Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt thành phố hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.98 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

HỒ THỊ HƯƠNG GIANG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT THÀNH PHỐ
HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------

HỒ THỊ HƯƠNG GIANG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT THÀNH PHỐ
HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Minh Quân


Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lê Minh Quân. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hồ Thị Hương Giang

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................1
Chương 1. MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH
CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO,
QUẢN LÝ CHỦ CHỐT ................................................................................8
1.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ...............................................................................................8
1.2. Chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt và tiêu chí đánh giá
chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt .............................................19
Chương 2. QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CHẤT LƯỢNG
QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT Ở
THÀNH PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY ..........................................................32
2.1. Khái quát về Thành phố Hà Tĩnh, đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh và công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay ............................................32

2.2. Đánh giá chất lượng và kết quả quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay .........................................................41
Chương 3. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
CHỦ CHỐT Ở THÀNH Ở PHỐ HÀ TĨNH HIỆN NAY ...........................53
3.1. Những quan điểm về nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh ...........................................................53
3.2. Những giải pháp về nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay ............................................59
KẾT LUẬN .....................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................85
PHỤ LỤC........................................................................................................88

ii


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT


: Hệ thống chính trị

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQ

: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đánh giá vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc"[3, tr.269]; "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do
cán bộ tốt hoặc kém" [31, tr.240]. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách
mạng đều khẳng định và đánh giá rất cao vai trò đội ngũ cán bộ và công tác
cán bộ. Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) của Đảng xác định: Cán bộ có
vai trò cực kỳ quan trọng, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đổi mới;
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước nhấn mạnh: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ,
là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [20, tr.66]. Từ đó, Đảng,

Nhà nước ta đã tập trung nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp,
các lĩnh vực ngày càng lớn mạnh. Trong quá trình đó, cùng với các khâu khác
trong công tác cán bộ, quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu, đảm bảo
cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Tổng kết thực hiện ba nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khóa
VII và khoá VIII về công tác tổ chức và cán bộ, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã đề ra nhiệm vụ: Tăng cường công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý. Đặc biệt quan tâm tạo nguồn cán bộ
lãnh đạo, quản lý trẻ có thành tích xuất sắc, những cán bộ xuất thân công
nhân, con em công nông, gia đình có công với cách mạng, cán bộ dân tộc
thiểu số, cán bộ nữ. Trên cơ sở quy hoạch, đẩy mạnh việc đào tạo, đào tạo lại
cán bộ theo chức danh và cán bộ dự nguồn.
Tháng 11 năm 2004, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết số 42 - NQ/TW về
1


Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước. Đây là lần đầu tiên Đảng ta ban hành một nghị quyết chuyên đề
quan trọng về công tác quy hoạch cán bộ.
Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý, và các văn bản hướng dẫn của Tỉnh ủy, Trung ương, Ban
Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh đã ban hành các nghị quyết, hướng dẫn về công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong Thành phố. Qua thực
hiện, công tác quy hoạch cán bộ đã có bước chuyển biến rõ nét về nhận thức
và đạt được những kết quả: các ban, ngành, đoàn thể cấp thành phố và các xã,
phường, đảng ủy trực thuộc đã tiến hành xây dựng quy hoạch cán bộ, đồng
thời, chỉ đạo cấp dưới tiến hành quy hoạch cán bộ đối với các chức danh đã
phân cấp. Quy hoạch cán bộ nhìn chung đã được các đơn vị thực hiện theo

đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, công khai, thực hiện theo
đúng quy trình, phương châm, tạo được nguồn cán bộ, góp phần khắc phục
dần tình trạng bị động, lúng túng trong công tác cán bộ.
Tuy nhiên, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý của Thành phố
cũng còn những thiếu sót, khuyết điểm: còn tình trạng khép kín trong công tác
quy hoạch cán bộ; tình trạng hẫng hụt cán bộ lãnh đạo, quản lý xảy ra ở một
số nơi; chất lượng cán bộ trong quy hoạch chưa cao; chưa khắc phục tình
trạng bị động, lúng túng trong lựa chọn nhân sự, v.v..
Thực tiễn công tác cán bộ và công tác quy hoạch cán bộ ở Thành phố Hà
Tĩnh nói chung, quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà
Tĩnh quản lý nói riêng hiện nay đòi hỏi phải làm tốt công tác quy hoạch cán
bộ đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài cho sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà hiện nay” làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Những năm gần đây, công tác quy hoạch cán bộ đã được nhiều địa
phương, nhiều cơ quan và nhiều nhà nghiên cứu đề cập. Nhiều đề tài khoa
học, luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ và các công trình nghiên cứu khác đã
được nghiệm thu, công bố, đăng trên sách, báo, tạp chí chuyên ngành.
a) Các đề tài khoa học:
Đề tài khoa học cấp nhà nước (2005), Những vấn đề lý luận và thực tiễn
về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm.
b) Sách:
TS. Đỗ Minh Cương (2009), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb
CTQG, Hà Nội.

