng. Đây
là những tiêu chuẩn cơ bản không thể thiếu đối với cán bộ lãnh đạo trong thời
kỳ mới.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lí luận chính trị cho cán bộ,
Đảng yêu cầu phải chống các biểu hiện tiêu cực trong giảng dạy và học tập,
đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học lí luận.
Từ sự phân tích trên cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm,
chú trọng đối với công tác giáo dục lí luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở. Đảng nhận thức vai trò của lí luận chính trị đối với công tác
xây dựng Đảng từ rất sớm.
20


1.4. Vị trí, vai trò của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong hệ thống
chính trị và vai trò của lý luận chính trị đối với hoạt động lãnh đạo của
đội ngũ này.
1.4.1. Một số quan niệm về cán bộ và cán bộ chủ chốt cấp cơ sở trong
hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm rất cụ thể về cán bộ. Theo
Người, cán bộ là "người đem đường lối ch nh sách của Đảng, của Ch nh
phủ giải th ch cho dân chúng được rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Ch nh phủ hiểu rõ để đặt ch nh sách
cho đúng" 25, tr. 269 . Như vậy, Theo Hồ Chí Minh, cán bộ là lực lượng
nòng cốt của Đảng và Nhà nước làm nhiệm vụ triển khai, hướng dẫn, tổ
chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước với quần chúng
nhân dân.
- Đề tài KHXH 05.03 “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng làm chủ nhiệm cho rằng:
"Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, có vai trò và cương vị

nòng cốt trong một tổ chức, có tác động ảnh hưởng đến hoạt động của tổ
chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản l , điều hành, góp phần
định hướng sự phát triển của tổ chức" 31, tr20 . Đồng thời, đề tài cũng xác
định khái niệm cán bộ có thể được dùng trên hai khía cạnh khác nhau: cán bộ
theo nghĩa chung nhất là công chức, nhưng đồng thời, cán bộ cũng được hiểu
là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo.
Dưới góc độ cán bộ là "người chỉ huy", "người phụ trách", "người lãnh
đạo", đề tài trên đã xác định rất rõ những yếu tố để có thể cấu thành người cán
bộ lãnh đạo là:
- Là khung, là nòng cốt của chế độ mới, của hệ thống chính trị, hệ
thống kinh tế, hệ thống văn hoá của đất nước.
21


- Là chỉ huy, phải có trình độ giác ngộ chính trị cao, đạo đức tốt, có
chuyên môn giỏi.
- Là nòng cốt, thể hiện bản lĩnh kiên định, vững vàng trước mọi khó
khăn, thực sự là nòng cốt, lực lượng chủ chốt trong một tổ chức.
Về khái niệm cán bộ chủ chốt PGS.TS Trần Xuân Sầm đã nêu: "Cán bộ
lãnh đạo chủ chốt là những cán bộ lãnh đạo nhưng là lãnh đạo toàn diện có
trọng trách nặng nề nhất, có quyền thay mặt tập thể lãnh đạo giải quyết các
vấn đề và chịu trách nhiệm trước tập thể" [30, tr139].
Vậy căn cứ vào đâu để xác định cán bộ chủ chốt. Theo tác giả phải dựa
trên một số tiêu chí sau:
Một là, phải xác định rõ trong một hệ thống gồm nhiều tổ chức, đâu là
những tổ chức nắm vai trò trọng yếu, quyết định sự phát triển trong hệ thống
đó.
Hai là, trong mỗi tổ chức giữ vai trò trọng yếu đó trong hệ thống, ai là
cán bộ lãnh đạo, là người đứng đầu giữ cương vị quyết định xu hướng vận
động, phát triển của tổ chức đó.

Như vậy, cán bộ chủ chốt trước hết phải được xác định đó là lực lượng
nòng cốt của Đảng, Nhà nước; là những cán bộ lãnh đạo. Do đó, ở đây khái
niệm cán bộ chủ chốt hay cán bộ lãnh đạo chủ chốt đều có thể được hiểu như
nhau. Từ lý giải đó, theo tác giả, cán bộ chủ chốt là những người thuộc lực
lượng nòng cốt, giữ cương vị chỉ huy, phụ trách trong một tổ chức, một tập
thể. Họ có trách nhiệm đề ra đường lối, phương hướng và tổ chức thực hiện
để đạt được những mục tiêu nhất định.
Việc xác định các chức danh cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị
nói chung, trong hệ thống chính trị cấp xã nói riêng một mặt cần căn cứ vào
tính chất công việc, vai trò của mỗi tổ chức nằm trong chỉnh thể hệ thống
chính trị ấy. Mặt khác, cần căn cứ vào cơ chế hoạt động, tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức ấy với tư cách một tiểu hệ thống.
22


×