c) Các bài Tạp chí khoa học:
PGS.TS Tô Huy Rứa (1998), Đào tạo, bồi dưỡng phục vụ tốt công tác
quy hoạch cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 21. Chu Văn Rỵ (1997), Xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là người đứng đầu, Tạp chí Cộng
sản, số 5. Trần Phước Hường (1998), Tính cấp thiết của vấn đề quy hoạch cán
bộ Thành phố Đà Nẵng hiện nay, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 9. Nguyễn Văn
An (1998), Tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, làm tốt quy hoạch cán bộ là
nhiệm vụ trọng yếu của công tác xây dựng Đảng về tổ chức trong năm 1998,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 3. PGS.TS Tô Huy Rứa (1997), Xây dựng và thực
hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đổi mới, Tạp chí Cộng sản, số 3.
PGS Lê Văn Lý (1999), Quan niệm khoa học về quy hoạch cán bộ- lịch sử
vấn đề và quá trình tiếp cận vấn đề, Tạp chí Thông tin lý luận, số 6. PGS.TS
Tô Huy Rứa (1999), Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ
trong thời kỳ mới, Tạp chí Cộng sản, số 3. TS. Ngô Kim Ngân (2002), Công
tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị- một số giải
3


pháp chủ yếu, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6. Hà Đăng (2003), Về vấn đề cán bộ
và quy hoạch cán bộ, Tạp chí Cộng sản, số 8. PGS.TS Trần Đình Hoan
(2003), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước, Tạp chí Cộng sản, số 33. TS. Nguyễn Duy Hùng (2003), Mối quan
hệ giữa đánh giá, quy hoạch, đào tạo và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản
lý, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5. Nguyễn Phương Hồng (2005), Về công tác
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Tạp chí Cộng sản, số 4. PGS.TS Nguyễn
Trọng Điều (2005), Về đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 20/2005.
c) Các luận văn, luận án:
Trần Đình Thấu (2000), Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Tỉnh ủy quản lý ở tỉnh Đồng Nai, Luận văn Thạc sĩ

Khoa học chính trị chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nguyễn Thái Sơn (2002), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, Luận án Tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam. Trương Thị Mỹ Trang (2004), “Quy hoạch đội ngũ cán
bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã ở tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Lan (2005), Công tác quy hoạch tạo
nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý của Thành phố Hồ Chí Minh- thực trạng và
giải pháp, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trần Cát Điền (2005), Công tác quy hoạch cán
bộ chủ chốt cấp quận thuộc diện thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh quản lý
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Thắng (2006),
Công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện
4


Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nguyễn Ngọc Lâm (2006), Quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt thuộc diện Trung ương quản lý ở các tỉnh, thành phố khu vực phía
Bắc nước ta giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị,
chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoàng Nguyên Hoà
(2007), Chất lượng quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trần
Thị Thanh Nhàn (2007), Quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt thuộc diện Ban
Thường vụ Quận ủy Hoàng Mai,Thành phố Hà Nội quản lý giai đoạn hiện
nay, Luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng

Cộng sản Việt Nam. Phạm Minh Phúc (2008), Công tác quy hoạch cán bộ
chủ chốt diện Ban Thường vụ Thành ủy Thành phố Cần Thơ quản lý trong
giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên ngành Xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các đề tài khoa học, sách, bài tạp chí, luận văn, luận án trên đã làm rõ
những cơ sở khoa học chung của công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản
lý và đưa ra các giải pháp có tính giai đoạn (chủ yếu phù hợp với giai đoạn
trước đây).
Còn công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý giai đoạn hiện nay của
Thành phố Hà Tĩnh chưa được tổng kết và chưa có đề tài nghiên cứu để rút ra
những kinh nghiệm, xác định cơ sở khoa học, làm rõ các quan điểm, nhận
thức và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch
cán bộ của Đảng bộ Thành phố nói chung và quy hoạch cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý nói riêng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH của Thành phố.
5


3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những căn cứ lý luận và thực tiễn cơ bản, cần thiết và
có liên quan, luận văn đề xuất một số phương hướng cơ bản và giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác cán bộ và quy
hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý.
- Đánh giá thực trạng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường
vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý thời gian qua (từ năm 2010 đến nay).
- Xác định phương hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu

nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường
vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay (2011 - 2015) và những năm
tiếp theo.
3.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là vấn đề chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay.
Khách thể nghiên cứu là công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh hiện nay; là đội ngũ cán bộ trong diện quy
hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý và công
tác quy hoạch đội ngũ cán bộ này giai đoạn hiện nay. Các chức danh bao
gồm: Ủy viên BCH Đảng bộ thành phố; Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy;
Trưởng ban, phó trưởng ban các ban đảng Thành ủy và tương đương; Chủ
tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND thành phố; Chủ tịch, Phó chủ tịch
UBMTTQVN thành phố; cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội
cấp thành phố; Bí thư, Phó bí thư của các xã, phường; Chủ tịch, Phó chủ tịch
HĐND, UBND các xã, phường.
6


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề quy hoạch cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý từ 2010 đến nay, nhất
là quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các chức danh chủ chốt cấp
thành phố, cấp xã, phường nhiệm kỳ 2010 - 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ
nói chung và công tác quy hoạch cán bộ nói riêng; các nghị quyết của Đảng
bộ tỉnh Hà Tĩnh, của Thành ủy Hà Tĩnh về cán bộ và quy hoạch cán bộ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Sử dụng tổng hợp các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lô gíc và lịch sử đồng thời
chú trọng phương pháp tổng kết kinh nghiệm, điều tra, khảo sát, thống kê,
tổng hợp và phương pháp phân tích số liệu, tổng kết thực tiễn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện nay.
Làm rõ chất lượng và tiêu chí đánh giá chất lượng công tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện
nay.
Nêu những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý giai đoạn hiện
nay và những năm tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kiến nghị, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

7


Chương 1
MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY HOẠCH CÁN BỘ VÀ CHẤT
LƯỢNG QUY HOẠCH CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ CHỦ CHỐT
1.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và quy hoạch cán bộ lãnh
đạo, quản lý chủ chốt
1.1.1. Khái niệm cán bộ và cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt; quy
hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt do Nhà xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển
học xuất bản năm 1998, cán bộ có hai nghĩa “1- Người làm công tác có
nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà nước; 2- Người làm công tác có

chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường không
có chức vụ” [34, tr. 105]. Theo Điều 1 của Pháp lệnh Công chức do Ủy ban
Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/3/1998 thì: “Cán bộ, công chức là công
dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách”. Từ những quan
niệm trên có thể hiểu “cán bộ” là khái niệm dùng để chỉ những người ở trong
cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn thành nhiệm vụ theo
chức năng được tổ chức đó phân công.
Có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu trung lại, có hai cách hiểu cơ
bản: Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, các doanh
nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa
phương và cơ sở. Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ
quan hay một tổ chức để phân biệt với người không có chức vụ.
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn
đặc trưng cơ bản: - Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức khác trong HTCT, v.v. lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động. Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của
8


HTCT. - Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi
hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử. - Cán bộ
được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất lượng
hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm
việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được
hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ
bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và

dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, của Chính
phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của
dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
đúng" [30].
Luật cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 đã
quy định phân biệt rõ nét hơn ai là cán bộ, và ai là công chức, thể hiện ở Điều
4 như sau:
1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị Công an nhân
9


dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân
sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị
sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
3. Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ
chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư
Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công
dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ

thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.”
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt: là những người có chức vụ, có vai
trò nòng cốt trong hệ thống chính trị, có tác động, ảnh hưởng lớn đến hoạt
động của hệ thống chính trị, góp phần quyết định vào sự nghiệp xây dựng và
phát triển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc
phòng, an ninh, xây dựng Đảng… ở địa phương.
Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt là việc lập dự án xây dựng
đội ngũ cán bộ, dự kiến bố trí, sắp xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một ý đồ
nhất định, làm cơ sở lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ đó đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ của thành phố giai đoạn hiện nay.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý là những
đồng chí: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Ủy viên Ban Thường
vụ Thành ủy; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND Thành phố; trưởng, phó
các ban Đảng và tương đương; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBMTTQVN Thành
phố; cấp trưởng, cấp phó các đoàn thể chính trị - xã hội cấp Thành phố; Bí
thư, Phó bí thư của các xã, phường; Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND
các xã, phường.
10


1.1.2. Nguyên tắc, phương châm và quy trình quy hoạch cán bộ và quy
hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt
1.1.2.1. Nguyên tắc quy hoạch cán bộ và quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt
Xuất phát từ những quan điểm cơ bản về công tác cán bộ của Đảng ta
hiện nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị và tổ chức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Công tác cán bộ phải dựa trên quan điểm giai cấp công nhân; giữ vững
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ;
nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tôn trọng

pháp luật và điều lệ của các tổ chức; phát huy trách nhiệm của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị. Nghị quyết số 42 - NQ/TW của Bộ Chính
trị về công tác quy hoạch cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước đã
nêu rõ các nguyên tắc trong công tác quy hoạch cán bộ.
Vận dụng các nguyên tắc vào công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ
chốt Thành phố Hà Tĩnh quản lý, phải đảm bảo các vấn đề chủ yếu sau:
Công tác quy hoạch cán bộ phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống
nhất của Thành ủy, đồng thời phát huy vai trò của chính quyền và các đoàn
thể, trên cơ sở mở rộng dân chủ, công khai:
Giữ vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý toàn diện
công tác cán bộ là yếu tố quan trọng trong công tác quy hoạch cán bộ. Công
tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh phải do
Thành ủy trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, đồng thời phát huy
vai trò, quyền hạn của các tổ chức trong hệ thống chính trị; trách nhiệm,
quyền hạn của người đứng đầu, của cơ quan tham mưu về công tác cán bộ;
phát huy dân chủ của cán bộ, công chức, quần chúng nhân dân, tính tích cực
cá nhân trong quá trình quy hoạch.
11


Phát huy và kế thừa những kết quả đã đạt được trong công tác quy hoạch
cán bộ của Thành phố trong những năm qua. Quy hoạch cán bộ phải được tiến
hành dân chủ và công khai trong phạm vi rộng để cán bộ, đảng viên, quần
chúng giám sát, giúp đỡ cán bộ đã được quy hoạch; cán bộ trong quy hoạch
có điều kiện phấn đấu, rèn luyện tốt hơn. Công khai từ khâu tuyển chọn
nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch đến quá trình đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện
thực tiễn và bố trí, sử dụng cán bộ. Dân chủ trong quy hoạch cán bộ là thực
hiện từ quy trình thăm dò đề cử cán bộ vào quy hoạch, công khai quy hoạch
và kết quả đánh giá quá trình phấn đấu của từng cán bộ trong quy hoạch để
cho toàn thể cán bộ, quần chúng được biết. Muốn vậy, Thành ủy phải tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát thường xuyên cán bộ trong quy hoạch, chú
ý lắng nghe ý kiến đánh giá, nhận xét của quần chúng đối với cán bộ để giúp
họ khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và cũng qua đó để đánh giá đúng
cán bộ.
Cần cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành các quy chế, chế độ
trong quy hoạch cán bộ. Xác định rõ trách nhiệm của cấp ủy, thường vụ,
người đứng đầu cơ quan tham mưu về công tác cán bộ. Xác định rõ mối quan
hệ giữa Thành ủy, UBND Thành phố, UBMT Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội Thành phố trong quy trình thực hiện quy hoạch đối với từng loại
cán bộ. Đây là vấn đề khó, cần có sự sáng tạo trong quá trình xây dựng quy
hoạch và sự nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm.
Công khai trong công tác quy hoạch cán bộ bao gồm: công khai kết quả
đánh giá cán bộ để đưa vào dự nguồn, công khai quy trình tuyển chọn cán bộ
và công khai quy hoạch. Việc công khai các khâu trên có lợi là tạo điều kiện
cho mọi người đều có thể biết và tham gia vào công tác nhận xét, đánh giá,
kiểm tra, giám sát cán bộ. Để từ đó nâng cao chất lượng cán bộ đưa vào quy
hoạch và đây cũng là cơ hội tốt để cán bộ nhìn lại mình mà có hướng phấn
đấu, phát huy những ưu điểm, sửa chữa những khuyết điểm.
12


Quy hoạch cán bộ phải xuất phát từ tình hình thực tiễn và dự báo được
yêu cầu phát triển của Thành phố, nắm chắc đội ngũ cán bộ hiện có:
Nắm chắc tình hình của Thành phố và dự báo nhu cầu phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội của đất nước, của Tỉnh, của Thành phố có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo nguồn cán bộ, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Dự báo
trước được về nhu cầu cán bộ, qua đó Thành ủy chủ động tìm nguồn cán bộ,
dự kiến kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để trong một thời gian nhất định, Thành
phố xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm với yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới. Dự báo sai nhu cầu phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội sẽ dẫn

tới việc tìm nguồn và đào tạo ra được những cán bộ không đáp ứng được yêu
cầu. Điều đó, không chỉ gây lãng phí lớn mà còn gây ra những tác hại nghiệm
trọng, làm trầm trọng hơn tình trạng hẫng hụt cán bộ. Để làm tốt công tác này,
Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, người đứng đầu các ban, ngành về công
tác tổ chức và cán bộ phải luôn được nâng cao trình độ để có được tầm nhìn
chiến lược trong công tác cán bộ.
Quy hoạch cán bộ phải đảm bảo tính khoa học và tính thực tiễn:
Quy hoạch cán bộ là công tác về con người, do đó, nó chỉ đạt được hiệu
quả cao nhất nếu biết kết hợp tốt giữa tính khoa học và tính thực tiễn. Tính
khoa học trong công tác quy hoạch thể hiện ở các quy trình đánh giá, lựa
chọn, giới thiệu, quyết định nguồn cán bộ đưa vào quy hoạch. Quy trình này
gồm các bước được thực hiện chặt chẽ và gắn kết với nhau. Vì thế, trong quá
trình thực hiện không được bỏ qua một bước nào thì công việc mới đạt hiệu
quả. Tuy vậy, thực tế cuộc sống cho thấy, có nhiều yếu tố thực tiễn sẽ tác
động, chi phối, ảnh hưởng đến công tác xây dựng và quyết định quy hoạch.
Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện theo quy trình, nhưng thực tế cho
thấy, có nhiều cán bộ được đánh giá là tốt khi đưa vào quy hoạch, nhưng đã
không phát huy được tác dụng và sau một thời gian phải đưa ra khỏi quy
13


hoạch. Có những cán bộ có năng lực công tác và sức khoẻ tốt, nhưng vì tuổi
cao nên đã không được xét duyệt đưa vào quy hoạch, gây ra những nỗi bức
xúc trong cán bộ, chưa phù hợp với tình hình cụ thể. Vì thế, công tác quy
hoạch không nên quá cứng nhắc, máy móc mà phải linh hoạt, tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh cụ thể. Muốn vậy, yếu tố quyết định là phải nắm chắc, hiểu rõ cán
bộ và đội ngũ cán bộ để không đưa nhầm người không xứng đáng vào quy
hoạch hoặc bỏ sót người xứng đáng.
1.1.2.2. Phương châm quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở
Thành phố Hà Tĩnh

Theo Nghị quyết 42 - NQ - TW của Bộ Chính trị, quy hoạch cán bộ phải
thực sự gắn kết với các khâu khác trong công tác cán bộ như: nhận xét, đánh
giá cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, sắp xếp, bố trí, sử dụng cán
bộ. Đánh giá đúng cán bộ là khâu quan trọng nhất, là tiền đề cho việc bố trí cán
bộ và cho quy hoạch cán bộ; đồng thời quy hoạch cán bộ là cơ sở để thực hiện
luân chuyển, đào tạo cán bộ cho nhu cầu trước mắt và lâu dài. Theo đó:
- Thực hiện quy hoạch “động” và “mở”: một chức danh có thể quy hoạch
nhiều người và một người có thể quy hoạch nhiều chức danh; quy hoạch phải
luôn được xem xét, đánh giá để bổ sung, điều chỉnh hằng năm, đưa ra khỏi
quy hoạch những người không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện, bổ sung vào
quy hoạch những nhân tố mới có triển vọng.
- Quy hoạch cán bộ phải đồng bộ từ trên xuống dưới; cấp trên chỉ đạo,
hướng dẫn cấp dưới quy hoạch cán bộ, lấy quy hoạch cán bộ cấp dưới làm
cơ sở cho quy hoạch cán bộ cấp trên; quy hoạch cấp trên thúc đẩy quy hoạch
cấp dưới.
- Quy hoạch cán bộ phải mang tính khoa học và thực tiễn, vừa tạo nguồn
cho việc đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vừa tạo động lực thúc đẩy,
phát huy nhân tố chủ quan, phấn đấu vươn lên của cán bộ, bảo đảm sự đoàn
14


kết trong sự phát triển của toàn đội ngũ cán bộ, đề phòng tư tưởng cơ hội,
chạy theo quy hoạch; không cứng nhắc, máy móc trong xây dựng và thực hiện
quy hoạch.
- Thực hiện công khai trong công tác quy hoạch cán bộ; cơ quan có thẩm
quyền quyết định quy hoạch thì quyết định phạm vi, đối tượng, thời điểm,
mức độ và cách thức công khai quy hoạch.
1.1.2.3. Quy trình trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt ở Thành phố Hà Tĩnh
Thực hiện Nghị quyết số 42 - NQ/Tv ngày 30/11/2004 của Bộ Chính

trị về công tác Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Căn cứ Hướng dẫn số 15 - HD/TCTW,
ngày 05/11/2012, đặc biệt là theo Kết luận số 24 - KL/TW ngày 05/6/2012,
Công văn số 3648 - CV/BTCTW ngàơy 03/4/2008 của Ban Tổ chức Trung
ương về việc thực hiện Nghị quyết số 42 - NQ/TW của Bộ Chính trị, Kế
hoạch số 22 - KH/TU ngày 28/2/2003, Hướng dẫn số 01 - HD/TU ngày
28/2/2003, Kế hoạch số 41 - KH/TU ngày 2/1/2007, Hướng dẫn số 06 HD/TC ngày 01/2/2007 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về “Hướng dẫn công tác
quy hoạch cán bộ”, Công văn số 1766 CV/BTCTU, ngày 14/1/2014, công văn
1271 - CV/TU ngày 03/7/2014 về thực hiện công tác quy hoạch cán bộ, Công
văn số 2179 - CV/BTC TU ngày 27/8/2014 về việc soát xét, bổ sung quy
hoạch cán bộ từ kinh nghiệm thực tiễn tiến hành công tác quy hoạch cán bộ
của Thành ủy Hà Tĩnh, có thể khái quát quy trình xây dựng quy hoạch cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Tĩnh quản lý gồm các bước và nội
dung sau:
Bước 1, chuẩn bị kế hoạch xây dựng quy hoạch:
Ban Thường vụ Thành ủy thảo luận, thống nhất việc rà soát, đánh giá
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện tại và đội ngũ cán bộ trong quy hoạch,
15


mặt mạnh, yếu của cán bộ, về số lượng, sự phân bố, cơ cấu (nhất là về trình
độ, độ tuổi, cán bộ xuất thân từ các thành phần, dân tộc, cán bộ nữ, v.v.). Phân
loại những cán bộ nào có triển vọng phát triển, cán bộ nào không có đủ điều
kiện tiếp tục tham gia trên cương vị cũ khóa tới; các trường hợp đến và sắp
đến tuổi nghỉ hưu do sức khỏe, năng lực; do hoàn cảnh, điều kiện cần sắp xếp
lại, v.v..
Xác định mục tiêu, yêu cầu, đối tượng của quy hoạch và dự báo
nguồn cán bộ. Ban Thường vụ Thành ủy xác định mục tiêu, yêu cầu nhiệm
vụ chính trị, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố là cơ sở để
xây dựng kế hoạch quy hoạch cán bộ diện Ban Thường vụ Thành ủy quản

lý. Khẳng định rõ các tiêu chuẩn chức danh cán bộ theo các quan điểm,
nguyên tắc của Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 của Bộ Chính trị
về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Căn cứ nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, yêu
cầu về bộ máy tổ chức, Ban Thường vụ Thành ủy dự kiến yêu cầu cán bộ cho
từng thời kỳ 5 năm, 10 năm. Xác định số lượng, các chức danh quản lý, các
yêu cầu về tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ quy hoạch; định hướng nguồn cán bộ
cho các chức danh được phân cấp quản lý và các chức danh chủ chốt.
Ban Thường vụ Thành ủy ra nghị quyết về kế hoạch xây dựng quy
hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý.
Bước 2, rà soát, đánh giá hiện trạng đội ngũ cán bộ:
Trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ, căn cứ kết quả công tác cụ thể của từng
cán bộ và đội ngũ cán bộ để phân loại cán bộ theo yêu cầu quy hoạch:
- Cán bộ đương chức trong quy hoạch có triển vọng phát triển, nhưng
cần được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực quản lý, tổ
chức thực tiễn.
16


- Cán bộ hoàn thành nhiệm vụ, ổn định công tác.
- Cán bộ cần phân công, bố trí lại (có thể đưa vào quy hoạch hoặc
không đưa vào quy hoạch).
- Cán bộ trong quy hoạch, nhưng không có chuyển biến tích cực hoặc
có hạn chế, cần đưa ra khỏi quy hoạch.
Bước 3, tổ chức lấy ý kiến giới thiệu cán bộ dự nguồn:
- Ban Thường vụ Thành ủy thảo luận, phân tích và thông qua các
phương án tổ chức lấy ý kiến giới thiệu cán bộ dự nguồn.
- Các Ban tham mưu về công tác cán bộ hướng dẫn các ban, ngành,
đoàn thể, các phường, xã tổ chức giới thiệu cán bộ đưa vào quy hoạch. Trong

quá trình này cần hướng dẫn kỹ về các tiêu chuẩn, điều kiện, khả năng, uy tín,
sức khỏe của cán bộ và quy trình mà Ban Thường vụ Thành ủy đã xác định.
- Tổ chức giới thiệu nguồn quy hoạch từ các ban, ngành, đoàn thể cấp
Thành phố chủ yếu là giới thiệu nhân sự lãnh đạo chủ chốt của cơ quan, địa
phương mình.
Đối với trưởng, phó các ban, ngành, đoàn thể cấp Thành phố phải lấy
ý kiến giới thiệu của cán bộ, công chức từ các đơn vị cơ sở qua hội nghị cán
bộ, công chức, viên chức đơn vị cơ sở. Tùy đặc điểm đơn vị mà thành phần
tham gia hội nghị có thể khác nhau. Người được giới thiệu không nhất thiết
làm việc ở đơn vị đó, nhưng phải đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn và có
khả năng đảm nhiệm được chức danh quy hoạch.
- Tổ chức hội nghị cán bộ chủ chốt của Thành phố lấy giới thiệu nhân
sự quy hoạch Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố, Ban Thường vụ, Bí thư,
Phó bí thư Thành ủy. Ban Tổ chức Thành ủy chủ động phối hợp với các Ban,
phòng tổng hợp, xử lý thông tin, đề xuất, thẩm định nhân sự.
- Tổ chức hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố nghiên cứu các
phương án do Ban Thường vụ Thành ủy chuẩn bị; trên cơ sở đó, bỏ phiếu kín
giới thiệu quy hoạch Ban Chấp hành, Ban Thường vụ, các chức danh khác.
17


Bước 4, hội nghị Ban Thường vụ Thành ủy thảo luận, phân tích và
thông qua các phương án cán bộ quy hoạch:
Các Ban tham mưu về công tác cán bộ tổng hợp và thẩm định tất cả
các cán bộ được giới thiệu để trình với Ban Thường vụ Thành ủy xem xét, lựa
chọn, lập danh sách cán bộ để biểu quyết đưa vào. Những đồng chí có trên
50% phiếu tín nhiệm mới đưa vào diện quy hoạch và báo cáo Ban Tổ chức
Tỉnh ủy.
Việc lập quy hoạch cán bộ đòi hỏi sự chuẩn bị thận trọng, công phu,
có quan điểm, lập trường giai cấp rõ ràng, bảo đảm về số lượng, chất lượng,

có cơ cấu phù hợp đảm bảo cho nhiệm kỳ trước mắt và lâu dài trong các
nhiệm kỳ tiếp theo. Tập thể Ban Thường vụ Thành ủy quyết định theo nguyên
tắc tập trung dân chủ và chịu trách nhiệm về danh sách cán bộ được đưa vào
quy hoạch.
Bên cạnh đó việc soát xét, bổ sung quy hoạch gắn với công tác nhân
sự đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 – 2020 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Hải
bám sát quy định về tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn vụ thể từng chức danh
cán bộ để lựa chọn đưa vào quy hoạch những đồng chí đảm bảo điều kiện,
tiêu chuẩn, có khả năng phát triển, quan tâm quy hoạch cán bộ trẻ, cán bộ nữ.
Chủ quy hoạch cán bộ lên chức cao hơn, không quy hoạch tái cử, tái bổ nhiệm
chức vụ đang đảm nhiệm. Đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những đồng chí
không đủ điều kiện, tiêu chuẩn hoặc tín nhiệm thấp.
Công tác quy hoạch cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà
Tĩnh quản lý phải được điều chỉnh, bổ sung hằng năm, sau mỗi kỳ kiểm điểm,
đánh giá cán bộ. Ban Thường vụ Thành ủy xem xét, bổ sung những nhân tố
mới, đồng thời đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ không còn đủ tiêu chuẩn,
điều kiện.
18


1.2. Chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, chủ chốt và
đánh giá chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt
1.2.1. Khái niệm chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, chủ chốt
Chất lượng là một phạm trù phức tạp và có nhiều quan niệm khác nhau.
Chất lượng là sự phù hợp với nhu cầu; Chất lượng là sự phù hợp với các yêu
cầu hay đặc tính nhất định; Chất lượng là sự sự thoả mãn nhu cầu thị trường
với chi phí thấp nhất, v.v.. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác
nhau nên có nhiều quan điểm về chất lượng khác nhau. Có một định nghĩa về
chất lượng được thừa nhận ở phạm vi quốc tế là: Chất lượng là mức độ đáp
ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có (Điều 3.1.1 của tiêu

chuẩn ISO 9000:2005, Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế). Theo đó, có thể hiểu
chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt là mức độ đáp ứng
các yêu cầu của của công việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý các ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị nhằm đạt những
mục tiêu nhất định.
Cụ thể hơn, chất lượng quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt là
mức độ đáp ứng các yêu cầu của của công việc bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp, các lĩnh vực của hệ thống chính trị kế
hoạch dài hạn (trong một giai đoạn cách mạng hoặc trong một nhiệm kỳ Đại
hội Đảng, HĐND, v.v.) sao cho mỗi cán bộ đều phát huy cao nhất năng lực,
phẩm chất của mình, nhằm hoàn thành có hiệu quả nhiệm vụ đảm nhận và
chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho giai đoạn tiếp theo. Quy hoạch cán bộ
là một hoạt động có ý thức, mang tính tích cực, chủ động của cơ quan có thẩm
quyền quản lý cán bộ nhằm xây dựng một cách có kế hoạch đội ngũ cán bộ
đồng đều về số lượng, ngày càng nâng cao về chất lượng, phù hợp về cơ cấu,
phát triển một cách bền vững, đáp ứng được các yêu cầu cho cả trước mắt và
lâu dài.
19


Quy hoạch cán bộ hiện nay theo Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị là một
hoạt động tổng thể ở cả tầm vĩ mô và vi mô, bao hàm nhiều loại quy hoạch
cán bộ khác nhau. Vì vậy, tính hệ thống, đồng bộ, cơ bản, liên thông, toàn
diện phải có ở trong tất cả các loại quy hoạch cán bộ. Theo ý nghĩa đó, quy
hoạch cán bộ là nền tảng cho công tác cán bộ của Đảng. Bản chất của quy
hoạch cán bộ là chú trọng tới việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng nhân
tài cho địa phương, đất nước và được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v..
Quy hoạch cán bộ là việc tạo nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai,
cho nên đây là công việc thường xuyên của các cấp ủy đảng. Nếu biết chủ

động tạo ra một cơ cấu nguồn cán bộ hợp lý sẽ kéo theo sự hình thành một cơ
cấu kinh tế phù hợp. Nếu không làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ dẫn đến
khủng hoảng về đội ngũ cán bộ.
Khác với các loại quy hoạch khác như quy hoạch đô thị, quy hoạch hệ
thống giao thông, thủy lợi là những quy hoạch ở trạng thái tĩnh, quy hoạch
cán bộ là quy hoạch về nhân sự, về con người, nên nó luôn luôn tồn tại ở
trạng thái “động”, luôn được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao cho phù hợp với
sự phát triển của xã hội.
Quy hoạch cán bộ liên quan đến nhiều khâu, nhiều quá trình gắn kết hữu
cơ với nhau, từ phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đến sắp xếp, bố trí, đánh giá và
luân chuyển cán bộ. Đối với những cán bộ ở một số lĩnh vực thì việc sắp xếp,
bố trí vào các cương vị được thực hiện trong bộ máy theo thẩm quyền quản lý
của Đảng, nhưng đối với những cán bộ do bầu cử thì việc sắp xếp còn tuỳ
thuộc vào quyết định bầu cử của cử tri và các đại biểu.
Công tác quy hoạch khác với công tác làm nhân sự. Công tác quy hoạch
nhằm mục đính chính là tạo nguồn cán bộ trẻ có triển vọng để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách và dự kiến bố trí họ vào các vị trí
lãnh đạo, quản lý trong nhiệm kỳ tới hoặc những nhiệm kỳ sau. Còn công tác
20


×